Ngày Thứ 1: PHÁP THOẠI 1

10 Tháng Mười Hai 201512:25(Xem: 8480)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh 
(Sīlaguṇa-Mahāthera)
NHẶT LÁ RỪNG XƯA 2
(Pháp Thoại An Cư 2015)

Nhà xuất bản Văn Học

Ngày Thứ Nhất
PHÁP THOẠI 01 (Tối ngày 16/6 ÂL)

 

Chúng ta vừa làm lễ xong, đã nguyện 3 lần câu Pāli: Imasmiṃ vihāre imaṃ temāsaṃ vassaṃ upemi (Con xin nguyện an cư suốt ba tháng tại ngôi chùa này).

Nguyện là đã thốt ra lời trước Tam Bảo rồi, linh thiêng lắm, không chơi giỡn được đâu, phải nghiêm túc chấp hành. Vậy trong ba tháng an cư này, từ hôm nay cho đến ngày 16/9 ra hạ, không ai được đi đâu, lại cấm tuyệt đi đêm, ngoại trừ ốm bệnh phải đi bệnh viện. Nếu có việc đột xuất bất khả thì phải trình báo, xin phép chư tỳ-khưu trong Ban Tri Sự, Quản Chúng... Nếu thầy tổ, cha mẹ bị bệnh, phật tử ở xa thỉnh mời việc quan trọng hoặc có việc của Tăng giao thì được đi không quá 7 ngày. Trong trường hợp này, vị tỳ-khưu phải lên chánh điện, thắp hương, chí thành đảnh lễ rồi nguyện: Anto sattāhe paṭinivattissāmi (Con nguyện sẽ trở về trong vòng 7 ngày). Tuy nhiên, nếu mặt trời mọc sớm ngày thứ 7 mà chưa về chùa thì xem như bị “đứt hạ!” Đứt hạ có nghĩa là mùa an cư ấy, vị ấy không được tính thêm tuổi hạ, coi như mất tuổi hạ.

An cư tạm hiểu là “ở yên”. Quanh năm thân tâm chúng ta không yên; không yên do áp lực công việc trong ngoài (suốt 5,6 tháng qua, chùa đã và đang xây dựng nhiều công trình); không yên do thân khẩu ý của chúng ta còn thô tháo; không yên do tham giận bất thường; không yên do còn ham chơi phù phiếm, không yên do nội tâm chưa được hoàn toàn kiểm soát; không yên do hằng trăm cái ngoại trần hấp dẫn lôi cuốn mê ly tác động, chi phối làm cho cái tâm của chúng ta nhúc nhích, máy động hoài, không yên được.

Vậy, an cư thì phải thật sự “ở yên” các con ạ! Trước là để báo đền ân đức Tam Bảo, sau đó là báo đền ân đức của chư thí chủ gần xa; sau rốt nữa là chúng ta sẽ nếm thưởng được, hân thưởng được năng lượng an lành của Pháp. Còn nữa, chỉ cần “ở yên” thôi là chúng ta tích luỹ không biết bao nhiêu pháp lành, bao nhiêu công đức, bao nhiêu sự thành tựu trong đời sống tu tập để khỏi phải uổng phí mái đầu xanh đã tự nguyện “cát ái ly gia”.

Ở yên có nghĩa là mắt tai mũi lưỡi thân ý phải yên, phải lặng; nói cách khác là cả ba nghiệp thân, khẩu ý đều yên, đều lặng.

Thân yên vì thân không sát sanh, trộm cắp, tà hạnh. Khẩu yên là vì khẩu không nói dối, không nói lời hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, rỗng không, vô ích, Ý yên là ý không tham, không sân, không tà kiến. Hoá ra chỉ ở yên thôi là chúng ta đã đang sống trong 10 nghiệp lành. Oai lắm! Xứng đáng lắm!

Nói thì nghe dễ vậy, nhưng làm thế nào để cho thân, khẩu, ý đều được yên, được lặng? Ngày này sang ngày khác, cái thân chúng ta luôn luôn cử động; cái tay cái chân luôn nhúc nhích, di động, chuyển động, đi đứng nằm ngồi, lại còn trăm công nghìn việc về cây, đá, cát, sạn, hoa cỏ... đổ mồ hôi hột. Vậy thì khi bắt nó ngồi yên thì nó phản ứng, nó “làm nũng” đủ kiểu! Cái khẩu cũng tương tợ vậy. Nó quen nói lung tung, lang tang. Nó quen bàn những chuyện vô ích. Nó quen nói xấu, tốt người này, khen, chê người kia. Nó quen say sưa chuyện trên trời dưới đất. Nó quen kể chuyện “tào lao”, “xịt bộp”. Nó quen cười ha ha, cười hi hi, cười tếu táo để nhạo người này, chọc người nọ. Nó quen tranh cãi, hiếu thắng. Nó quen thốt ra lời cộc cằn, thô lỗ. Nó quen mách lẻo, đấu láo, “buôn dưa lê”, “đâm bị thóc, thọc bị gạo”... Có nghĩa là rất nhiều người trong chúng ta, cái khẩu nó thiếu sự yên lặng cần thiết. Cái thân, cái khẩu đã vậy nhưng cái ý thì lại còn trầm trọng hơn, nhiều chuyện hơn, đa sự hơn. Nó lầm thầm đêm, lầm thầm ngày. Nó nghĩ tưởng lung tung. Nó là con vượn chuyền cành, nhảy nhót chí choé bắt hoa bẻ trái triền cao, lũng thấp. Nó là con ngựa bất kham phóng vọt dặm bụi mịt mù, không kể dặm đường xa ngái, đầu non cuối biển! Nó nghĩ đến những niềm vui, những thích khoái qua mắt tai mũi lưỡi thân. Nó chơi các trang mạng xã hội Facebook, Twitter... Nó vọng tưởng non này, núi kia.. Nó như Tôn Hành Giả, “cân đẩu vân” một cái thì ở đâu cũng tới: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hay a-tu-la chỉ trong nháy mắt!

Vậy thì muốn cho thân khẩu ý ở yên thì chúng ta phải ngồi yên, ngồi lặng; yên lặng từ ngoài da cho đến trong ruột, trọn vẹn cả thân tâm. Muốn làm vậy, muốn được vậy thì chúng ta phải tập thiền. Thầy nói tập thiền chứ chưa nói thiền định hay thiền tuệ. Tập thiền ở đây là ta tập ngồi yên, rứa thôi, ngồi yên như chơi vậy, chẳng có bản ngã sở đắc gì khi ta ngồi yên như ngồi chơi, có phải vậy không?

Bắt đầu ngày mai, ngoại trừ nhóm nhà trù bếp núc củi lửa, tất cả đại chúng, chư tăng ni chúng điệu chỉ lao động buổi sáng từ 7 giờ đến 9g30 là nghỉ; 10g30 chư tăng đi khất thực, trong chùa thôi, do thí chủ đặt bát mỗi ngày; 11g, 11g30 độ ngọ; 12g đến 13g tịnh chỉ; 13g 30... chúng ta bắt đầu tập thiền tịnh 2 thời buổi chiều (một thời cho Tăng và một thời cho Ni và tu nữ); buổi tối sau thời khoá tụng niệm, chúng ta có thời thiền tập thể (gồm tất cả chư tăng, chúng điệu và cả cư sĩ công quả trong chùa) cho đến 20 giờ. Và thời thiền nào thầy cũng có một pháp thoại ngắn từ 20 đến 30 phút.

Sau 20 giờ, chư tỳ-khưu ôn kinh, luật và tập tụng đọc Pāṭimokkha (Tứ thanh tịnh giới) để chuẩn bị cho các ngày sám hối, đọc tụng 227 học giới vào các ngày 15 và 30 tại các chùa (sa-di cũng tập tụng đọc). Chúng điệu thì học kinh, luật theo chương trình của sư giáo thọ.

Thế đấy, khái quát là vậy! Thầy nói ngắn nhưng cũng tạm đầy đủ những thông tin cần thiết. Cảm ơn đại chúng đã chú tâm lắng nghe. Và phải nguyện chấp hành nghiêm túc đó nghe!

(Cả chánh điện hoan hỷ cất tiếng “ Sādhu, sādhu – lành thay” vang rền...)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Tư 2016(Xem: 6254)
FAQ: Làm sao để biết ai là người hướng dẫn thực tập có khả năng? Phong trào MBSR đào tạo được khoảng chừng 9 ngàn người hướng dẫn chánh niệm tốt nghiệp từ cơ quan phụ trách đào tạo Oasis, trung tâm huấn luyện các giáo thọ chuyên nghiệp. Có chừng 18 ngàn bệnh nhân đã theo học các khóa MBSR ở UMass và một số lớp khác tổ chức tại địa phương. Để bảo vệ chất lượng huấn luyện các cơ sở này có giáo chức huấn luyện và chương trình giảng dạy hoàn bị. Ngoài ra còn có các trung tâm nghiên cứu Chánh Niệm như ở đại học California- Los Angeles (UCLA) tổ chức một chương trình 6 tuần lễ dành cho những sinh viên hay nhân viên và giáo chức muốn trở thành giáo thọ Chánh Niệm...
14 Tháng Tư 2016(Xem: 6860)
Chúng ta hãy nói một chút về việc hành thiền (thiền tứ niệm xứ). Quí vị cần phải biết một số điểm quan trọng trước khi bắt đầu thực hành. Hành thiền có nghĩa là gì? Quý vị thực hành như thế nào? Trạng thái tâm quan sát ra sao, thái độ thế nào? Mục đích hành thiền của quý vị là gì? Quý vị cần có một ý niệm và mục đích rõ ràng trước khi bắt đầu thực hành. Quý vị không thể bắt đầu thực hành mà không có một số hiểu biết hay kiến thức về việc mình đang làm. Khi quý vị làm một việc gì đó, quý vị cần phải hiểu một chút về những nguyên tắc đối với việc mình đang làm. Chỉ như vậy quý vị mới gặt hái được lợi ích từ việc làm đó. ....
09 Tháng Tư 2016(Xem: 5894)
FAQ: Mức độ khả tín của hiệu quả thực tập Chánh niệm? Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như nhãn, nhĩ , tỵ , thiệt, thân và ý (thức) Thuật ngữ Phật giáo gọi là năm căn hay bình dân hơn là lục tặc (đeo trên người Phật Di Lặc) Đó là sáu cửa ngõ để thế giới bên ngoài xâm nhập vào Tâm...
04 Tháng Tư 2016(Xem: 5716)
Bài viết này sẽ trình bày rằng Thiền Tông là pháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy. Nói nguyên thủy, vì Thiền Tông chính từ lời Đức Phật dạy. Nói cốt tủy, vì nhiều cách an tâm trong Thiền Tông là từ các kinh, khi chư tăng cao niên xin dạy pháp ngắn gọn để sẽ lui về một góc rừng ngồi trọn đời cho tới khi giải thoát.
28 Tháng Tư 2016(Xem: 5843)
Câu hỏi: Chánh Niệm là phương pháp thực hành tâm linh của Phật Giáo hay một phương pháp phổ quát khoa học? Chánh Niệm là chú ý theo dõi một đối tượng nào đó với chủ đích, trong khoảnh khắc hiện tại, bàng quan, không phán đoán. Có bốn yếu tố chính (1) chú ý theo dõi (2) trong khoảnh khắc hiện tại (3) có mục đích (4) không phán đoán tất cả những đối tượng hay trãi nghiệm hiện ra trong tầm ý thức.
02 Tháng Ba 2016(Xem: 5545)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, với một tâm tư hoàn toàn tỉnh táo và sáng suốt, biết rõ đối tượng đang tiếp xúc hay thức tỉnh về việc mình đang làm. Nó là một hình thái thiền hành được áp dụng trong đời sống thường nhật, thể hiện qua việc chú tâm nhận biết hay chánh niệm tỉnh giác về các hoạt động của thân thể, vừa khiến cho tâm thức diễn tiến một cách thư thái, hài hòa, thông suốt, vừa khiến cho mọi hoạt động trở nên khoan thai, nhịp nhàng, chuẩn xác. Đây là một trong các phương pháp “quán thân trên thân” (kàye kàyànupassanà)1 hay pháp môn “thân hành niệm”(kàyagatasati)2 được nói đến trong kinh điển đạo Phật, nghĩa là chú tâm nhận biết hay quán niệm về các hoạt động hàng ngày của thân thể, khiến cho tâm trí trở nên định tĩnh, thanh tịnh, sáng suốt, đạt đến giải thoát và giải thoát tri kiến. Kinh Sa-môn quả, Trường Bộ nêu định nghĩa:
12 Tháng Giêng 2016(Xem: 9649)
Giống như trò chơi thể thao golf hay cả khi muốn luộc trứng tới mức hoàn hảo, mới đầu thực hành chánh niệm có vẻ dễ dàng. Nhưng lúc quý vị ngồi xuống tọa Thiền với đôi mắt nhắm hay mở – một chuyện không thể nào tránh được là quý vị không thể nào ngừng suy nghĩ
26 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10502)
Trong bài kinh Kalama nổi tiếng, thường được nhắc đến, Đức Phật đã đề ra mười điều mà ta không nên dựa vào để chọn người thầy hay để đi theo con đường tâm linh nào đó. Tất cả đều có liên quan đến một hệ thống niềm tin dựa vào truyền thống hay vào các cổ thư. Không tin nhưng ta phải tự tìm ra sự thật là điều Đức Phật thường nhấn mạnh. Nếu không làm thế, ta sẽ khó có được cái thấy nội tại, là bước đầu tiên đưa ta đến con đường đạo.
25 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6483)
Như Đức Phật đã nói: “Này các Tỳ kheo, đây là con đường trực tiếp để làm trong sạch chúng sinh, để vượt qua buồn đau và sầu bi, để chấm dứt sự khổ và phiền não, để đạt được con đường chánh đạo, để chứng ngộ Niết-bàn, được gọi là Bốn Nền Tảng Chánh Niệm.”
21 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 10600)
Vào thời Đức Phật có vị tỳ khưu tên Tuccho Pothila. Đại Đức Pothila rất thông minh, thấu suốt nằm lòng kinh điển. Ngài có đến mười tám ngôi chùa và được xem là một Pháp Sư lỗi lạc, khét tiếng đến nỗi mọi người đều tôn sùng kỉnh mộ. Khi nghe đến danh Đại Đức "Tuccho Pothila" ai cũng thán phục.