4. Giai Cấp Không Quan Trọng

06 Tháng Giêng 201916:10(Xem: 2850)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LỜI PHẬT DẠY
VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI
The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 
An Anthology of Discourses from the Pāli Canon
by
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications 2016
Việt dịch:
Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


Chương VII. CỘNG ĐỒNG THÀNH LẬP CÓ CHỦ ĐÍCH
 

 

4. GIAI CẤP KHÔNG QUAN TRỌNG

 

(1) Hòa nhập như sông chảy vào biển lớn

 

“ Cũng giống như, khi các sông lớn – như sông Ganges ( sông Hằng), sông Yamunā, sông Aciravatī, sông Sarabhū, và sông Mahī – chảy ra biển lớn, các sông này bỏ tên cũ và địa danh của chúng, và chỉ được gọi là biển lớn. Cũng vậy, khi thành viên của bốn giai cấp – Sát-đế-lỵ (khattiyas), Bà-la-môn ( brahmins) , Phệ-xá ( vessas), Thủ-đà ( suddas) (6) – sau khi xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình trong Pháp và Luật được Như Laituyên thuyết, họ từ bỏ tên và giai cấp trước kia và chỉ được gọi là các Sa môn đệ tử của Phật Thích Ca”.

 

                              ( Tăng Chi BK III. Ch 8 (II):19, tr562-563)

 

(2) Mọi người đều có thể chứng đắc mục tiêu tối thượng

 

“Giả sử có một cái hồ nước trong lành, mát mẻ dễ chịutrong suốt với bờ hồ mượt mà đẹp đẽ. Nếu có một người bị thời tiết nóng làm cháy da, kiệt sứcmệt mỏi, khô cổ, khát nước, đến từ phương đông hoặc phương tây, hoặc phương bắc hoặc phương nam, hoặc bất cứ nơi nào, khi đã đến hồ nước người ấy sẽ uống nước để giải trừ cơn khát và cơn sốt nóng bức. Cũng vậy, nếu  bất cứ người nào từ giai cấpSát-đế-lỵ, xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, hay từ giai cấp Bà-la-môn, hay từ giai cấp Phệ-xá, hay từ giai cấp Thủ-đà-la, sau khi được gặp Pháp và  Luật do Như Lai tuyên thuyết, người ấy phát triển tâm từ, bi, hỷ, xả, và từ đó đạt được nội tâm an tịnh, ta nói rằng chính nhờ nội tâm an tịnh, người ấy đã thực hành con đường đúng đắn của bậc sa-môn khổ hạnh.

 

“ Này các Tỷ-kheo, nếu  bất cứ người nào từ giai cấp Sát-đế-lỵ, xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, hay từ giai cấp Bà-la-môn, hay từ giai cấp Phệ-xá, hay từ giai cấp Thủ-đà-la, bằng cách tự mình chứng ngộ với thắng trí, ngay ở đây và bây giờ thể nhập và an trú vào tâm giải thoáttuệ giải thoát, nghĩa là tâm giải thoát mọi lậu hoặc nhờ đã đoạn trừ mọi cấu uế phiền não, thì  vị này là một sa mônkhổ hạnh vì đã đoạn trừ các lậu hoặc.

 

                              ( Trung BK I, Kinh số 40, tr 620- 622 )

 

(3)Tiêu chuẩn giá trị tâm linh

 

Đức Phật hỏi Vua Pasenadi ( Ba-tư-nặc):]

 

-  Thưa Đại vươngĐại vương nghĩ thế nào ? Giả sử Đại vương đang có chiến tranh và cuộc giao tranh sắp xảy ra. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đi đến, người này không được huấn luyện, không có kỹ năng, chưa thực hành, không có kinh nghiệmrụt rè, run rẫy, sợ hãi, sẵn sàng bỏ chạy . Đại vương có sử dụng người ấy không ?

 

-  Bạch Thế Tônchắc chắn là không.

 

- Rồi một thanh niên Bà-la-môn đi đến…, một thanh niên Phệ-xá…, một thanh niên Thủ-đà-la… người này không được huấn luyện… sẵn sàng bỏ chạy . Đại vương có sử dụng người ấy không ?

 

-  Bạch Thế Tônchắc chắn là không.

 

-   Thưa Đại vươngĐại vương nghĩ thế nào ? Giả sử Đại vương đang có chiến tranh và cuộc giao tranh sắp xảy ra. Rồi một thanh niên Sát-đế-lỵ đi đến, người này đã được huấn luyện, có kỹ năng, đã thực hành, có kinh nghiệm, gan dạ, can đảm, táo bạo, sẵn sàng giữ vững vị trí của mình . Đại vương có sử dụng người ấy không ?

 

- Bạch Thế Tôn, con sẽ sử dụng người ấy.

 

- Rồi một thanh niên Bà-la-môn đi đến...,  một thanh niên Phệ-xá…, một thanh niên Thủ-đà-la…,  người này được huấn luyện… sẵn sàng giữ vững vị trí của mình . Đại vương có sử dụng người ấy không ?

 

- Bạch Thế Tôn, con sẽ sử dụng người ấy.

 

- Cũng vậy, thưa Đại vương, khi một người đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, dù người ấy thuộc giai cấp nào, nếu người ấy đã đoạn trừ năm chi (năm  triền cái) và thành tựu năm chi (năm thiền chi), thì bố thí cho vị ấy được quả phước lớn. Năm chi nào đã được từ bỏ ? Tham dụcsân hậnhôn trầmtrạo hối và nghi. Năm chi nào người ấy đã thành tựu ? Ngưới ấy đã thành tựu giới uẩn vô học, định uẩn vô học, tuệ uẩn vô họcvô học giải thoát uẩn và vô học tri kiến giải thoát uẩn. Như vậy, bố thícho một vị đã đoạn trừ năm chi và thành tựu năm chi sẽ được quả phước lớn.

 

 

          Là một vị vua đang lâm chiến

          Sẽ sử dụng thanh niên thiện xảo cung tên,

          Người hùng mạnh kiên cường,

          Chứ không chọn người hèn yếu

          Dù nguồn gốc cao sang ,

          Cần vinh danh người hành xử cao thượng,

          Dù nguồn gốc thọ sanh thấp kém,

          Người hiền trí đã thành tựu

          Đức nhẫn nhục hiền hòa.

 

          Tương Ưng BK I, Ch, III , (III): IV, tr 219-222)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 11033)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11758)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9814)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 8032)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6139)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26112)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5999)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11755)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 6026)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6438)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.