Sa La Hoa Đạo

13 Tháng Mười 201300:00(Xem: 12808)

SA LA HOA ĐẠO
Lâm Hạnh Nhiên

sala-hoa-daoCách đây vài năm, có người nêu giả thiết cho rằng cây sa-la đã được người Việt ở vùng Tây Ninh biết đến từ lâu và được gọi là cây tha-la; bằng cớ là có bài thơ “Tha La xóm đạo” của Vũ Anh Khanh nói đến xóm Tha La là một nơi “có trái ngọt cây lành im bóng lá” Giả thiết đó đưa đến kết luận có một giao thoa giữa Ấn giáo, Phật giáo và Thiên chúa giáo ở một vùng thuộc văn hóa Khmer. Gần đây có người khác giải thích tên tha-la là do người Việt đọc trại chữ “ Schla” trong ngôn ngữ Khmer có nghĩa là “trạm, trại, nhà lồng, nhà mát”. Vì xóm Tha-la giống như cái trại định cư nằm ven sông Vàm Cỏ chảy qua Tây Ninh. Chưa rõ th-la có phải là tên dân gian để gọi cây sa-la hay không, nhưng trong kinh điển Phật giáo đã được dịch ra tiếng Việt, người ta chỉ thấy nói tới cây sa-la hay ta-la, chứ chưa thấy gọi tên này là cây tha-la.

Sa-la hay ta-la là một loại cây được văn học Phật giáo nói tới nhiều, nhưng tên này được mọi Phật tử biết đến vì nó được nhắc đi nhắc lại trong kinh Đại Bát Niết Bàn thuộc kinh Trường Bộ . Thuật lại những ngày tháng cuối đời của Đức Phật Thích Ca. Theo đó, trong mùa an cư cuối cùng. Thế Tôn bị một cơn bệnh trầm trọng. Ngài giữ tâm chánh niệm tỉnh giác, chịu đựng không ta thán. Rồi ngài nghĩ, “Thật không hợp lẽ nếu Ta diệt độ mà không có một lời với các đệ tử hầu cận, không từ biệt chúng Tỳ-kheo, vậy ta hãy tinh tấn thuyết phục cơn bệnh này để duy trì bệnh căn”. Sau đó, Ngài cùng chúng Tỳ-kheo đi lần về Kusinara (Câu-thi-la). Trên đường Ngài cho triệu tập thêm các Tỳ-kheo đến Vesali cùng đi. Đến gần Kusinara, Ngài nhận lời thọ thực do người thợ rèn tên là Thuần-đà dâng lên. Sau khi thọ thực bệnh Ngài trở nặng. Ngài nói với Tôn giả A-nan: “…hôm nay, khi canh cuối cùng đã mãn, tại Upavattana ở Kusinara, trong rừng Sala của dòng họ Malla, giữa hai cây sa-la song song, Như Lai sẽ diệt độ” Khi dến nơi đã chọn.Ngài bảo Tôn giả A-nan trải chỗ nằm đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sa-la, rồi Ngài nằm xuống theo dáng nằm của con sư tử, nghiêng người về phía hông bên phải. Lúc bấy giờm hai cây sa-la bỗng trổ bông trái mùa khắp thân và cành. Những đóa hoa sa-la, cùng với hoa mạn-đà –la từ hư không rơi xuống rơi vãi trên thân Ngài như để cúng dường. Sau khi cho phép mọi người thưa thỉnh giữa những người còn nghi ngờ, trả lời về cách thức xử sự đối với nhục thân của Như Lai, và dặn dò chúng Tỳ-kheo phải tinh tấn, không được phóng dật, Ngài vào định rồi từ từ diệt độ.

Do bản kinh này, về sau, mỗi lần nghe nhắc tới bốn chữ “ sa-la song thọ” là người Phật tử nghĩ đến cảnh tượng lúc Đức Phật nhập Niết Bàn.

Cây sa-la còn được nhắc đến trong kinh Tương Ưng Bộ. Thiên Có kệ , chương Tương ưng Tỳ-kheo-ni, có đoạn nói về Tỳ-kheo-ni Uppalavanna ở Savatthi. Vào buổi sáng sớm, vị Ni này đắp y đứng dưới một gốc cây sa-la đang trổ đầy hoa. Ác-ma bỗng hiện đến tìm cách khiêu khích để vị Ni này từ bỏ thiền định bằng cách đọc bài kệ: “Cô Ni kia ơi, đến với câu sa-la đầy hoa, lại đứng một mình dưới gốc, chẳng ai đẹp bằng cô, cô gái điên rồ kia, không sợ đám vô lại à?”. Suy nghĩ một lát, vị Ni biết đó là ác-ma quấy rối, liền trả lời bằng một bài kệ, ngụ ý dù có cả ngàn kẻ vô lại như kẻ đã khiêu khích mình đến quấy rối thì cũng không làm cho vị Ni ấy sợ hãi, vị Ni ấy đã làm chủ được tâm mình đã có đủ thần túc nhờ tu tập và đã được giải thoát khỏi mọi trói buộc.

Trong Tiểu kinh pháp hành thuộc kinh Trung Bộ có nói để giải thích cho những pháp hành hiện tại an ổn, vui thích có thể đem đến quả báo đau khổ trong tương lai. Đức Thế Tôn dùng thí dụ về một hạt giống dây leo rơi dưới gốc cây sa-la nhờ hội đủ nhân duyên đã nẩy mầm rồi phát triển thành một cây leo rậm rạp che kín cây sa-la khiến cành lá cua cây sa-la bị bóp nghẹt.

Việc được nhắc đến nhiều lần trong kinh điển Phật giáo chứng tỏ cây sa-la rất quen thuộc với người Ấn ngay thời kỳ cổ. Thật vậy, cây sa-la, có tên khoa học là Shorea robusta, là một loại cây thường mọc thành từng cụm; khi có mặt, chúng tạo nên thành phần chủ yếu của một khu rừng, có diện phân bố rộng ở Bengal, Nepal và cao nguyên Deccan. Giống cây này phát triển mạnh nơi đất có nhiều mùn pha cát và ẩm ướt; chậm lớn, nhưng sau một trăm năm trong những điều kiện thuận lợi, cây có thể cao tới 35 m, thân có chu vi hơn 2m. Thân thẳng hình trụ. Tán lá có khuynh hướng phân tuyến vươn cao lên ở cây con và xòe rộng ra ở cây già. Vỏ cây con trơn nhẵn, có ít nếp nhăn dài sâu dọc thân, dày từ 2 tới 5 phân có màu nâu sậm. Cây sa-la có lá quanh năm, nhưng ở nời khô hạn, cây trải qua thời kỳ thay lá ngắn ngủi từ tháng Hai đến tháng Tư. Lá non xuất hiện trong tháng Tư, những chiếc lá dài rộng có hình quả trứng, thớ lá nhám và dai, khi phát triển đầy đủ thì mặt trên sáng bóng. Hoa sa-la xuất hiện đầu mùa Hè, có màu trắng hồng rất thơm , hương tỏa xa thanh thoát, mọc ngay trên thân cây suốt từ gốc lên; chùm hoa dài ra liên tục, có thể dài ra 2, 3m. Kết cấu cả chùm hoa giống con rắn thần (naga). Mỗi bông hoa trông như đầu và miệng rắn phùng mang che phần nhụy ở giữa. Sa-la kết trái trong mùa hè. Trái sa-la chín lại có mùi hôi và khi chín nẫu thì hạt sa-la mới đủ già để nẩy mầm.

Gỗ cây sa-la nặng, chắc, khó cưa xẻ và đóng đinh hầu như có thể dùng được trong tất cả những công trình cần tới sự bền chắc và sự đàn hồi. Thân sa-la cũng cung cấp một loại nhựa có hương thơm được làm thành nhang để thắp trong buổi lễ hoặc dùng để xãm trét thuyền bè bằng gỗ. Hạt sa-la được ép lấy dầu thắp đèn và đôi khi được kẻ xấu giả làm sửa trâu lên men. Bã dầu sa-la là một loại thức ăn gia súc có giá trị. Khi có nạn đói, người nghèo Ấn Độ đã từng xay trái sa-la trộn với bột mì ăn để cho khỏi chết đói.

Trong khoảng 30 năm trở lại đây, cây sa-la đã được đem trồng ở nước ta. Trước hết cây được trồng ở các tự viện Phật giáo. Sau đó, giới chơi cây cảnh cũng biết đến với tên gọi là cây đầu lân, cây ngọc kỳ lân, hay cây hàm rồng.

Có lẽ chúng ta cũng nên phân biệt cây sa-la với cây vô ưu mà khá nhiều học giả cho rằng Đức Phật đản sanh cũng ở dưới cội cây sa-la. Kinh điển cho biết Đức Phật nhập diệt giữa hai cây sa-la và đản sanh dưới gốc cây vô ưu. Cây vô ưu có tên Ấn Độ là asoka,tiếng Anh có khi dịch là sorrowless tree, là một loại cây nhỏ, chậm lớn, cao từ 5 tới 20m, cành phân nhánh nhiều tạo thành tán gần như tròn. Lá có dạng ngọn giáo, cuống lá tròn, ngọn lá hơi tù hoặc nhọn, màu lục sậm, mặt trên bóng. Hoa vô ưu nở quanh năm, nhưng rực rở nhất từ tháng Hai tới tháng Tư, có hương thơm dìu dịu lan xa, màu đỏ cam, vàng cam rồi chuyển thành đỏ đậm. Tại Ấn Độ, cây thường mọc ở trung tâm phía Đông dãy Himalaya và ở vài khu vực phía Tây vịnh Bengal. Cây vô ưu vẫn được xem là cây thiêng trong suốt lịch sử người Ấn. Một trong những yếu tố mỹ thuật Ấn Độ là phù điêu trên cổng những ngôi đền Ấn giáo thể hiện một nữ Dạ-xoa tựa người vào thân cây còn tay thì với lên cành vô ưu. Phụ nữ Ấn Độ rất tôn kính cây vô ưu. Trong nền y dược Ấn Độ, cây vô ưu là một vị thuốc duy trì nữ tính, Về mặt tâm linh, vô ưu được cho là cây bảo vệ sự trong sạch của phụ nữ.

Với người Phật tử, cây vô ưu tượng trưng cho niềm vui ngày Đức Phật đản sinh, còn cây sa-la biểu tượng cho sự nhớ tiếc vô hạn thời Đức Phật còn tại thế, và nhắc nhở người con Phật luôn tinh tấn không được phóng dật.

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 112 | LÂM HẠNH NHIÊN

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Giêng 2015(Xem: 10116)
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 5970)
Một vị Hòa thượng đã nói đùa: “Chùa thờ linh lúc nào cũng đông đúc Phật tử đến sinh hoạt, việc điều hành chùa tuy bận rộn nhưng dễ dàng vì có phương tiện cúng dường của Phật tử. Trái lại, những ngôi chùa chỉ đào tạo Tăng Ni có trình độ giáo lý cao như cử nhân, tiến sĩ thì phần lớn không có chúng, không có Phật tử”, và vị này đã kết luận: “tiến linh có phần ‘hơn’ tiến sĩ!!!”.
16 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 19348)
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5266)
Vị trí địa lí và các sinh hoạt văn hóa kinh tế giữa Trung Quốc (TQ) và Việt Nam (VN) đã để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ theo dòng thời gian, nhất là khi Phật giáo (PG) du nhập vào Đông Nam Á và TQ. Phần này chú trọng vào các cách đọc (âm Hán Việt) của chữ 梵 phạn hay phạm trong các tài liệu cổ TQ và các dữ kiện tương ứng trong tiếng Việt.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6034)
Tôi không có ý định nói tiếp ý của câu ca dao thứ hai “ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta” vì mình chưa đủ trải nghiệm và hiểu biết để đoan chắc rằng “lắm kẻ” đó có “giòn” hơn hay không “giòn” hơn ta. Tôi chỉ xin nói về một vài trải nghiệm nho nhỏ khi “ra đường” để có dịp nhìn lại mình khi “ở nhà” với những mối quan hệ “mẹ con” thân thuộc.
03 Tháng Mười Một 2014(Xem: 4642)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà. Mặc dù Đức Phật đã mở một lối đi riêng mang tính tiên phong về phương diện tư tưởng nói chung và lãnh vực nghệ thuật nói riêng; tuy vậy, vẫn có những giao thoa nhất định trong hành hoạt đời thường, vì cùng sinh hoạt và tồn tại trong một không gian văn hóa.
29 Tháng Mười 2014(Xem: 5326)
Theo các nguồn sử liệu đáng tin cậy, đạo Phật truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch, cho đến Khương Tăng Hội là vị tăng sĩ có sử tích đầu tiên trong lịch sử (sanh khoảng năm 190 - mất năm 280 sau tây lịch) và để lại nhiều tài liệu viết dịch;[1]từ ấy đến nay đã gần hai ngàn năm.
14 Tháng Mười 2014(Xem: 5777)
Hằng năm, sau ba tháng an cư, nhập hạ trước, từ ngày 16/6 đến 16/9, suốt một tháng, tức là từ ngày 16/9 đến ngày 16/10 ÂL. trùng với ba tháng mùa mưa ở Ấn Độ, chư tăng được phép thọ nhận y Kaṭhina do thí chủ cúng dường. Truyền thống này có sự tích và nhân duyên từ thời đức Phật:
27 Tháng Chín 2014(Xem: 7126)
Như thường lệ, đúng vào ngày Chủ nhật hàng tuần, chư tôn đức Phật giáo Nam Tông tỉnh Thừa Thiên Huế đều có pháp khất thực trên những con đường êm ả của xứ Huế thơ mộng. Những bước chân nhẹ nhàng, thong thả với chánh niệm, pháp khất thực đã thể hiện nét đẹp văn hóa của Phật giáo xứ Huế và dần trở thành thân thuộc với người dân.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10568)
Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả.