- Bài Tựa Bằng Bạch Thọai
- Thích-ca Mâu-ni Văn Phật
- Sơ Tổ: Tôn Giả Ma-Ha Ca-Diếp
- Nhị Tổ: Tôn Giả A-Nan-Đà
- Tam Tổ: Tôn Giả Thương Na Hòa Tu
- Tổ thứ tư Tôn Giả Ưu-Bà-Cúc-Đa
- Tổ thứ năm: TÔN GIẢ ĐỀ-ĐA-CA
- Tổ thứ sáu: TÔN GIẢ DI-GIÀ-CA
- Tổ thứ bảy: TÔN GIẢ BÀ-TU-MẬT
- Tổ thứ 8: TÔN GIẢ PHẬT-ĐÀ-NAN-ĐỀ
- Tổ thứ chín: TÔN GIẢ PHỤC-ĐÀ-MẬT-ĐA
- Tổ thứ mười: HIẾP TÔN GIẢ
- Tổ thứ mười một: TÔN GIẢ PHÚ-NA-DẠ-XA
- Tổ thứ mười hai: ĐẠI SĨ MÃ MINH (Mahasattva Ashvagosha)
- Tổ thứ mười ba: TÔN GIẢ CA-TỲ-MA-LA (Kapimala)
- Tổ thứ mười bốn: BỒ-TÁT LONG THỌ (Nagarjuna)
- Tổ thứ 15: TÔN GIẢ CA-NA-ĐỀ-BÀ (Kanadeva)
- Tổ thứ 16: TÔN GIẢ LA-HẦU-ĐA-LA (RAHULATA)
- Tổ thứ mười bảy: TÔN GIẢ TĂNG GIÀ NAN ĐỀ (Sanghanandi)
- Tổ thứ 18: TÔN GIẢ GIÀ-DA-XÁ-ĐA (Gayasata)
- Tổ thứ mười chín: Tôn giả Cưu-Ma-La-Đa
- Tổ thứ hai mươi: Tôn giả Xà-Dạ-Đa
Tổ thứ 8: TÔN GIẢ PHẬT-ĐÀ-NAN-ĐỀ
Tôn giả, Ca-Ma-La quốc nhân dã. Đỉnh hữu nhục kế, biện tài vô ngại. Sơ kiến Thất Tổ luận nghĩa, Tổ viết : “Nhân giả ! Luận tức bất nghĩa, nghĩa tức bất luận. Nhược nghĩ luận nghĩa, chung phi nghĩa luận.” Tôn giả tri Tổ nghĩa thắng, tâm tức khâm phục, viết : “Ngô nguyện cầu đạo, triêm cam lồ vị.” Tổ toại dữ thế độ thọ cụ, phó dĩ Đại Pháp, kệ viết :
Tâm đồng hư không giới
Thị đẳng hư không pháp
Chứng đắc hư không thời
Vô thị vô phi pháp[1]
Tôn giả đắc pháp dĩ, lãnh chúng hành hóa chí Đề-Già quốc, chuyển phó pháp ư Phục-Đà-Mật-Đa, tức hiện thần biến, khước phục bổn tòa, đoan nhiên thị tịch. Nhĩ thời chúng kiến bảo tháp, táng kỳ toàn thân.
Dịch :
Tôn giả là người nước Ca-Ma-La. Tôn giả có một cục thịt nổi lên trên đỉnh đầu, có tài biện luận lưu loát. Lần đầu gặp Tổ thứ bảy, tôn giả đến luận bàn về nghĩa lý. Tổ nói: “Nầy nhân giả ! Luận tức chẳng phải nghĩa, nghĩa tức chẳng phải luận. Nếu (suy) tính luận nghĩa thì trọn chẳng phải nghĩa luận.” Tôn giả biết rằng lý của Tổ cao vời, khởi lòng khâm phục, thưa rằng: “Con nguyện cầu đạo để được thưởng thức vị cam lồ.” Tổ bèn cho cắt tóc xuất gia thọ giới Cụ túc. Tổ truyền pháp và đọc kệ rằng :
Tâm đồng với hư không
Chỉ cho pháp hư không
Khi đã chứng hư không
Hết pháp phi và thị
Được pháp rồi, tôn giả lãnh các đệ tử đi du hóa. Đến nước Đề-Già thì truyền pháp lại cho Phục-Đà-Mật-Đa, xong hiện thần thông biến hóa, rồi trở lại chỗ cũ, ngồi ngay thị tịch. Lúc bấy giờ đồ chúng xây bảo tháp rồi an táng toàn thân trong đó.
Tán viết :
Luận tức phi nghĩa
Nhất ngữ tiện liễu
Khuếch triệt linh nguyên
Tản khước trân bảo
Cam lồ môn khai
Tam canh nhật cảo
Kim chi cổ chi
Thanh quang kiểu kiểu.[2]
Dịch :
Luận tức chẳng phải nghĩa
Một lời liền khai ngộ
Quán triệt tới ngọn nguồn
Gạt mọi thứ quý giá
Cửa cam lồ rộng mở
Canh ba tợ trời sáng
Từ xưa cho đến nay
Thanh tịnh rực rỡ sang
(Tuyên Hóa Thượng Nhân)
Hoặc thuyết kệ viết :
Đỉnh sinh nhục kế thị chân nguyên
Tùy hình tướng hảo nguyện lực kiên
Vô ngại biện tài thâm bát nhã
Đại khai viên giải nghĩa luận huyền
Tâm đồng hư không siêu pháp giới
Lượng bao vũ trụ nhập vi tiên
Tức hiện thần biến hoàn bổn tọa
Tam canh cảo nhật tự minh thiên[3]
(Tuyên Hóa Thượng Nhân tác)
Dịch :
Đỉnh đầu nhục kế rõ căn nguyên
Tướng tốt dáng hình nguyện lực kiên
Biện luận tài cao thâm bát nhã
Diễn đàn nghị luận nghĩa diệu huyền
Tâm đồng hư không siêu pháp giới
Lớn sánh trời đất, nhỏ vi trần
Hiện đủ thần thông về chỗ cũ
Mặt trời như mọc giữa đêm đen
(Tuyên Hóa Thượng Nhân)
Giảng:
Tôn giả, Ca-Ma-La quốc nhân dã: Tổ thứ 8, Phật-Đà-Nan-Đề là người nước Ca-Ma-La, xứ Ấn-Độ.
Đỉnh hữu nhục kế, biện tài vô ngại: Ngày tôn giả sanh ra đời, trên đỉnh đầu có một cục thịt, như chúng ta thấy trên hình tượng của ngài có một cục nổi lên trên chóp đầu. Ngài có tài biện luận, ai tranh luận với ngài cũng đều bị thua.
Sơ kiến Thất Tổ luận nghĩa: Lần đầu tiên gặp tổ Bà-Tu-Mật, tôn giả tới để luận bàn nghĩa lý với Tổ. Đây là nói cái “nghĩa” ngoài “lời”, chẳng phải là “nghĩa luận”.
Tổ viết: “Nhân giả! Luận tức bất nghĩa, nghĩa tức bất luận. Nhược nghĩ luận nghĩa, chung phi nghĩa luận.”: Tổ nói: “Nầy, nhân giả! Lý luận chẳng phải là chân nghĩa. ‘Nghĩa tức chẳng luận’, khi ta đã có chân nghĩa thì chẳng thể lý luận được. Nếu tính ‘luận nghĩa’, tức là mang chân lý ra luận bàn, chẳng hạn như khi ta khởi lên ý nghĩ nghiên cứu cái chân nghĩa, thì đó chẳng phải là chân lý. Nói ‘nghĩa’ là nói chân lý đích thực.
Tôn giả tri Tổ nghĩa thắng, tâm tức khâm phục : Tôn giả biết nghĩa lý của Tổ cao vời vợi, vượt trội hơn mình, bởi cái “nghĩa” chân chánh đó không thể nói ra được, nên trong lòng cảm thấy bội phục vô cùng… viết : ‘Ngô nguyện cầu đạo, triêm cam lồ vị.” : mới thưa lại rằng: “Con xin nguyện theo Tổ cầu đạo đặng thưởng thức mùi vị cam lồ.”
Tổ toại dữ thế độ thọ cụ, phó dĩ Đại Pháp, kệ viết : Tổ bèn cho cắt tóc xuất gia thọ giới Cụ túc, truyền cho pháp lớn tâm ấn, đọc kệ rằng:
Tâm đồng hư không giới, thị đẳng hư không pháp: Tâm và hư không đồng một thể, nay ta chỉ cho ngươi cái pháp hư không đó.
Chứng đắc hư không thời, vô thị vô phi pháp: Khi ngươi đã chứng được cái cảnh giới của hư không rồi thì đó là pháp “vô thị vô phi”, cái pháp mà chẳng còn cái nghĩa nào để bàn luận cả.
Tôn giả đắc pháp dĩ, lãnh chúng hành hóa chí Đề-Già quốc, chuyển phó pháp ư Phục-Đà-Mật-Đa: Sau khi tôn giả được pháp, ngài lãnh các đệ tử đi du hóa các nơi. Khi đến nước Đề-Già, tôn giả truyền pháp tâm ấn lại cho vị tổ thứ 7 là Phục-Đà-Mật-Đa (Buddhamitra).
Tức hiện thần biến, khước phục bổn tòa, đoan nhiên thị tịch: Sau đó, ngài liền thị hiện thần thông biến hóa, bay thân lên không, hiện ra mười tám phép biến, rồi trở về chỗ ngồi mà an nhiên thị tịch.
Nhĩ thời chúng kiến bảo tháp, táng kỳ toàn thân: Lúc đó các đệ tử xây bảo tháp để an táng toàn thân ngài.
Bài Tán :
Luận tức phi nghĩa, nhất ngữ tiện liễu: Chân lý mà mang ra luận bàn hoặc tìm hiểu thì không phải là nghĩa của nó. Ngay khiTổ thứ 7 nói ra câu này, thì tổ thứ 8 liền khai ngộ.
Khuếch triệt linh nguyên, tản khước trân bảo: Khi đã quán triệt được bổn lai diện mục, nghĩa là đã khai ngộ rồi thì các thứ của quý chẳng cần thiết nữa.
Cam lồ môn khai, tam canh nhật cảo: Canh ba là lúc nửa đêm, mà trời đã sáng. Điều này ngụ ý rằng khi pháp môn cam lồ đã khai mở hành giả sẽ tỏa sáng từ trong tăm tối, giống như giữa đêm khuya mà trời hừng sáng.
Kim chi cổ chi, thanh quang kiểu kiểu: Ngày nay như vậy, ngày xưa cũng vậy, thứ ánh sáng thanh tịnh đó, rực rỡ vô cùng!
Bài kệ :
Lại có người (Hòa Thượng nói chính mình) muốn kiếm thêm chuyện, làm bài kệ thô thiển như sau:
Đỉnh sinh nhục kế thị chân nguyên: Cục thịt trên đỉnh đầu cho biết lai lịch người đó chẳng phải là tầm thường, vì gốc gác là từ chỗ Phật mà đến.
Tùy hình tướng hảo nguyện lực kiên: Tướng tốt ở đây là nói cục thịt trên đỉnh đầu, một trong ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Nguyện lực thì kiên cường, bởi lời nguyện đã phát ra từ kiếp xưa vẫn luôn luôn giữ vững, không thay đổi.
Vô ngại biện tài thâm bát nhã: Ngài có tài biện luận không bị ngăn ngại và có trí huệ thâm sâu.
Đại khai viên giải nghĩa luận huyền: Một sự kỳ diệu diễn ra là có một cuộc nghị luận giữa tôn giả và Tổ thứ 7. Tổ nói luận là chẳng phải nghĩa, nghĩa là chẳng phải luận, suy diễn nghĩ bàn là chẳng phải nghĩa. Mấy chữ “nghĩa luận huyền” tức là ý này, rất là huyền diệu.
Tâm đồng hư không siêu pháp giới: Cái tâm mà rỗng rang như hư không thì nó lớn lắm, vượt ra ngoài cả pháp giới.
Lượng bao vũ trụ nhập vi tiên: Tâm lượng lớn bao trùm hết vũ trụ, lại cũng có thể thu gọn trong một hạt bụi nhỏ. Đây là lấy ý trong Kinh Hoa Nghiêm, nghĩa là đi vào cảnh giới của một vi trần, một hạt bụi nhỏ, trong cái nhỏ hiện ra tướng lớn, trong cái lớn hiện ra tướng nhỏ. Trong ba chử “nhập vi tiên” có chữ “tiên” dùng để giữ âm vận cho bài kệ.
Tức hiện thần biến hoàn bản tọa: Tôn giả tức thời hiện thần thông biến hóa, sau đó lại trở về chỗ ngồi.
Tam canh cảo nhật tự minh thiên: Tuy lúc đó là canh ba mà giống như lúc mặt trời mọc. “Tự” có nghĩa là tương tợ chớ thực ra lúc ấy trời chưa sáng.
Thượng Nhân Tuyên Hóa giảng ngày mồng 1 tháng 3 năm 1978.
[1] 「心同虛空界,示等虛空法;證得虛空時,無是無非法。」
[2]論即非義 一語便了 廓徹靈源 撒卻珍寶
甘露門開 三更日杲 今之古之 清光皎皎
[3]頂生肉髻示真源 隨形相好願力堅
無礙辯才深般若 大開圓解義論玄
心同虛空超法界 量包宇宙入微先
即現神變還本座 三更杲日似明天