7. Nhẫn Nhục Trước Sự Khiêu Khích

06 Tháng Giêng 201915:17(Xem: 2786)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LỜI PHẬT DẠY
VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI
The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 
An Anthology of Discourses from the Pāli Canon
by
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications 2016
Việt dịch:
Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


Chương III. ĐỐI TRỊ SÂN HẬN

7. NHẪN NHỤC TRƯỚC SỰ KHIÊU KHÍCH

 

(1) Nhẫn nhục khi bị chỉ trích

 

“Này các Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông: lời nói của họ có thể đúng thời hay không đúng thời, đúng hay sai, nhẹ nhàng hay thô bạo, có lợi íchhay tổn hại, nói với tâm từ hay với nội tâm sân hận. Khi người khác nói với các ông, lời nói của họ có thể đúng thời hay không đúng thời, khi người khác nói với các ông, lời nói của họ có thể đúng hay sai, khi người khác nói với các ông, lời nói của họ có thể nhẹ nhàng hay thô bạo, khi người khác nói với các ông, lời nói của họ có thể có lợi ích hay tổn hại, khi người khác nói với các ông, lời nói của họ có thể nói với tâm từ hay với nội tâm sân hận. Này các Tỷ-kheo, ở điểm này, các ông cần phải rèn luyệnnhư sau: ‘Tâm chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng, và chúng tôi sẽ không thốt ra lời nói ác độcchúng tôi sẽ chịu đựng với lòng bi mẫn vì sự an vui của người ấy, với tâm từnội tâm không sân hậnChúng tôi sẽ sống trải rộng tâm từ tràn ngập người ấy , và bắt đầu từ người này, chúng tôi sẽ sống trải rộng tâm từ tràn ngập khắp thế giớisung mãnquảng đạivô lượng, không  hận, không sân.’ Này các Tỷ-kheo, các ông phải rèn luyện như vậy.

 

“Này các Tỷ-kheo, giả sử có một người đi đến với một cái cuốc và một cái giỏ và nói : ‘Tôi sẽ làm cho mảnh đất lớn này không còn là đất nữa.’ Rồi người ấy cuốc đất chỗ này chỗ kia, rải đất chỗ này chỗ kia, nhổ nước bọt chỗ này chỗ kia, và tiểu tiện chỗ này chỗ kia, nói rằng: ‘Hãy không phải là đất nữa, hãy không phải là đất nữa!’ Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào ? Người ấy có thể làm cho mảnh đất lớn này không còn là đất nữa được không ?’

 

- “ Bạch Thế Tôn, không thể được. Vì sao vậy ? Bởi vì mảnh đất này thâm sâu mênh mông; không dễ gì làm cho nó không còn là đất nữa. Cuối cùng, người này chỉ gặt hái mệt mỏi và thất vọng.”

 

“ Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà người khác có thể dùng khi nói với các ông: lời nói của họ có thể đúng thời hay không đúng thời… Này các Tỷ-kheo, ở điểm này, các ông cần phải rèn luyện như sau: ‘Tâm chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng, và chúng tôi sẽ không thốt ra lời nói ác độcchúng tôi sẽ chịu đựng với lòng bi mẫn vì sự an vui của người ấy, với tâm từnội tâm không sân hậnChúng tôi sẽ sống trải rộng tâm từ tràn ngập người ấy, và bắt đầu từ người này, chúng tôi sẽ sống trải rộng tâm từ tràn ngập khắp thế giớisung mãnquảng đạivô lượng, không hận, không sân .’ Này các Tỷ-kheo, các ông phải rèn luyện như vậy.

 

“Này các Tỷ-kheo, thậm chí nếu có  bọn cướp dùng cái cưa hai lưỡi để cưa tay chân các ông thành từng mảnh một cách man rợ, nếu có vị  nào ở đây khởi tâm sân hận đối với chúng, thì vị ấy không phải là người đang thực hành giáo pháp của ta. Này các Tỷ-kheo, ở điểm này, các ông cần phải rèn luyệnnhư sau: ‘Tâm chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng, và chúng tôi sẽ không thốt ra lời nói ác độcchúng tôisẽ chịu đựng với lòng bi mẫn vì sự an vui của người ấy, với tâm từnội tâm không sân hậnChúng tôisẽ sống trải rộng tâm từ tràn ngập người ấy, và bắt đầu từ người này, chúng tôi sẽ sống trải rộng tâm từtràn ngập khắp thế giớisung mãnquảng đạivô lượng, không gây hấn, không sân hận.’ Này các Tỷ-kheo, các ông phải rèn luyện như vậy.”

 

 

                    ( Trung BK I, Số 21-Kinh Ví Dụ Cái Cưa,  tr. 287-293 )

 

 

 

(2) Không trả đũa

 

Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói với các Tỷ-kheo :]… “ Chư hiền, vì vậy. nếu những người khác sỉ nhụcxúc phạmmắng nhiếc, và tấn công một Tỷ-kheo, vị này hiểu  rằng: ‘ Khổ thọ này do tai  xúc chạm ( nhĩ xúc) đã khởi lên trong tôi. Khổ thọ này do nhân duyên, không phải độc lập. Do nhân duyên gì ? Do nhân duyên xúc chạm.’ Rồi vị ấy thấy rằng sự xúc chạm là vô thườngcảm thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Và sau khi dùng giới làm đối tượng hỗ trợ, tâm của vị ấy an trú vào sự hỗ trợ mới này và đạt được niềm tinvững chãi và ổn định.

 

“ Giờ đây, nếu những người khác tấn công một Tỷ-kheo bằng những cách thế không như ý, không mong cầu, không dễ chịu, như là dùng nắm tay, dùng đá, dùng gậy hay dùng dao để đánh đập, vị ấy hiểu rằng: ‘ Bản chất của thân này là có thể bị nắm tay, đá , gậy hay dao đánh đập. Điều này đã được Thế Tôn giảng trong ‘ lời dạy của Ngài về ‘ Ví dụ cái cưa ’: “Này các Tỷ-kheo, thậm chí nếu có  bọn cướp dùng cái cưa hai lưỡi để cưa tay chân các ông thành từng mảnh một cách man rợ, nếu có vị  nào ở đây khởi tâm sân hận đối với chúng, thì vị ấy không phải là người đang thực hành giáo pháp của ta.” Vì thế ta sẽ tinh tấn không mỏi mệt, sẽ thiết lập chánh niệm không ngừng nghỉ, thân ta sẽ an tịnh và không bị nhiễu loạn, tâm ta định tĩnh và nhất tâm. Và giờ đây hãy để mặc cho sự xúc chạm với nắm tay, đá, gậy, và dao tấn công thân này; đây chỉ là cách thực hành những lời Phật dạy.”

 

 

                                        ( Trung BK I, Kinh số 27, tr.417-418 )

 

 

(3)  Nhẫn nhục khi bị trừng phạt

 

Thế Tôn giảng như sau:” Này các Tỷ-kheo, có một lần trong quá khứchư Thiên và các A-tu-la (Asura) đã chuẩn bị dàn trận để giao chiến. Rồi vua của các A-tu-la là Vepacitti, nói với các A-tu-la như sau: ‘Này các chiến hữu, trong trận chiến sắp xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la, nếu các A-tu-la thắng và chư Thiên thua, hãy trói Sakka Thiên chủ cả hai tay, hai chân, cổ , và mang vị ấy đến trước mặt ta trong thành của A-tu-la.’ Còn Thiên chủ Sakka thì nói với chư Thiên như sau: ‘Này các thân hữu, trong trận chiến sắp xảy ra giữa chư Thiên và các A-tu-la, nếu chư Thiên thắng và các A-tu-la thua, hãy trói vua của các A-tu-la là Vepacitti cả hai tay, hai chân, cổ,  và mang vị ấy đến trước mặt ta trong hội trường Sudhamma (Thiện pháp).’

 

“ Trong trận chiến đó, chư Thiên thắng và các A-tu-la thua. Rồi chư Thiên trói vua Vepacitti cả hai tay, hai chân, cổ,  và mang vị ấy đến trước mặt Sakka Thiên chủ trong hội trường. Khi Sakka Thiên chủ đi vào và rời hội trường, Vepacitti đang bị trói cả hai tay, hai chân và cổ, đã sỉ nhụcmắng nhiếc Thiên chủbằng những lời lẽ thô bạođộc ác. Rồi người đánh xe ngựa tên là Mātali tâu với Sakka Thiên chủ bằng các câu kệ như sau:

 

                    “ Khi đối diện với Vepacitti,

                     Có phải ngài sợ hãi hay yếu hèn,

                     mà ngài đã thật nhẫn nhục chịu đựng ông ấy,

                     khi nghe những lời ác ngữ ?”

 

[ Sakka:]

                   

                    “ Không phải vì sợ hãi hay yếu hèn,

                       Mà ta đã nhẫn nhục với Vepacitti.

                      Làm sao một người trí như ta,

                      lại dấn thân vào việc đấu đá với kẻ ngu ?”

 

[Mātali:]

 

                    “ Kẻ ngu càng nổi giận nhiều hơn,

                       Nếu không có người đối trị.

                      Vì vậy với hình phạt nặng nề,

                      Người trí nên trừng trị kẻ ngu.”

 

 

[ Sakka:]

 

                    “Chỉ mình ta nghĩ điều này,

                    Là cách đối trị kẻ ngu:

                    Khi biết kẻ thù đang phẫn nộ,

                   Người trí giữ an tịnh trong chánh niệm.”

 

 

[Mātali:]

 

                    “Thưa Sakka, tôi thấy đây là điều sai lầm,

                    trong việc thực hành nhẫn nhục:

                    Khi kẻ ngu nghĩ về ngài như thế này,

                    ‘ Ông ấy nhẫn nhục vì sợ  ta,’

                    Kẻ ngu lại càng đuổi theo ngài,

                    Như bò đực đuổi theo người bỏ chạy.”

 

[ Sakka:] 

                    “Mặc cho kẻ ngu có nghĩ như thế hay không,

                    ‘ Ông ấy nhẫn nhục vì sợ ta.’

                     Trong tất cả các pháp đem lại lợi ích tối thượng,

                     Không có pháp nào tốt hơn nhẫn nhục.

 

                    “ Khi một người được ban cho sức mạnh,

                       Nhẫn nhục chịu đựng một kẻ yếu hèn,

                       Đó là nhẫn nhục tối thượng;

                       Phải luôn luôn nhẫn nhục kẻ yếu hèn.

 

                      “ Sức mạnh của kẻ ngu,

                       Được xem không phải là sức mạnh-

                       Nhưng không ai có thể trách một người

                       Mạnh mẽ nhờ được Chánh pháp hộ trì.

 

                      “ Người dùng sân hận để đáp trả sân hận,

                       Sẽ làm mọi việc tệ hại hơn cho mình.

                       Không dùng sân hận để đáp trả sân hận,

                       Sẽ thắng được một trận chiến khó khăn.

 

                      “ Người tu tập vì lợi ích cả hai -

                        lợi mình và lợi người –

                        Khi biết kẻ thù đang tức giận,

                        người ấy giữ an tịnh trong chánh niệm.

 

                      “ Khi vị ấy chữa lành cho cả hai –

                        Chữa lành cho mình và cho người –

                        Những kẻ nghĩ vị ấy là người ngu,

                        Là những  kẻ không hiểu Chánh pháp.”

 

 

“ Vì vậy, này các Tỷ-kheo, nếu Sakka Thiên chủ có thể nói lời ca ngợi hạnh nhẫn nhục và nhu hòa, thì các ông là những người đã xuất gia trong Giáo pháp và giới luật này, còn gì thích hợp hơn cho các ông để thực hành hạnh nhẫn nhục và nhu hòa.”

 

                              (Tương Ưng BK I, Ch.XI: IV, tr 487- 492 )

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
11 Tháng Tư 2015(Xem: 11033)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng.
26 Tháng Ba 2015(Xem: 11758)
Tình cờ một quyển sách nằm trong tầm tay. A Glimpse of Nothingness – chợt nhận, thoáng nhận ra Không tính – tên tác giả lạ hoắc, không phải hàng Sư tổ của thiền. Chính vì chỗ này mà cách diễn tả gần gũi.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 9814)
Trong nhiều bộ kinh của Phật giáo Đại thừa, có nói về Bồ tát Quán Thế Âm; một vị Bồ tát luôn luôn khởi lòng Từ-bi ban vui và cứu khổ cho tất cả chúng sanh. Thế nhưng chúng ta ít thấy đề cập đến sự Giác ngộ của Ngài. Chỉ trừ kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói đến việc này.
02 Tháng Giêng 2015(Xem: 8033)
Tánh Không như một tấm gương sáng nó phản ảnh những gì đi qua nó tuyệt đối không lưu giữ. Nó không phải là năng duyên tức thọ, tưởng, hành, thức. Cũng không phải là sở duyên tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
07 Tháng Mười 2014(Xem: 6139)
Một số cư sĩ Phật giáo Nam tông thường hỏi tôi về tư tưởng Tánh Không trong kinh điển Theravāda. Có khi tôi trả lời: “Các pháp do duyên khởi nên vô ngã tính, vì vô ngã tính nên không. Không này chính là Không Tánh chứ có gì lạ đâu!” Một lần khác nữa, tôi lại nói: “Cứ đọc cho thật kỹ kinh Tiểu Không, kinh Đại Không, kinh Đại Duyên là sẽ hiểu rõ toàn bộ về tư tưởng Tánh Không thời Phật”. Tuy nhiên, trả lời gì cũng không giải toả được sự tồn nghi, thắc mắc của chư cư sĩ ấy.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 26112)
Không phải đợi đến thời kỳ Phật giáo phát triển (Đại Thừa) mà ngay trong thời Thế Tôn, Ngài đã khai thị về lý Không (Sùnyatà). Pháp thoại này đã cho thấy vấn đề cốt tủy nhất, tình túy nhất của Đại thừa là tánh Không đã được Thế Tôn truyền trao, khuyến tấn tu tập không những cho hàng xuất gia mà ngay cả những Phật tử tại gia. Có thể nói, học thuyết tánh Không thể hiện bàng bạc trong Bát Nhã, Trung quán luận v v… là hoa trái của lời dạy
23 Tháng Chín 2014(Xem: 5999)
Shikantaza(1) là thực hành hay hiện thực hóa tánh Không. Mặc dù bạn có thể đã có một sự hiểu biết sơ sài nào đó về tánh Không qua tư duy, nhưng bạn nên hiểu tánh Không qua trải nghiệm của mình. Bạn có một ý tưởng về vô và một ý tưởng về hữu và bạn nghĩ rằng hữu và vô là hai ý tưởng đối lập nhau.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11756)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 6027)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì bộ luận này là phần giải thích ý nghĩa mỗi chương. Phần này có 3 phần: sự biểu thị duyên khởi là rỗng thông không có hiện hữu tự tính (essentially empty), trình bày sự kiện dù bạn vẫn còn trong luân hồi, hoặc thoát khỏi luân hồi, điều đó tùy thuộc vào bạn có hoặc không lí hội thông hiểu duyên khởi rỗng thông không có hiện hữu tự tính, và các tri kiến sai lầm được buông bỏ theo cách nào, một khi bạn lí hội thông hiểu duyên khởi.
20 Tháng Bảy 2014(Xem: 6438)
Trong hệ thốngTrung Quán tất cả các hiện tượng, cả vô thường và thường hằng, đều là các sự duyên khởi (dependent- arisings; pratiyasamutpada). Xuyên qua lí luận về trạng thái hiện hữu duyên khởi của chúng, tính không của chúng thì được an lập.