Cẩm Nang Nhập Thất Của Jamgon Kongtrul

30 Tháng Mười Một 201818:39(Xem: 5055)

CẨM NANG NHẬP THẤT CỦA JAMGON KONGTRUL
 Jamgon Kongtrul’s Retreat Manual
by Jamgon Kongtrul Lodro Tayé
Snow Lion Publications
Ngawang Zangpo dịch sang Anh ngữ và viết lời giới thiệu
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

  

Nội dung

 

blankLời nói đầu

Lời Giới thiệu của Dịch giả bản Anh ngữ

Khóa Nhập thất Ba Năm, Sáu Tuần

Các Trung tâm Nhập Thất: Môi trường Vật lý của chúng

Thời gian Nhập Thất

Các Trung tâm Nhập Thất và Giới tính

Tu tập Thiền định trong Khóa Nhập Thất

Cuộc đờiTác phẩm của Jamgon Kongtrul Liên quan với việc Nhập Thất

Quan điểm Không Bộ phái của Jamgon Kongtrul và Chương trình Nhập Thất

Cuộc đời của Kongtrul và Quan điểm Không Bộ phái

Sự Phát triển của Trung tâm Nhập Thất của Kongtrul

Khóa Nhập Thất Ba Năm tại Tsadra Rinchen Drak và Phần Đời còn lại của Kongtrul

Cẩm nang Nhập Thất của Jamgon Kongtrul

 

Khẩn cầu và Quyết định

Lời Mở đầu

  1. I.    Việc Chuẩn bị và Nhập Thất

Chuẩn bị Tâm thức

Chuẩn bị Thực tiễn

Nhập Thất

  Đời sống trong Ẩn Thất

 

  1. Chương trình chính yếu của Khóa Nhập Thất

Các Thực hành Chuẩn bị

Nguồn gốc của Dòng Giáo huấn Khẩu truyền của các vị Karmapa

Những Cẩm nang được Sử dụng trong các Thực hành Chuẩn bị

Dòng Giáo huấn Lời Dạy của Đức Phật

Sự Quan trọng của các Thực hành Chuẩn bị

Chương trình Nhập Thất cho các Thực hành Chuẩn bị

Dòng Giáo huấn Shangpa

Nguồn gốc của Dòng truyền thừa

Các Thiền định Chính yếu của Dòng truyền thừa

Lịch sử Sau này của Dòng Truyền thừa

Chương trình Nhập thất

Dòng Giáo huấn Kim cương Du già

Nguồn gốc của Dòng truyền thừa

Các Thiền định Chính yếu của Dòng truyền thừa

Lịch sử Sau này của Dòng Truyền thừa

Dòng Giáo huấn Thực hành Miên mật

Chương trình Nhập Thất

Dòng Giáo huấn Cổ truyền

Nguồn gốc của Dòng truyền thừa

Suối nguồn của các Thiền định

Kho tàng Giáo lý được Tái khám phá

Chương trình Nhập thất

Các Thực hành Bổ túc được Thực hiện trong Khóa Nhập Thất

Ra Thất

  1. 2.  Thời Khóa biểu Hàng Ngày

Thông tin Cần thiết

Dòng Giáo huấn Cắt đứt

Trình tự Yoga của Bốn Khóa Thiền định Hàng ngày

  1. Các Nghi lễ Phụ Hàng Tháng và Hàng Năm

Thông tin Cần thiết

Chương trình Hàng Tháng về Các Lễ Cúng dường Kỷ niệm và Nghi lễ Phụ

Các Thực hành Cúng dường và Lễ Cúng dường Kỷ niệm Phụ trên Căn bản Hàng Năm

  1. 4.                      Người Nhập Thất trong chùa Bảo hộ

Thông tin Cần thiết

Chương trình dành cho Người Nhập Thất trong Chùa Bảo hộ

  1. 5.                      Những Quy tắc Tổng quát về cách Hành xử và Giới luật

Lời Khuyên Trọng yếu Nhất về việc Sống trong Ẩn Thất

  1. III.   Những Lời Khuyên về việc Sinh hoạt Sau khi Nhập Thất

Hồi hướng và Lời Cuối sách

 

Phụ lục 1: Sách được Đề cập trong Phần Mở đầu

Phụ lục 2: Sách và Lời Nguyện được Đề cập trong Cẩm nang Nhập Thất

Phụ lục 3: Những Nhân vật được Đề cập trong Cẩm nang Nhập Thất

Phụ lục 4: Chư Phật, Bồ Tát, Bổn Tôn và các Thực hành được Đề cập trong Cẩm nang Nhập Thất

  

Xin hồi hướng cho vị Thầy của tôi, ngài Kalu Rinpochay, người mà lòng từ bi, trí tuệtinh thần sáng tạo là những kho tàng vô tận. 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Cẩm nang Nhập Thất của Jamgong Kongtrul đã là một bạn đồng hành quý báu của tôi trong gần mười lăm năm. Tôi được giới thiệu với quyển sách này trong một chương trình tu tập thiền định được hình thành trên một quy trình được mô tả trong bản văn này, một khóa nhập thất ba năm sáu tuần. Tôi đã hoàn tất hai khóa nhập thất như thế. Trong những năm đó, những lời dạy của Kongtrul thường tạo hứng khởi cho tôi, mặc dù tôi không bao giờ cảm thấy mình đáp ứng được những mong đợi mà ngài kỳ vọng nơi các đệ tử nhập thất của ngài. Ngày nay, việc đọc lời ngài khuyên dạy những người đã hoàn thành khóa nhập thất cũng tiếp tục là một kinh nghiệm khiêm tốn.

Khóa nhập thất ba năm sáu tuần tạo thành một trong những tổ chức chính yếu của nền giáo dục Phật Giáo Mật thừa trong vùng Hy mã lạp sơn. Trong hai dòng Nyingma và Kagyu – là hai trong bốn hệ thống tu viện chính - chỉ những người đã hoàn tất những khóa nhập thất như thế mới được nhận danh hiệu Lạt ma. Trong khi những chương trình tu tập tại các trung tâm nhập thất thì khác biệt nhau, quyển sách này giới thiệu một cái nhìn đầy đủ về một chương trình được phác họa bởi tác giả - một thiền sư nổi danh và được tôn kính trong thế kỷ mười chín. Vì thế tác phẩm này sẽ mang lại sự hiểu biết nền tảng về nhiều tổ chức tương tự vẫn cung cấp việc đào tạo cho những người trở thành các “Lạt ma.”

Cẩm nang Nhập Thất của Jamgong Kongtrul được biên soạn để mang lại một hướng dẫn cho những người đi vào một chương trình thiền định ba năm miên mật. Tác giả không đưa những lời khuyên của mình vào các giáo huấn về cách thiền định; ngài chỉ liệt kê những thiền định bao gồm chương trình nhập thất. Việc phiên dịch tác phẩm này được bổ túc bằng một vài chi tiết về những nguồn mạch của các thiền định được đề cập, nhưng trong đó không bao gồm thông tin liên quan đến nội dung của những quán tưởng. Giáo huấn trong thiền định Mật thừa, dù trong thời của ngài Kongtrul hay trong hiện tại, vẫn tồn tại trong lãnh vực của mối quan hệ mà một thiền giả có với vị cố vấn tâm linh được tin cậy của mình. Việc quyết định dấn mình vào một khóa nhập thất dài hạn thì cũng thế. Quyển sách này đưa ra một bức tranh trong trẻo về đời sống tâm linhthực tiễn của loại tổ chức (thể chế) này nhưng bản dịch này không được thực hiện với ý định khuyến khích người đọc cân nhắc để đi vào một khóa nhập thất như thế.

Tôi hy vọng là quyển sách này sẽ đóng góp cho sự hiểu biết của chúng ta về quan điểm không-bộ phái trong Phật giáo Mật thừa vùng Hy mã lạp sơn và giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc về tác giả, ngài Jamgong Kongtrul. Cả hai chủ đề quan trọng này chưa nhận được sự chú ý mà chúng đáng được nhận trong bất kỳ ngôn ngữ nào ngoài tiếng Tây Tạng. Một tường thuật ngắn gọn về cuộc đờitư tưởng của Kongtrul bởi chúng liên quan đến khóa nhập thất được giới thiệu trong phần dẫn nhập, bao gồm những trích dẫn đã được phiên dịch của chính Kongtrul. Một số trong những trích dẫn này quá dài nhưng tôi hy vọng người đọc sẽ nhận thức được cơ hội để đọc một số suy nghĩ của Kongtrul qua chính lời của ngài. Đối với cuộc đời và công việc của Kongtrul thì có nhiều điều để nói hơn là những gì được đề cập ở đây và có nhiều điều để nói hơn nữa về phong trào không-bộ phái. Không nhà biên soạn nào có thể đánh giá đúng về cuộc đời của một người chỉ trong vài lời, nói gì đến cuộc đời của một thiên tài đa dạng như Kongtrul. Trong việc mô tả thật ngắn gọn cuộc đời của ngài, và chủ yếu là trong mối liên kết với chủ đề của quyển sách này, tôi đã mạo hiểm khi ngẫu nhiên làm méo mó tư tưởng của ngài. Ít nhất sự liều lĩnh này sẽ bõ công nếu những giới hạn của tôi sẽ khiến cho những người khác giới thiệu một bức tranh chi tiết hơn về ngài Kongtrul cho các độc giả không nói tiếng Tây Tạng.         

Giờ đây việc hiểu biết về ngài Kongtrul dường như còn cần thiết hơn một thập kỷ trước bởi nhiều Đạo sư vĩ đại là những người thừa kế tâm linh của ngài mới vừa viên tịch. Bản liệt kê dài bao gồm những vị có công đưa Phật giáo đến các quốc gia ngoài vùng Hy mã lạp sơn: Đức Karmapa, Đức Dudjom Rinpochay, Dilgo Khyentsay Rinpochay, Day-zhung Rinpochay, Pawo Rinpochay, Salchay Rinpochay, Chögyam Trungpa Rinpochay, và Kalu Rinpochay, vị Thầy chính của tôi, là một hóa thân của Kongtrul. Những Đạo sư này được đào tạo theo phong cách của Kongtrul, được dạy dỗ bằng giọng nói dịu dàng nhưng có thẩm quyền của ngài, và đã tiếp tục công việc của ngài là đẩy mạnh sự phát triển mọi hình thức thực hành Phật giáo không chút thiên vị. Bởi nhiều Phật tử ngày nay chịu ảnh hưởng sâu xa của các Đạo sư này, sự vắng mặt của các ngài thúc đẩy chúng ta đổi mới sự suy xét về nguồn mạch của phần lớn giáo huấn của họ: Jamgong Kongtrul.

Trước hết, quyển sách này đề cập đến khóa nhập thất ba năm sáu tuần, một tổ chức quan trọng đối với Phật giáo Mật thừa vùng Hy mã lạp sơn. Tuy nhiên, không phải ngẫu nhiên khi tôi chọn bản văn này để dịch bởi khóa nhập thất này là hoạt động chính yếu đối với cuộc đời của Kongtrul và là một sự giới thiệu cho lý tưởng không-bộ phái của ngài.   

 

CHÚ THÍCH VỀ CÁCH DỊCH

 

Bản dịch này không có ý định là một sự đổi mới hay thách thức về văn phong. Đôi khi tôi khởi hành từ các tiêu chuẩn thông thường theo những cách thức thứ yếu, thường thích dùng từ Anh ngữ hơn là những từ tương đương bằng Phạn ngữ hay Tây Tạng của chúng. Những chỗ còn dùng từ ngoại quốc trong bản văn cho thấy những giới hạn của một dịch giả như tôi.

Tên của những người được để trong hình thức nguyên gốc của chúng, có nghĩa là tên được gọi trong đời họ. Điều này cho thấy một sự khởi hành từ quy ước giữa các tác giả Tây Tạng, là cách để phiên dịch hầu hết những tên Ấn Độ và dịch sang tiếng Tây Tạng. Tôi đã mang vấn đề này ra hỏi ba Đạo sư nổi tiếng và nhận được ba câu trả lời khác nhau. Một Đạo sư, ngài Dabzang Rinpochay (đã mất), cho là trong những bản dịch Anh ngữ, tất cả những tên của người Ấn Độ hay của chư Phật, Bồ Tát và Bổn Tôn nên được dịch lại sang Phạn ngữ. Đạo sư khác, ngài Trangu Rinpochay, đã trích dẫn từ một bản văn khuyên các dịch giả Tây Tạng mới vào nghề ủng hộ ý kiến của ngài là bất kỳ điều gì được phiên dịch, kể cả các tên, nên được dịch sang Anh ngữ. Trong khi tôi đồng cảm với ý kiến đó thì ở đây tôi theo lời khuyên của Đạo sư thứ ba mà tôi đã hỏi, là ngài Tai Situpa. Ngài bày tỏ rằng các dịch giả Tây Tạng sai lầm khi dịch tên người: không nên dịch các tên này. Ngài nói danh hiệu của chư Phật, Bồ Tát, và các Bổn Tôn nên được dịch, bởi đó không phải là những cá nhân trong loài người. Tôi chân thành tôn kính tất cả ba Đạo sư này; ý kiến của các ngài rất quan trọng đối với tôi. Tôi đã quyết định theo lời khuyên của Tai Situpa bởi trong hiện tại nó có vẻ thực tiễn nhất. Tôi hy vọng kết quả sẽ không làm mất phương hướng đối với những người đã quen với việc được phục vụ đầy đủ Phạn ngữ cùng với Phật giáo của họ. Độc giả có thể tìm thấy ở cuối sách một danh sách các tên xuất hiện trong bản văn chính của cẩm nang nhập thất.  

Những quyển sách được trích dẫn trong phần dẫn nhập hay trong bản văn chính xuất hiện với tựa đề Anh ngữ. Thật không may là rất ít những quyển sách này được dịch từ tiếng Tây Tạng sang ngôn ngữ ngoại quốc. Tựa đề Tây Tạng của những quyển sách này được liệt kê ở cuối sách. Thông tin này rất cần thiết để nhận ra được nguyên bản bởi các tựa đề Tây Tạng thường kéo dài tới đôi giòng trong bản văn: bất kỳ dịch giả nào cũng phải quyết định đâu là một phần của tựa đề nguyên bản, nếu có, để dùng làm tựa đề trong Anh ngữ. Chẳng hạn như tựa đề đầy đủ tiếng Tây Tạng của quyển sách này có thể được dịch là A Source of Comfort and Cheer: A Clear Guide to the Rules of Discipline for the Retreatants at The Ever-Excellent Abode of Radiant Great Bliss, the Isolated Retreat of Palpung (Một Suối nguồn của sự An nhàn và Hỉ lạc: Một Hướng dẫn Rõ ràng những Quy tắc Giới luật cho những Người Nhập Thất tại Trụ xứ Phổ Hiền của Đại Lạc Chói Lọi, Ẩn Thất Cô tịch ở Palpung). Thay vì sử dụng toàn bộ hay một phần của tựa đề này, tựa đề hiện tại có vẻ thực tiễnmô tả được nhiều hơn về nội dung của quyển sách. Các dịch giả phải làm những sự chọn lựa này; một ngày nào đó nhiều quyển sách được đề cập trong bản văn này với các tựa đề Anh ngữ có thể sẽ xuất hiện với tựa đề hoàn toàn khác biệt.

Về vấn đề thuật ngữ, độc giả có thể lưu ý rằng, những khi có thể, tôi đã tránh gọi Phật giáo trong vùng Hy mã lạp sơnPhật giáo “Tây Tạng”. Chắc chắn ngôn ngữ Tây Tạngngôn ngữ Phật giáo vượt trội trong vùng Hy mã lạp sơn, nhưng nhiều Đạo sưđệ tử trong quá khứhiện tại của hình thức phát triển tâm linh này không phải là người Tây Tạng. Những người không phải người Tây Tạng này bao gồm những người Ấn Độ, Bhutan, Nepal, Sikkim, và những thành viên của nhiều nhóm dân tộc và ngôn ngữ khác cư trú khắp vùng Hy mã lạp sơn. Họ cùng chia sẻ một niềm tin và cùng sử dụng một ngôn ngữ trong việc cầu nguyệnthiền định, nhưng nhiều người không phải là người Tây Tạng cũng như một tín đồ Thiên chúa giáo La mã không nhất thiết phải là người Ý. Về phần Kongtrul, ngài thường viết Phật giáo của “vùng Hy mã lạp sơn” (gangs chen rdzong) hơn là Tây Tạng, và tôi sung sướng khi đi theo khuôn mẫu của ngài.

Các từ Nyingma, Kagyu, Sakya, và Gayluk ít khi được đề cập đến trong quyển sách này. Tôi đã để dành việc sử dụng chúng cho những lúc Kongtrul có vẻ ám chỉ điều mà bốn từ này tượng trưng: bốn hệ thống tu viện chính của vùng Hy mã lạp sơn. Trong hầu hết những quyển sách của ngài, đã nhiều lần Kongtrul thảo luận về Phật giáo Mật thừa trong vùng Hy mã lạp sơn theo quan điểm của các dòng thực hành thiền định, đặc biệt là tám dòng thực hành. (Điều này được thảo luận đầy đủ hơn trong lời giới thiệu.) Tên của các dòng giáo huấn thiền định xuất hiện bằng Anh ngữ trong quyển sách này, mặc dù không thể tránh khỏi những thiếu sót trong việc dịch thuật. Chẳng hạn như, ở đây dòng Marpa Kagyu được dịch là Dòng Giáo huấn Khẩu truyền của Marpa, trong khi từ Kagyu là một dạng rút gọn của một tên hiếm khi được dùng, Kabab Shi’i Gyupa – Dòng Giáo huấn của Bốn sự Truyền dạy, một ám chỉ về một phần của những nguồn gốc của dòng truyền thừa. Dù có thể không chính xác bằng như thế, “Dòng Giáo huấn Khẩu truyền” được tìm thấy trong bản văn này, và chắc chắn đây không phải là lần đầu tiên một cách dịch như thế được sử dụng.

Từ lama (Lạt ma) xuất hiện rất thường xuyên trong bản văn Tây Tạng nhưng hiếm khi xuất hiện trong bản dịch. Từ này trong tiếng Tây Tạng có thể ám chỉ những người đã hoàn tất khóa nhập thất ba năm hay một Đạo sư giác ngộ có thể dẫn dắt một người qua mọi giai đoạn phát triển tâm linh đến sự giác ngộ toàn triệt và viên mãn. Thầy của tôi thường nhận xét rằng loại Lạt ma trước rất phổ biến, loại Lạt ma sau vô cùng hiếm có. Trong khi trong tiếng Tây Tạng, cả hai loại Lạt ma được biểu thị bằng cùng một từ, từ “lama’ xuất hiện trong bản dịch là khi Kongtrul đang nhắc đến những người hoàn tất khóa nhập thất, và “Đạo sư tâm linh” khi ngài nhắc đến một vị dẫn dắt tâm linh giác ngộ (là nam hay nữ).

Tôi bối rối không biết phải xử sự thế nào về việc Kongtrul có thói quen gọi Phật giáo Mật thừa là “Thần chú Bí mật” (Mật Chú), không phải là một thuật ngữ hợp thời đối với các Phật tử hiện đại. Tôi quyết định để sang một bên sở thích của mình và trung thành với văn phong của Kongtrul, bởi kỳ cục hay thậm chí khó chịu như “Mật Chú” có thể lại dễ nghe.

Trong cẩm nang nhập thất, các tiết mục giới thiệu được thêm vào mang lại thông tin cần thiết và bối cảnh lịch sử cho các thực hành được thảo luận. Để dễ phân biệt phần này với bản văn chính của cẩm nang nhập thất, các tiết mục giới thiệu được in bằng khổ chữ nhỏ hơn.

Cuối cùng, trong phần chú thích ở cuối trang, tiếng Tây Tạng tương đương của một thuật ngữ đôi khi được cung cấp trong dấu ngoặc đơn. Từ hay câu đầu tiên xuất hiện theo lối chữ không in nghiêng là một cách phát âm gần đúng của từ Tây Tạng. Phiên âm này được tiếp theo bằng cách đánh vần Tây Tạng hiện tại bằng chữ in nghiêng.

 

LỜI CẢM ƠN

 

Bản dịch này mang lại lợi lạc ở những cấp độ khác nhau là nhờ sự giúp đỡ hay ý kiến của một số người. Lama Tsondru và Lama Umdzay Zopa, là hai vị đã hoàn tất khóa tu tập của trung tâm nhập thất được mô tả trong quyển sách này khi nó được Kalu Rinpochay hướng dẫn, đã đặc biệt giúp đỡ giải quyết những khó khăn do văn phong bản địa của Kongtrul. Yudra Tulku, Khamtrul Rinpochay, Geshe Sonam Rinchen, Zenkar Rinpochay (qua Peter Roberts), Tiến sĩ Tenpa Kelzang, và Nyima Tenzin Bashi cũng góp phần giúp tôi hiểu rõ bản văn Tây Tạng. Họ đã tận lực làm mọi sự để bảo đảm bản văn này không có những lỗi lầm: những sai lầm còn sót lại hoàn toàn là do dịch giả. Lama Drubgyu Tenzin (Tony Chapman) đã mang lại cho tôi sự trợ giúp và khích lệ vô giá cho bản Anh ngữ của quyển sách này. Tôi cũng cảm ơn các bình luậnphê bình của Kitty Rogers, Lama Kunzang Dorjay (Olivier Brunet), và Michael Rey.

Tôi đã sử dụng những tiện ích của máy vi tính tại Ủy ban Dịch thuật Phật giáo Quốc tế ở Sonada, Ấn Độ, và sự kiên nhẫn lớn lao của các bạn đồng nghiệp ở đó về việc tôi hay vắng mặt khi thực hiện quyển sách này. Tôi biết ơn về cả hai điều này.

Cuối cùng, Faye Angevine ở Đài Bắc và Lama Gyaltsen ở Tu viện Sonada đã hỗ trợ tôi về vật chất trong khi thực hiện bản dịch này. Sự rộng lượng của họ thật đúng lúc và đáng cảm kích. Tôi cũng mang ơn gia đình Hirota ở Tokyo đã hết sức tốt lành khi bảo trợ cho tôi trong chuyến đi đến trung tâm nhập thất của ngài Kongtrul tại Kham, ở đó tôi đã tìm ra giải đáp cho nhiều vấn đề của mình.

 

 

Lời Giới thiệu của Dịch giả 

 

Bản dịch Cẩm Nang Nhập Thất của Jamgong Kongtrul này được dự định như một đóng góp khiêm tốn cho sự hiểu biết của chúng ta về việc tu tập thiền định trong truyền thống Mật thừa của Phật giáo và về cuộc đời của tác giả, một thiền sư trong thế kỷ mười chín mà tác phẩm vẫn là một trong những ảnh hưởng vượt trội trong Phật giáo Mật thừa hiện đại vùng Hy mã lạp sơn.

Quyển sách ngắn này được biên soạn như một hướng dẫn cho những người bước vào một chương trình thiền định tập trung ba năm. Tác giả, giám đốc của chương trình, khuyên dạy các đệ tử của ngài chuẩn bị cho khóa nhập thất ra sao, sẽ trông chờ điều gì ở họ trong thời gian họ sống trong trung tâm, và làm thế nào để sống cuộc đời của họ khi hoàn tất mỹ mãn việc tu tập.

Nếu vào lúc đầu chúng ta nhận ra chủ đề của việc tu tập thiền định trong một khóa nhập thất thật huyền bí hay làm ta thoái chí, điều này không phải do bởi sự khó khăn bẩm sinh của tự thân chủ đề: đó là chỉ vì ta không có sự song hành với nó trong những nền văn hóa phi-Phật giáo. Quyển sách này mang lại cho chúng ta phương tiện thực tiễn vô giới hạn để đi vào thế giới khép kín của một khóa nhập thất. Cái thấy mà khung cửa sổ nhỏ bé này mang lại không được chấp nhận. Người ta hồ nghi là có bao giờ tác giả hy vọng công trình này sẽ được khảo sát bởi các độc giả quá xa lạ với nền văn hóathời đại của ngài. Tuy nhiên, dù có chủ tâm hay không, ngài mang lại cho các độc giả hiện đại chân dung sáng tỏ, chính xác nhất có thể có được của loại tổ chức này.

Một tiết mục chính yếu của quyển sách này được dành để mô tả chi tiết về chương trình nhập thất. Thông tin này đặc biệt đáng lưu ý trong trường hợp của Jamgong Kongtrul (“Vị Bảo hộ Dịu dàng”) (1813-99), bởi nó tiết lộ những quan tâmsở thích riêng tư của ngài trong phạm vi rộng lớn của các thực hành thiền định Phật giáo.

Trong thế kỷ mười chín, Kongtrul là người biên soạn Năm Kho tàng chứa đựng những điều tuyệt vời nhất trong hơn một ngàn năm kinh nghiệm của những người nói tiếng Tây Tạng trong việc nghiên cứu Phật giáothực hành những thiền định của nó. Tổng cộng, năm tuyển tập này bao gồm hơn một trăm quyển, từ 400 tới 800 trang mỗi quyển (sử dụng một hệ thống đánh số Tây phương). Trong những tuyển tập này, khoảng ba mươi quyển là tác phẩm gốc của Kongtrul bổ túc và chú giải những tác phẩm của các thiền sư trong quá khứ.

Thật khó có thể đánh giá ảnh hưởng mà những quyển sách này mang lại. Chúng là hình thức trong đó nhiều Phật tử hiện đại nói tiếng Tây Tạng tiếp tục nhận lãnh di sản tâm linh của họ. Chúng được tôn kính một cách phổ quát như nguồn mạch chính của những hướng dẫn có thẩm quyền và xác thực trong việc nghiên cứuthiền định cần thiết cho sự phát triển tâm linh trong Phật giáo.

Thật không may, những độc giả không nói tiếng Tây Tạng ít có phương tiện để đến được với con người này và tác phẩm của ngài. Chỉ có hai bản dịch những quyển sách của ngài được xuất bản bằng Anh ngữ: The Great Path of Awakening (Con Đường Giác ngộ Vĩ đại) và The Torch of Certainty (Ngọn Đuốc Xác quyết). Cả hai là những bản dịch thận trọngchính xác, trung thành với văn phong của tác giả. Nhưng chúng tượng trưng hai giọt nước vô cùng nhỏ nhoi rơi xuống từ một đại dương. Trong nguyên bản Tây Tạng, quyển sách trước dài 46 trang; một phần của quyển sau được xuất bản bằng Anh ngữ là 101 trang. Cả hai quyển này là một phần trong nguyên bản Tây Tạng dày 758 trang và quyển sách này chỉ là một trong hơn một trăm quyển là tác phẩm nguyên bản của Kongtrul và những biên soạn của ngài. Cẩm nang Nhập thất của Jamgong Kongtrul (64 trang trong tiếng Tây Tạng) chính là mùi vị khiêm tốn khác trong một bữa tiệc thật ê hề.

Ý nghĩa đặc biệt của quyển sách này trong việc hiểu biết Jamgong Kongtrul xuất phát từ vị trí chính yếutrung tâm nhập thất được mô tả ở đây đã chiếm cứ trong cuộc đời ngài. Trụ xứ Phổ Hiền của Đại Lạc Chói Lọi, như trung tâm được gọi, là trụ xứ chính của Jamgong Kongtrul trong phần lớn cuộc đời ngài. Ngài đã biên soạn hầu hết những quyển sách của ngài ở đó, lúc đầu thường được dành cho những người nhập thất. Việc ngài quan tâm đến từng phương diện của đời sống trong khóa nhập thất mà ta cảm nhận trong quyển sách này là một manh mối cho sự kiện đây là trung tâm duy nhất mà ngài đã thành lập. Đây là nhà của ngài và nó hoàn toàncủa riêng ngài – từ cấu trúc vật lý và các nội dung của nó cho đến những thực hành thiền định được những người nhập thất thực hiện. Bằng cách đọc lời ngài khuyên dạy các đệ tử, là những người khách đích thực trong ngôi nhà vật chấtthế giới tâm linh của ngài, ta có thể thoáng thấy đâu là điều Jamgong Kongtrul trân trọng nhất.

Lời giới thiệu dưới đây mang lại một vài thông tin tổng quát liên quan đến hai chủ đề chính của quyển sách này: khóa nhập thất thiền định ba năm như một tổ chức và ý nghĩa quan trọng của khóa nhập thất này trong cuộc đờitác phẩm của Jamgong Kongtrul.

Xem chi tiết nội dung:

pdf_download_2

cam-nang-nhap-that-cua-jamgon-kongtrul (Thanh Liên dịch Việt)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn