Vô Cảm Xã Hội Và Thái Độ Của Người Phật Tử

31 Tháng Mười 201100:00(Xem: 36145)

VÔ CẢM XÃ HỘI
VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ
Chúc Phú

Đừng e ngại việc nhỏ hay việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ trong những tình huống phù hợp ở đời thường… là những việc cần làm, thể hiện cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay...

Nhìn dáng mặt khắc khổ và ánh mắt khẩn cầu xin lại bằng lái xe của chàng thanh niên bị kẻ gian móc túi trên xe buýt[i], mà báo chí đã liên tục thông tin trong những ngày gần đây, trong tôi chợt dâng lên một cảm xúc uất nghẹn và thương cảm đến nao lòng. Lần ngược lại những thông tin cũ từ các báo trong nước, chuyện hiệp sĩ Minh Tiến ham bắt cướp nên bị mất trộm xe; chuyện những đứa trẻ đánh nhau và người lớn chỉ đứng nhìn, chuyện những người hôi của từ những tai nạn giao thông thương tâm…đã cho thấy một sự dững dưng, không động lòng, mà ngôn ngữ ngày nay gọi là thái độ vô cảm xã hội, đã và đang hiện diện trong dòng sống sinh động của xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ của một người học Phật, chúng tôi muốn sẽ chia thêm về thái độ cũng như cách hành xử cần có của người Phật tử nói chung, trước những hiện tượng này.

Sống là sống với

Cần phải thấy rằng, sống là sống với, không thể ở đâu bạn có thể sống một mình. Với cái nhìn liên hệ duyên sinh, sự hiện hữu của mỗi con người, của mỗi sự vật, hiện tượng … có quan hệ và liên hệ thâm thiết đến nhau. Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh[ii]. Chân lý liên hệ duyên sinh này đã được văn học Phật giáo hiện đại khái quát hóa theo kiểu văn chương như: một con muỗi đập cánh ở rừng rậm Amazon thì ở Philippine có gió mùa. Bằng cái nhìn tương tức và liên hệ đó, trong một không gian xã hội thu nhỏ, có thể thấy rõ sự khổ đau hay bất hạnh của ai đó, có sự liên đới trách nhiệm đến thái độ sống cũng như hành vi của mỗi người, trong đó có bản thân ta. Do vậy, đừng bàng quan giương mắt làm ngơ trước cái xấu, cái ác đang diễn ra trong xã hội, vì tưởng rằng chuyện đó không liên quan đến bản thân mình. Cần phải hiểu rằng, cũng do tư duy của mình, do thái độ sống của mình, do cách hàng xử ích kỷ của mình… mà cái xấu, cái ác đó có cơ sở để nảy sinh.

Không chỉ trên phương diện liên hệ duyên sanh, trong mối liên hệ, tác động giữa nghiệp chung (cộng nghiệp) của nhiều người và nghiệp riêng (biệt nghiệp) của từng người, đã góp phần tạo ra những nỗi bất hạnh hoặc cái xấu, cái ác. Vì lẽ, do nhân như vậy, duyên như vậy nên ta đã gặp nhau trên cõi đời này, trong cuộc sống này, tại không gian này, với bối cảnh xã hội như vậy. Không thể đơn phương trách đời, trách người, trách nhà chức trách theo dạng thức Chí Phèo thời nay. Ở đây, cần phải thấy rằng, tập tính sinh hoạt, không gian và bối cảnh xã hội có sự liên hệ sâu xa đến phước báo cũng như dẫn nghiệp, hành động của mỗi con người. Ngành khoa học nghiên cứu về tâm lý tội phạm cho thấy, có sự ảnh hưởng và liên hệ sâu xa về dấu ấn tuổi thơ, không gian gia đình, bối cảnh giáo dục, môi trường sống…có tác động rất lớn đến hành vi phạm tội của một cá nhân. Thấy rõ mối liên hệ và bối cảnh sống cụ thể, để chúng ta nỗ lực để hoàn thiện mình, góp phần hoàn thiện xã hội và đặc biệt trước mắt, là luôn giữ tâm rung cảm, trước những khổ đau cụ thể của mỗi con người.

Sự rung cảm trước khổ đau.

Lòng thương được xem là thuộc tính cơ bản của con người. Ở đâu có con người, nơi ấy có tình thương. Làm người đúng nghĩa, yêu cầu bắt buộc là phải có tình yêu thương đồng loại. Không có tình yêu thương đồng loại và không rung cảm trước nỗi khổ đau của tha nhân, thì chưa phải là một con người đúng chuẩn và đúng nghĩa.

Đạo Phật là tôn giáo tiêu biểu cho tình thương. Là một người Phật tử, lẽ tất nhiên tình thương dành cho con người bao giờ cũng lớn hơn người bình thường. Vì lẽ, tình thương của một người phật tử đúng nghĩa không chỉ dừng lại ở tình thương đồng loại, mà còn mở rộng thương cả vạn loại sinh linh. Trước những bất hạnh, khổ đau của tha nhân, cũng như khi đối diện với cái xấu, cái ác đã và đang len lõi xuất hiện trong hiện thực sống này, người con Phật cần phải giữ tâm rung cảm như là chuyện của chính bản thân mình. Mắt thương nhìn cuộc đời là hạnh nguyện của mười phương chư Phật mà tiêu biểu là hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm. Hạnh nguyện đó, đã là người phật tử thì phải nỗ lực noi theo và thực hiện.

Trước mắt, phải giữ tâm rung cảm, không xơ cứng, chai lỳ trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân. Dẫu biết rằng, chỉ giữ được tâm rung cảm như thế thôi cũng đã là một điều rất khó, trong dòng chảy phức tạp của đời sống này. Bởi lẽ, một khi năng lực bảo hộ và quản lý của nhà chức trách vẫn tồn tại những giới hạn, một khi tham dục lên ngôi và thói quen thụ hưởng tăng dần, một khi cái xấu, cái ác luôn đoanh vây và xuất hiện hằng ngày, một khi sự mưu mô, lừa lọc hiện diện khắp nẽo và niềm tin giữa con người và con người đang tụt hạng ngay cả trong những mối liên hệ, quan hệ với người thân…thì thái độ vô cảm sẽ lặng lẽ, âm thầm xuất hiện và tạo nên những hệ lụy kéo theo trong cuộc sống này.

Ở đây, theo quan điểm xuyên suốt của Phật giáo, không rung cảm trước nỗi khổ đau của đồng loại, tha nhân thì chưa phải là người phật tử đúng nghĩa. Vì lẽ, không rung cảm trước đau khổ của con người, đó chính là tội ác. Do đó, với cái nhìn tích cực và chủ động, người phật tử phải xem việc giữ con tim rung cảm trước nỗi khổ đau và bất hạnh của con người là một hạnh tu. Một khi hạnh tu này thuần thục, khi nhân duyên chín muồi và hoàn cảnh sống đủ điều kiện, người phật tử dễ dàng biến lý tưởng sống cao đẹp của hạnh tu trở thành hành động hiện thực, góp phần giải quyết từng nổi khổ đau cụ thể trong đời.

Phụng sự và dấn thân, hạnh tu ở mọi thời đại.

Với Phật giáo, phụng sự tha nhân được xem là hạnh tu của mọi thời đại. Ngay bản thân Đức Phật là cả một bài học sáng ngời về hạnh phụng sự, dấn thân. Đọc lại trang sử Phật hào hùng qua các thời đại, có thể thấy rõ hạnh nguyện cứu người, giúp đời của các thế hệ tiền nhân trong Phật giáo luôn được hậu thế ngưỡng vọng và tôn xưng.

Trong tư duy tục đế, lẽ tất nhiên, chúng ta còn rất lâu mới thành Phật và con đường cao tột đó, ta chưa thể bước vào chặng cuối của hành trình. Mặc dù vậy, đã là con Phật, ít nhiều chúng ta cũng hội tụ những tố chất như Phật, và một trong những tố chất đó, chính là tinh thần tự nguyện phụng sự và nỗ lực, dấn thân. Ở đây, điều cần phải minh định trước tiên là sự phụng sự và dấn thân trên cơ sở hoàn cảnh sống và nghiệp lực của riêng mỗi con người.

Tùy theo điều kiện của mình mà ta có thể lựa chọn một sự phụng sự, dấn thân thích hợp. Thái độ đó cần phải hành xử như việc cứu người đuối nước. Phải ý thức rằng năng lực của mình ra sao và sức nặng của kẻ kia thế nào để cả hai không bị chìm xuống nước. Nói rõ hơn, phụng sự tha nhân phải có sự quán sát của trí tuệ. Bởi lẽ, với hoàn cảnh sống của một người phật tử bình thường, có những rũi ro và hạn chế nhất định, trong sự dấn thân và phụng sự tha nhân.

Tư duy rõ ràng về điều này để có thể lựa chọn cho mình một phương cách sống dấn thân và phụng sự phù hợp. Đừng e ngại việc nhỏ hay việc to. Nhặt một cây đinh có khả năng phá hỏng ruột xe trên quốc lộ, gọi một cú điện thoại khi thấy ai đó cần cấp cứu trên đường, ra tay chở che và hỗ trợ trong những tình huống phù hợp ở đời thường…là những việc cần làm, thể hiện cho hạnh tu thiết thực của một người cư sĩ trong thời đại hôm nay. Hơn đâu hết, đã là một cư sĩ trong đời, phải sống làm sao để sự hiện hữu của mình ngoài ý nghĩa với người thân, vợ con, còn phải có ý nghĩa với những hoàn cảnh thương tâm khác.

Với một đất nước có trên 45 triệu người theo đạo Phật như đất nước Việt nam[iii], nếu như mỗi người cư sĩ phật tử đều ý thức và rung cảm trước khổ đau của đồng loại, tha nhân và nỗ lực dấn thân, phụng sự, thì đó là một tín hiệu đáng mừng cho đạo đức xã hội hôm nay. Trong khuôn khổ những nỗ lực trước mắt, người cư sĩ phải sống làm sao đừng bao giờ để xảy ra tình trạng, ngày đến chùa tụng kinh đều đặn, nhưng khi gặp chuyện bất hạnh của người thì ngoãnh mặt, quay lưng. Kinh Phật, ta có thể bắt gặp ở thực tế đời thường và bản kinh đó có ý nghĩa không những cho bạn, cho tôi và cho tất cả những ai đang cầu mong vơi khổ.

Chúc Phú
(Giác Ngộ)


[i] Xem clip trên youtube tại đây: http://www.youtube.com/watch?v=JDO8MhAifig

[ii] Kinh Tiểu Bộ, kinh Phật tự thuyết, chương 1, phẩm Bồ đề.

[iii] Theo, Hòa thượng Thích Thiện Nhơn, Báo cáo của Ban thường trực Hội đồng trự sự trung ương giáo hội Phật giáo Việt nam, mục Hướng dẫn Phật tử, năm 2007.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Giêng 2015(Xem: 10129)
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 5982)
Một vị Hòa thượng đã nói đùa: “Chùa thờ linh lúc nào cũng đông đúc Phật tử đến sinh hoạt, việc điều hành chùa tuy bận rộn nhưng dễ dàng vì có phương tiện cúng dường của Phật tử. Trái lại, những ngôi chùa chỉ đào tạo Tăng Ni có trình độ giáo lý cao như cử nhân, tiến sĩ thì phần lớn không có chúng, không có Phật tử”, và vị này đã kết luận: “tiến linh có phần ‘hơn’ tiến sĩ!!!”.
16 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 19362)
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5274)
Vị trí địa lí và các sinh hoạt văn hóa kinh tế giữa Trung Quốc (TQ) và Việt Nam (VN) đã để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ theo dòng thời gian, nhất là khi Phật giáo (PG) du nhập vào Đông Nam Á và TQ. Phần này chú trọng vào các cách đọc (âm Hán Việt) của chữ 梵 phạn hay phạm trong các tài liệu cổ TQ và các dữ kiện tương ứng trong tiếng Việt.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6045)
Tôi không có ý định nói tiếp ý của câu ca dao thứ hai “ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta” vì mình chưa đủ trải nghiệm và hiểu biết để đoan chắc rằng “lắm kẻ” đó có “giòn” hơn hay không “giòn” hơn ta. Tôi chỉ xin nói về một vài trải nghiệm nho nhỏ khi “ra đường” để có dịp nhìn lại mình khi “ở nhà” với những mối quan hệ “mẹ con” thân thuộc.
03 Tháng Mười Một 2014(Xem: 4646)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà. Mặc dù Đức Phật đã mở một lối đi riêng mang tính tiên phong về phương diện tư tưởng nói chung và lãnh vực nghệ thuật nói riêng; tuy vậy, vẫn có những giao thoa nhất định trong hành hoạt đời thường, vì cùng sinh hoạt và tồn tại trong một không gian văn hóa.
29 Tháng Mười 2014(Xem: 5344)
Theo các nguồn sử liệu đáng tin cậy, đạo Phật truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch, cho đến Khương Tăng Hội là vị tăng sĩ có sử tích đầu tiên trong lịch sử (sanh khoảng năm 190 - mất năm 280 sau tây lịch) và để lại nhiều tài liệu viết dịch;[1]từ ấy đến nay đã gần hai ngàn năm.
14 Tháng Mười 2014(Xem: 5782)
Hằng năm, sau ba tháng an cư, nhập hạ trước, từ ngày 16/6 đến 16/9, suốt một tháng, tức là từ ngày 16/9 đến ngày 16/10 ÂL. trùng với ba tháng mùa mưa ở Ấn Độ, chư tăng được phép thọ nhận y Kaṭhina do thí chủ cúng dường. Truyền thống này có sự tích và nhân duyên từ thời đức Phật:
27 Tháng Chín 2014(Xem: 7130)
Như thường lệ, đúng vào ngày Chủ nhật hàng tuần, chư tôn đức Phật giáo Nam Tông tỉnh Thừa Thiên Huế đều có pháp khất thực trên những con đường êm ả của xứ Huế thơ mộng. Những bước chân nhẹ nhàng, thong thả với chánh niệm, pháp khất thực đã thể hiện nét đẹp văn hóa của Phật giáo xứ Huế và dần trở thành thân thuộc với người dân.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10586)
Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả.