1. Bố Thí

06 Tháng Giêng 201914:44(Xem: 3054)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LỜI PHẬT DẠY
VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI
The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 
An Anthology of Discourses from the Pāli Canon
by
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications 2016
Việt dịch:
Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN

1. BỐ THÍ

 

(1) Keo kiệt

 

“ Này các Tỷ-kheo, có năm loại keo kiệt. Thế nào là năm ? Keo kiệt về chỗ cư trú, keo kiệt về gia đìnhkeo kiệt về lợi nhuậnkeo kiệt về lời khen, và keo kiệt về Pháp. Đó là năm loại keo kiệt. Trong năm loại keo kiệt này, tệ hại nhất là keo kiệt về Pháp. Đời sống phạm hạnh được thực hiện bằng việc từ bỏ và đoạn trừ năm loại keo kiệt này.”

 

                                       ( Tăng Chi BK II, Ch.XXIV: 254-255, tr. 748-749)

 

(2) Thành tựu bố thí

 

“ Thế nào là thành tựu bố thí ? Ở đây, vị thánh đệ tử sống trong  gia đình với tâm không bị keo kiệt chi phốibố thí rộng rãi, bàn tay mở rộng để cho , vui thích từ bỏhết lòng làm từ thiện,  thích thú khi bố thí và chia sẻ.  Như vậy gọi là thành tựu bố thí.”

 

                                          ( Tăng Chi BK I, Ch.VII:61(6); tr 678 )

   

(3) Lý do để bố thí

 

“Này các Tỷ-kheo, có tám lý do để bố thí. Thế nào là tám? (1) Bố thí vì mong cầu.( 2) Bố thí vì sân hận.(3) Bố thí vì vọng tưởng.(4) Bố thí vì sợ hãi,(5) Người bố thí nghĩ rằng: “Trước kia cha ông ta đã bố thí, ta không nên từ bỏ truyền thống gia đình này”.(6) Người bố thí nghĩ rằng: “Sau khi ta thực hiện bố thí  này, khi thân hoại mạng chungsau khi chết, ta sẽ được tái sanh vào cõi thiện lành, vào  thiên giới ”.(7) Người bố thí nghĩ rằng: “Khi ta thực hiện bố thí  này, tâm của ta được thanh tịnh, và hoan hỷ sẽ khởi sinh”. (8) Người thực hành bố thí nhắm mục đích trang nghiêm tâm, làm tâm cao thượng.” Đây là tám lý do để bố thí.”

 

                                            ( Tăng Chi BK III- Ch IV:33; tr. 608 )

 

( 4) Bố thí của bậc chân nhân

- Này các Tỷ-kheo, có năm loại bố thí của bậc chân nhân. Thế nào là năm ?

 Vị ấy bố thí vì lòng tinbố thí  với sự kính trọngbố thí đúng thời; bố thí với tâm hào phóng; bố thí không làm tổn thương mình và  người khác.

(1) Do vị ấy bố thí vì lòng tin, bất cứ nơi nào quả của việc bố thí ấy chin muồi, vị ấy sẽ được giàu cósung mãnđại phú, và vị ấy có dung săc đẹp đẽ , thu hút, duyên dáng, được sở hữu làn da tuyệt đẹp.

(2) Do vị ấy bố thí với lòng kính trọng, bất cứ nơi nào quả của việc bố thí ấy chin muồi, vị ấy sẽ được giàu cósung mãnđại phú, và vợ con, nô tỳ, người đưa tin, người làm công , đều vâng lời, lắng nghe và  chú tâm để hiểu được chủ mình.

(3) Do vị ấy bố thí đúng thời, bất cứ nơi nào quả của việc bố thí ấy chin muồi, vị ấy sẽ được giàu cósung mãnđại phú, và các lợi lạc đến với vị ấy đúng lúc, và rất phong phú.

(4) Do vị ấy bố thí với tâm hào phóng, bất cứ nơi nào quả của việc bố thí ấy chin muồi, vị ấy sẽ được giàu cósung mãnđại phú, và tâm của vị ấy có khuynh hướng thọ hưởng những điều tốt đẹp nhất của năm dục công đức.

(5) Do vị ấy bố thí không làm tổn thương mình và người khác, bất cứ nơi nào quả của việc bố thí ấy chin muồi, vị ấy sẽ được giàu cósung mãnđại phú, vị ấy sẽ không bị mất mát tài sản bất cứ lý do gì, dù là do lửa cháy, lụt lội, bị vua tịch thu, trộm cướp hay do những người thừa kế bị ghét bỏ chiếm đoạt.

Này, các Tỷ-kheo, đó là năm loại bố thí của bậc chân nhân.”

 

                                        ( Tăng Chi BK II,  Ch XV: 148, tr. 591-592 )

 

 

(5) Bố thí thực phẩm (1)

                       

          - Này các Tỷ-kheo, nếu chúng sinh biết được kết quả của bố thí và chia sẻ, như ta đã biết, thì họ sẽ không ăn mà không chia sẻ, họ sẽ không để cho sự ô uế của keo kiệt ám ảnh và mọc rễ trong tâm họ. Thậm chí nếu đó là miếng ăn tối hậu, là miếng ăn cuối cùng, họ sẽ không ăn mà không chia sẻ, nếu có người nào đó cần chia sẻ. Nhưng, này các Tỷ-kheo, vì chúng sinh không biết  kết quả của bố thí và chia sẻ như ta đã biết, nên họ đã ăn mà không bố thí, và sự ô uế của keo kiệt ám ảnh và mọc rễ trong tâm họ.

                             

                                                                      ( Kinh Itivuttaka 26; 18-19)

(6) Bố thí thực phẩm (2)

“ Một thánh nữ đệ tử khi bố thí thức ăn, là bố thí bốn pháp cho người nhận. Thế nào là bốn ? Người ấy đã bố thí thọ mạng, dung sắc, an lạc và sức mạnh. Bằng cách bố thí thọ mạng, chính người ấy sẽ được thọ mạng, thuộc cõi người hay cõi thiên. Bằng cách bố thí dung sắc, chính người ấy sẽ được dung sắc, thuộc cõi người hay cõi thiên. Bằng cách bố thí an lạc, chính người ấy sẽ được hưởng an lạc, thuộc cõi người hay cõi thiên. Bằng cách bố thí sức mạnh, chính người ấy sẽ được sức mạnh, thuộc cõi ngườihay cõi thiên. Một thánh nữ đệ tử khi bố thí thức ăn, là bố thí bốn pháp này cho người nhận.”

                                                    ( Tăng Chi BK I, Ch.VI: 57; tr 670-671)

 

(7) . Bố thí Pháp

“ Này các Tỷ-kheo, có hai loại bố thí. Thế nào là hai ? Bố thí của cải vật chất  (tài thí), và bố thí Pháp ( Pháp thí). Trong hai loại bố thí ấy, Pháp thí là tối thắng. Có hai loại cúng dường này …   hai loại bố thínày…hai đối tượng để từ bỏ này. Thế nào là hai ? Từ bỏ của cải vật chất và từ bỏ bằng cách bố thí Pháp. Đó là hai loại bố thí. Trong hai loại bố thí này, bố thí Pháp là tối thắng .”

                                   ( Tăng Chi BK I, Ch XIII: 1­-10; tr 168)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 10776)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11659)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9738)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 7997)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6113)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26052)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5960)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11663)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 5961)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6362)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.