MẸ ÔI! CHỮ BÈ LAU, TÂM CHÈO CỎ! Minh Đức Triều Tâm Ảnh
1- Hỡi ôi! Khi biết chút ít về đạo hiếu Thì mẹ đã trăng tà khuất núi Ngọn lửa nhớ thương âm ỉ tháng năm dài Một trăm bài thơ về mẹ Chỉ là mấy giọt sương phơi Không thấm ướt cây cỏ cõi lòng con hoang mạc! Ôi! Đảnh lễ bụi đất nghìn trùng Ôi! Đảnh lễ Tu Di sơn nghĩa ân cao chót vót Ngôn và lời: Đốm mộng vẽ không hoa! Tạc tượng làm sao giữa cõi ta-bà Chân dung mẹ Vẫn muôn đời Trăng sao nước mây chập chùng khái niệm Mẹ của tôi Mẹ của quê hương Là lục bát ca dao Là cò vạc chuôm ao Là lặn lội đồng sâu ruộng cạn Là cõng gạo chợ chiều Là gánh nắng đội mưa Là áo vá bạc màu Là nước mặn đồng chua Là lụm cụm nương vườn Là tảo tần bèo rau heo cám Mẹ chắt từng giọt máu trắng Để nuôi đàn con khôn lớn Bàn tay khô gầy khéo léo vại môn dưa Biến hoá bữa ăn cà muối mắm kho Sắn độn cơm Cơm độn khoai Nhường nhịn cho cháu con ăn từng bữa Vất vả lo toan chưa một lần than thở Chưa một lần ngưng sức chèo bơi Đứa này vừa sang sông Đứa khác lại vào đời Rồi mải miết chúng công danh sự nghiệp Rồi mải miết chúng với vợ con Với bầy đoàn thê thiếp Mẹ rất xa tóc trắng bạc mù sương Đường về quê trăm nỗi ngại ngùng Mẹ vẫn là chiếc bóng đơn côi Đêm đêm cầu kinh niệm Phật Đêm đêm tay lần tràng hạt Vẫn lủi thủi nhang khói từ đường Vẫn liêu xiêu góc bếp đụn rơm Tròng mắt cay cay Tuổi nặng lưng còng Vẫn bươn chải kiếm từng xu từng cắc Để giúp đỡ cho cháu con khó khăn chật vật Để tự nuôi sống mình Lại còn mâm quả bát hương Lại còn kỵ giỗ tổ tiên, lễ, tiết lân phường Tang, tế, quan, hôn Vắt kiệt sinh lực mẹ Để gìn giữ gia phong, nền nếp!
2- Mẹ ôi! Than ôi! Mẹ giờ đã về đâu, đi đâu Con mù loà, tối tăm chẳng biết Nhưng hương mẫu từ vẫn phảng phất Vẫn thơm ngát suốt đời con Nuốt miếng béo bùi nghe đắng tựa bồ hòn Nằm chăn ấm, nệm êm Lại đau xót nhớ hoài manh chiếu rách Nhớ căn bếp gió lùa Mẹ đi vô đi ra, rét run cầm cập Áo lá tơi dày không đủ sưởi tiết đông Tháng chạp, giêng hai cắm cúi ruộng đồng Lúc gieo mạ, lúc còng lưng cấy lúa Chân dẫm bùn phèn Căm căm tiết thời băng giá Hạt ngọc ăn, nghe mặn máu mẹ ở bên trong Thời bom đạn, tản cư Mẹ chỉ ôm theo quyển kinh, quả chuông Bỏ lại hết bạc tiền, tư trang, tài sản Mẹ nói, đấy là vật ngoại thân, sớm còn, tối mất Chịu khổ cực, siêng năng là còn tạo ra chúng được “Nhưng mang theo kinh, chuông Là để nhớ Phật mà về!” Ôi! Lời dạy của mẹ tôi Bên tai nghe như kim chích buốt tê Văng vẳng mãi lúc nào đường tu thối thất Đời sa-môn đi trên lưỡi dao mài ngọt Bất hiếu, vô nghì là địa ngục đồng sôi Phải sống cho tốt hơn Để cho mẹ mỉm cười Để cho mẹ yên tâm Con vẫn là đứa con chưa đến nổi nào hư đốn!
3- Ôi! Mẹ ôi! Kính lạy mẹ! Mẹ của tôi, mẹ của ai Vẫn thương con giống nhau Vì được rứt ra từ núm ruôt Vẫn chín tháng mười ngày Thống khổ cưu mang Gìn giữ từng bước đi Nóng, lạnh kiêng khem Vì sự sống li ti của con vô cùng nhạy cảm Ôi! Hỡi ôi! Chín chữ cù lao (1), Đạo lý Đông phương thăm thẳm Mang vác suốt đời, không trả được thâm ân Mẹ là dòng sông xanh Và suối ngọt tự nguồn tâm Là cánh cửa then hờ, chưa bao giờ khoá chốt Là ngọn gió mát thung sâu trong lành diệu vợi Là hồ ao, lau lách cỏ dại quê nhà Sen súng tự nhiên hương Mẹ đứng trên đồi cao Nhìn ngắm cháu con lưu lạc trăm đường Ngọn lửa ấm đêm đông Bập bùng trái tim của mẹ Con như khách phong trần Một lần nghiệp duyên ghé lại Để mẹ vất vả suốt đời Trăm tuổi lại ra đi Cú rúc canh thâu, rừng vắng nói gì Giun dế đêm đêm, suối khe thầm thỉ Giữa hư không Tiếng chim lạc đàn mang mang thi tứ Dội vào lòng con, vô lượng nghĩa Vu Lan Chữ chữ thắp lên, bất lực hàng hàng Kính lạy mẹ muôn trùng Bối diệp, trang tâm thay tiếng nói Ai đó là con, phải biết phút giờ yêu quý Bên lòng còn đỏ thắm đoá hồng tươi Bên mẹ, hiện tại ở đây, là giây khắc tuyệt vời Là vĩnh cửu, là thiên thu, không bao giờ trở lại! Ngưỡng mong thế gian Giáo pháp nhiệm mầu Hiếu ân còn mãi Là vẻ đẹp ngàn đời, xưa cũng như nay Khắc giữa hư vô cho nhân thế biết hay Làm mảnh gương soi đi về Khi vẫn còn tới lui sinh tử Bài thơ hôm nay chỉ là bè lau, chèo cỏ Vẫn muốn cùng người chống đẩy sang sông! Vẫn muốn cùng người đạo hiếu đền xong! Lúc nào chúng ta cùng đáo ngạn!
Nói đến nữ nhân người ta thường nghĩ đến cái đẹp về hình thức và sự nhỏ nhen ích kỷ về tâm tánh. Đó là sự nhận định một cách chung nhất từ xưa đến nay. Dù là như thế nào đi nữa thì không thể phủ nhận rằng trong bất cứ một xã hội nào thì người nữ vẫn chịu nhiều đau khổ về tinh thần và thể xác hơn người nam. Là một bậc đại trí tuệ Đức Phật đã nhìn thấu tâm can của nữ nhân không vì thế mà Ngài chán ghét họ mà ngược lại Ngài còn thương họ hơn bất cứ ai trên đời này, bởi vì rằng Ngài có một tấm lòng độ lượng vô biên có thể dung chứa hết thảy mọi chúng sanh, mọi tập tính khó ưa, khó kham nhẫn nhất.
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào nước ta, đến thế kỷ II thì Phật giáo đã định hình và phát triển khá mạnh mẽ, nhất là đã có sự thể nhập vào đời sống thực tiễn tại Giao Châu. Đây cũng là lý do tại sao giới trí thức Nho giáo và Lão giáo đặt vấn đề đạo Phật là đạo gì? Mâu Tử đã thẳng thắn trả lời: “Ở trong nhà thì hiếu thảo với mẹ cha, ra ngoài đường giúp nước hộ dân, khi ngồi một mình thì biết tu thân” được ghi trong tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử 1.
Đức Phật hay Đạo Phật tự ngàn xưa không những giới thiệu cho chúng ta có nhận thức được về sự KHỔ và con đường tu tập để đưa đến chấm dứt mọi sự khổ đau ngay trong hiện tại, mà còn giúp cho chúng ta có một tầm nhìn trong sáng để trang bị hoàn thiện về đạo lý “Nhân bản” của con người trên mọi sinh lộ của cuộc đời.
(Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ; nên phật tử theo truyền thống Đại Thừa xem ngày chư tăng ra hạ (rằm tháng 7) là ngày báo hiếu mẹ. Đấy là cả một tình cảm cao cả, trân trọng và thiêng liêng. Nhưng theo truyền thống Theravāda thì không có từ Vu Lan, không có đại lễ Vu Lan. Nếu là nội dung và ý nghĩa tương tự – thì phải là sau ngày chư tăng Nam tông ra hạ, nghĩa là sau ngày 16 Tháng 9 ÂL, đúng mùa đại lễ Dâng Y Kaṭhina)
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.