13 Phẩm Trì

24 Tháng Năm 201000:00(Xem: 13073)

PHÁP HOA HUYỀN NGHĨA
(SADDHARMA PUNDARIKA SUTRA)
Chánh Trí Mai Thọ Truyền
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi 1962

 

PHẨM THỨ 13
TRÌ (L'Effort)

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Dược-Vương và Bồ-tát Đại-Nhạo-Thuyết, cùng hai muôn Bồ-tát quyến thuộc, đều ở trước Phật nói lên lời thề rằng: “Cúi xin Thế-Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt độ, chúng tôi sẽ tuân giữ, đọc tụng, nói kinh điển này. Chúng-sanh trong đời ác về sau, căn lành ít chuyển, kiêu hãnh thêm nhiều, tham lợi tham danh([7]), thêm căn bất thiện, xa lìa giải thoát. Tuy khó bề giáo hoá như thế, chúng tôi sẽ dùng sức nhẫn nhục lớn, đọc tụng, giữ nói, biên chép, hy-sanh mọi cách, thậm chí không tiếc thân mạng (để giáo hoá họ)”.

Khi ấy, trong chúng, 500 A-la-hán đã được thọ ký, bạch Phật rằng: Thế-Tôn, chúng tôi cũng tự thệ nguyện rộng nói kinh này ở những nước khác. Lại có tám ngàn vị hữu-học, vô-học cũng đã được thọ ký rồi, lập lời thề trước Phật: “Chúng con cũng thệ sẽ ở nơi nước khác rộng nói kinh này. Tại sao thế? Vì ở nước Ta-bà, đa số dân- chúng hay che dấu điều ác, ôm ấp tánh kiêu-căng, công-đức cạn mỏng, giận hờn, siểm khúc, ấy vì tâm không thật vậy”.

Kế đó, bà Dì của Phật là Tỳ-khưu-ni Ma-Ha-Ba-Xa-Ba-Đề cùng với 6 ngàn Tỳ-khưu-ni của hai hạng học và vô-học, đồng đứng dậy, chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, mắt không tạm rời, Thế-Tôn mới hỏi Kiều-Đàm-Di (tức bà Dì): “Vì cớ nào mà ngó Như-Lai với vẻ lo âu như vậy? Phải chăng vì ta không kêu tên thọ ký cho chúng ngươi? Này Kiều-Đàm-Di, ta trước thọ ký tổngquát cho tất cả Thanh-văn, nay ngươi đã muốn thì ta nói trước cho biết, đời sau ngươi sẽ làm Đại Pháp-sư của 6 vạn tám ngàn Phật-pháp, còn 6 ngàn Tỳ-khưu-ni trong hàng học và vô-học, cũng sẽ làm Pháp-sư. Lần hồi, ngươi sẽ đầy đủ đạo Bồ-tát và sẽ được thành Phật, hiệu Nhất-Thế-Chúng-Sanh-Hỷ-Kiến Như-Lai. Này Kiều-Đàm-Di, Phật Hỷ-Kiến và 6 ngàn Bồ-tát sẽ tuần tự thọ ký được Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác”.

Bấy giờ, mẹ của La-Hầu-La là Tỳ-khưu-ni Da-Du-Đà-La thầm nghĩ: “Thế-Tôn thọ ký cho mọi người, sao riêng mình chẳng nói tới tên?”. Phật kêu Da-Du-Đà-La nói: “Đời sau, trong trăm ngàn vạn ức pháp môn của Phật, người sẽ tu hạnh Bồ-tát, làm Đại Pháp-sư, lần hồi đầy đủ Phật-đạo, rồi ở nơi nước Thiện, sẽ thành Phật hiệu Cụ-Túc-Thiên-Vạn-Quang-Tướng Như-Lai”.

Kiều-Đàm-Di, Da-Du-Đà-La và tất cả Tỳ-kheo-ni đều vui mừng hớn hở, cho là được của quý chưa từng có.

Sau khi đọc bài kệ, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật: “Thế-Tôn, chúng tôi có thể rộng nói kinh này ở các nước phương khác không?”

Phật bèn ngó tám mươi muôn ức na-do-tha Bồ-tát. Các Bồ-tát này, toàn là bậc “bất thối-chuyển” và đã được các “đà-la-ni”, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, chấp tay nghĩ nói trong lòng rằng: “Nếu Thế-Tôn dạy, chúng con sẽ như lời Phật dạy mà rộng nói kinh này”. Rồi lại nghĩ: Phật nay làm thinh không dạy, bây giờ chúng ta sẽ nói gì đây?. Khi ấy, vừa để thuận theo ý Phật, vừa để thoả mãn sở nguyện, của mình, các Bồ-tát bèn thề lớn trước Phật: “Thế-Tôn, sau khi Như-Lai diệt độ, chúng con sẽ đi khắp mười phương thế giới, khiến chúng-sanh biên chép kinh này, lãnh giữ, đọc tụng, giải nói ý nghĩa, theo pháp tu hành, sửa điều nghĩ nhớ cho chân chánh, được như thế là toàn nhờ uy-lực của Phật. Cúi xin Thế-Tôn, ở phương khác, xa thấy mà giữ-gìn cho!”.

Liền đó, các Bồ-tát đồng phát thanh nói bài kệ:

Cúi mong Phật chớ lo
Sau khi Phật diệt độ,

Trong đời ác, khiếp sợ
Chúng con sẽ rộng nói(kinh này)

Dầu có người không trí
Dùng lời ác mắng rủa…

Cùng gậy dao đập chém,
Chúng con đều sẽ nhẫn,

Dầu Ty-khưu đời ác,
Trí tà, tâm vạy méo

Chưa chứng, xưng đã chứng,
Kiêu căng đầy trong lòng

Hoặc có hạng “A-nhã”([8])
Y, nạp([9]) xem ra phết.

Tự cho hành chân đạo
Xem nhẹ người thế-gian;

Vì lòng tham lợi dưỡng
Thuyết pháp cho bạch-y([10])

Với ý được cung kính
Như lục thông La-Hán([11])

Lòng hạng ấy chứa ác
Thường nghĩ việc thế tục

Giả danh A-luyện-nhã
Bởi sai lầm chúng con

Mà nói những lời này:
Các Thầy Tỳ-khưu ấy.

Ví lòng tham lợi dưỡng,
Luận giải theo ngoại đạo

Tự tạo kinh điển này,
Láo dối người thế gian.

Hoặc vì cầu danh tiếng
Mà phân biệt kinh này,

Hoặc thường trong đại chúng,
Muốn nói xấu chúng con;

Hướng nhà vua, quan lớn
Bà-la-môn, nhà giàu([12]) ,

Cùng các Tỳ-khưu khác
Mà phỉ báng chúng con:

Bảo chúng con tà kiến
Luận giải theo ngoại đạo,

Vì lòng kính tin Phật,
Chúng con đều sẽ nhẫn,

Trong đời ác kiếp trược,
Có nhiều sự sợ hãi,

Các quỷ nhập thân người
Mắng rủa nhục chúng con,

Chúng con kính tin Phật,
Sẽ mang giáp nhẫn nhục.

Để giảng nói kinh này,
Chúng con sẽ nhẫn mọi khó.

Thân mạng, không hề tiếc
Chỉ tiếc Vô-thượng đạo.

Chúng con trong đời sau,
Sẽ giữ gìn lời Phật.

Thế-Tôn sẽ tự biết:
Tỳ-khưu đời ác trược

Không biết Phật phương tiện
Tùy nghi mà thuyết pháp,

Châu mày dùng miệng ác,
Lúc lúc đuổi chúng con

Xa lìa nơi chùa tháp.
Các việc ác như thế,

Nhớ lời Phật dạy bảo,
Chúng con sẽ nhẫn hết.

Nơi thành ấp, tụ lạc([13])
Nếu có người cầu pháp

Chúng con đều đến nơi
Nói Pháp của Phật truyền.

Chúng con là sức Phật,
Ở trong chúng không sợ.

 

Huyền nghĩa

Từ trước tới đây, Đức Phật đã giải bày cho chúng ta thấy thế nào là “Thực-Tướng”, là “Chân-lý), là khả năng giác-ngộ của con người.

Nhưng thấy hiểu chưa đủ, cần phải cố-gắng (l'effort) nắm giữ (trì). Cố gắng nắm giữ không phải trong lòng mà phải biểu hiện ra ngoài (phụng trì, đọc tụng, thơ tả, giảng thuyết), nghĩa là phải diễn đạt bằng lời nói và việc làm lợi mình, lợi người.

Lợi mình ở chỗ tự nhắc nhở, tự cố tiến. Lợi người ở chỗ treo gương thức tỉnh cho mọi người cùng theo.

Ai làm được sự cố-gắng này? Các bậc Đại Bồ-tát (những người quên mình vì người khác), các bậc La-hán (đã diệt dục), các hàng Thanh-văn học và vô-học (đã nghe hiểu và thức tỉnh). Thậm chí hàng phụ-nữ tu hành (Tỳ-khưu-ni) cũng làm được, vì nữ-nhân cũng đầy đủ khả năng giác-ngộ như nam-nhi (chuyện Long-nữ thành Phật hay việc thọ-ký cho các bà Kiều-Đàm-Di, Da-Du-Đà-La…)

Nhưng đừng tưởng dễ đem Chân-lý mà nói cho người khác nghe, dễ sống đời sống gương mẫu thức tỉnh (giảng thuyết Diệu-Pháp). Ví càng xa Phật (sau khi Phật diệt-độ), lòng người càng bị tham, sân, si, kiêu mạn làm mờ tối. Huống chi còn những hạng giả danh tu hành, tự xem như thánh-nhân. Mê hoặc lòng người bằng những kinh điển sai lầm và phỉ báng hàng tu-sĩ chân chánh. Vì vậy, muốn nắm giữ được lời Phật dạy, Chân-lý của Phật trao truyền và làm sáng tỏ Chân-lý ấy, phải mặc giáp nhẫn nhục, nghĩa là phải hết sức chịu đựng trước sức tấn công của ma lực. Nếu phải hy-sinh thân mạng (corps et vie) cũng đừng tiếc.

 

[7] Dịch theo bản của E.Burnouf “occu peés de gain et d’honneurs”

[8] A-nhã. Trọn chữ là A-luyện-nhã hay A-lan-nhã: Chỉ các am tự, nơi các cị Tỳ-khưu ở.

[9] Nạp: Áo mặc của các vị Tỳ-khưu, may bằng những miếng vải vụng của người chê bỏ.

[10] Bạch-y: Áo trắng, chỉ hàng Phật-tử tại gia. Hai tiếng cư-sĩ dùng để chỉ hàng tại gia được dùng không đúng lắm.

[11] Lục thông: 1) Thiên nhãn, 2) Thiên nhĩ, 3)Tha tâm, 4)Túc mạng, 5) Thần túc, 6)Lậu tận (6 pouvoirs spirituels)

[12] Nhà giàu: Nguyên văn chữ Hán là cư -sĩ . Ông E.Burnouf dịch là “chef de famille”; gia trưởng, tức chỉ hạng có gia nghiệp, chớ không có nghĩa Phật tử tại gia như chúng ta dùng bây giờ.

[13] Hay bộ lạc (Tribu). 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Tám 2020(Xem: 9220)
06 Tháng Bảy 2016(Xem: 8158)
Đối nghịch, mâu thuẫn là hiện tượng thường xảy ra trong đời sống. Khi không thể giải quyết, nó đưa đến thù ghét và chiến tranh. Từ ngày có con người trên trái đất cho đến ngày nay, chiến tranh chưa bao giờ chấm dứt.
19 Tháng Năm 2016(Xem: 9790)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20. Đây là một bộ Đại Tạng Kinh của Bắc truyền được tổng hợp cũng như sự giảo chánh của các nhà học giả Phật Giáo Nhật Bản lúc đương thời qua các bộ Minh Đại Tạng, Càn Long Đại Tạng v.v… Tổng cộng gồm 100 quyển, dày mỏng khác nhau, mỗi quyển độ 1.000 đến 1.500 trang khổ lớn. Cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh đã cho phiên dịch hoàn toàn sang tiếng Việt tại Đài Loan thành 203 cuốn(đã in được 93 cuốn), mỗi cuốn từ 800 đến 1.500 trang. Tổng cộng các bản dịch về Kinh, Luật, Luận của Đại Thừa không dưới 250.000 trang sách.
12 Tháng Năm 2016(Xem: 9316)
BÁT NHÃ BA LA MẬT là một trong những hệ tư tưởng của Đaị thừa Phật giáo Bắc tông. Bát Nhã Ba La Mật, Trung Hoa dịch: TRÍ TUỆ ĐÁO BỈ NGẠN. Thành ngữ đáo bỉ ngạn, chỉ cho sự viên vãn cứu kính, sự hoàn thành trọn vẹn về một lãnh vực tri thức, một công hạnh lợi tha, một sự giải thoát giác ngộ hoàn toàn..