Thiền (song ngữ)

15 Tháng Mười Một 201503:10(Xem: 7414)
THIỀN
ZEN
 
Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn
Thánh Tri dịch từ Việt sang Anh
 

Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức. Thiền cũng không phải là nền triết học với những hệ thống luận lý mang tính chủ quan của vỏ não; cũng không phải là ngành khoa học với những cơ cấu lập trình và máy móc phức tạp.

Thiền chỉ là một danh từ tạm dùng để chỉ một tâm thái thường trực, bất biến và phi thời – không. Bản chất của thiền nằm ngoài mọi cặp phạm trù mâu thuẩn xung đột thuộc duy lý chủ quan bởi suy tưởng lý luận. Chúng ta có thể đạt đến trạng thái này bằng thể nghiệm tâm linh với bản chứng tự tâm, chứ không qua suy luận của bộ óc. Đây chính là công việc của đạo học, chứ không ở nơi triết học. Danh từ Thiền cũng chỉ là tiếng rỗng tuếch, không liên hệ gì đến tâm thái tịch nhiên vắng lặng, an tĩnh và tự do tuyệt đối của tâm hồn. Tâm thái này không hình thù, không tên gọi, nên từ trong bản chất nó xa lìa tướng danh tự, tướng nói năng, tướng tâm duyên. Nó bình đẳng tuyệt đối với mọi pháp.

Vì vậy cho nên, chúng ta hãy nghe lại cõi lòng như nó đang là, mà quên hết những tự ngôn tự ngữ của dòng thức, quên hết mọi tìm tòi học hỏi của vọng tâm.

Y hệt như ngón tay dùng để chỉ mặt trăng, những lời nói thuộc kinh điển chỉ được tạm dùng để diễn tả cái lẽ thực bất biến nơi tự tâm, nên hãy quên nó sau khi cảm nhận thực tại.

Đừng bao giờ để kinh điển, giáo điều đánh lừa mình với những văn phong hoa mỹ, hay trở thành nhà tù giam hãm tâm thái tự do tĩnh lặng tuyệt đối của mình.

Tham thiền đòi hỏi có một tự giác cao độ và thường trực, y hệt như mèo rình chuột khi nào bắt được chuột mới thôi. Và mỗi khi tỏ ngộ tâm thái tĩnh lặng phi thời – không thì chính sự tỏ ngộ ấy sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta trong mọi hành vi của sự sống. Chính sự tỏ ngộ ấy mà chúng ta trực nhận ra rằng, cái tâm thái tĩnh lặng và an nghỉ tuyệt đối ấy chính là niết bàn,  cũng chính là thiền. Vì vậy cho nên, thiền không có bắt đầu và kết thúc.

Ngược lại, khi chưa tỏ ngộ, chưa nhận ra bản tính tịch nhiên vắng lặng chiếu soi nơi mình, thì chưa thật sự tham thiền, chưa biết thiền là gì và vẫn còn đứng ngoài ngưỡng cửa thiền. Mọi hành vi tạo tác của chúng ta dầu có tinh vi khôn khéo đến đâu, thì cũng chỉ là sự cân nhắc tính toán dọ dẫm của ý thức mà thôi, nên không thể tránh khỏi vụng về dại dột lầm lẫn và đưa đến Xung đột. Khi tỏ ngộ được tâm thái tự do, an nghỉ tuyệt đối của tự tâm, thì khi ấy cuộc sống mới tràn đầy ý nghĩa, và mọi động thái luôn được soi sáng. Một tầm nhìn mới về nhân sinh và vũ trụ được mở ra; thấy cõi đời không là biển khổ nữa, mà là một bức họa lung linh mầu nhiệm, một bản hợp tấu tuyệt vời. Chúng ta không nhìn đời bằng ánh mắt hoang vu, mà bằng đôi mắt bình đẳng và tràn đầy yêu thương chân thật.

Mỗi khi cánh cửa thiền rộng mở thì bậc thầy lui bước. Lúc này hành giả tự mình cất bước độc hành trên lộ trình giải thoát, mà không còn ai can thiệp vào nữa. Tuy nhiên vẫn còn có những cuộc chiến đấu, nhưng dù phải chiến đấu mình vẫn được soi sáng bởi tĩnh thức nội tại và không bao giờ bị lạc hướng bởi đã có một lần kinh nghiệm tỏ ngộ trạng thái thanh tịnh bản nhiên của tự tâm.

Khi lọt vào cửa thiền thì chúng ta sẽ trở thành con người mới với nhãn quan mới, tức sống đồng nhất với chân lý. Sự tỏ ngộ không nhất thiết là lời khai thị của bậc tôn sư, mà lắm lúc chỉ cần một tiếng suối reo, một cơn gió thoảng, một chiếc lá lìa cành, hay một nhánh cây khô gãy. Khi ấy hành giả như người ngủ mê chợt giật mình tỉnh giấc, lập tức vụt thoát khỏi cơn mộng dài. Hành giả đã tỏ ngộ và thân chứng chân lý, đã trực nhận ra tâm thái tự do sống động và bất biến nơi mình, mình là vũ trụ, vũ trụ là mình. Ngay phút dây tỉnh thức ấy, hành giả không còn chiến đấu nữa và đã yên nghỉ trọn vẹn trong tâm thái tự do và bình lặng tuyệt đối của mình. Một cơ duyên chuyển hóa toàn diện đã xảy ra, đưa tâm thái đồng nhất với vũ trụ.

Như vậy, trước cuộc khởi hành diệu vợi, hành giả đã có bản đồ và kim chỉ nam trong tay. Hành giả đã nhận ra lộ trình và nơi đến. Hành giả đã có kinh nghiệm là bấy lâu nay tự đào xới tâm hồn mình bằng nhiều phương tiện và nay đã quá mệt mỏi vì những phương tiện ấy. Hành giả đã trực nhận ra sự dại dột trong việc dửng dưng dùng phương tiện ấy để dày xéo tâm hồn mình. Bây giờ hành giả đã tỉnh thức sang ngang, mà không trụ lại trên bất cứ cây cầu nào, cho dù cây cầu ấy tân kỳ đẹp đẽ đến đâu. Giờ đây hành giả không còn gì để làm, để nói cho dù chỉ một lời thôi. Bản thể sống động bao hàm hiện hữu với tuệ giác thực tại tuyệt vời. Chân lý hiện hữu uyên nguyên nơi mỗi chúng ta như hơi thở với không gian, như bầu trời chứa đầy trăng sao huyền nhiệm. Hành giả đã thân chứng chân lý bằng tâm thanh tịnh bản nhiên, mà không qua trung gian của dòng thức phân biệt nào, nên không còn bị ảo giác và kiến thức đánh lừa nữa.

 

THIỀN

ZEN

 

Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn

Thánh Tri dịch từ Việt sang Anh

 

Zen is not a religion, a doctrine or an intellectual point of view. Zen is also not a philosophical foundation with the systems of logical reasoning characterized by the subjectivity of the brain; nor a branch of science with structural programs and complicated equipments.

Zen is just a word use temporarily to show a state of mind that is permanent, constant, and transcending through time and space – Empty. The nature of Zen is beyond all pairs of contradictory and conflicting categories that belong to the subjective rationalism of our reasoning mind. We can achieve this state by experiencing spiritually with our own True Mind, and not through logical reasoning of the brain. This is the work of a Buddhist practical experience and not the logical reasoning of philosophy.  The term Zen itself is also just a completely empty name; it doesn’t relate to the quiescent, tranquil, and calm state of mind, an absolute freedom from the heart and mind. This state of mind is formless and nameless; Therefore, from its very nature, it is completely absent from any form and appearance such as name, word, and thought or mental cognition of the environment. It is absolutely equal to all things.

Therefore, we have to listen once again to the very inner most of our mind like it presently is; forget all the self words and self sounds of our flowing consciousness; and forget all the curiosities and inquiries of the misleading mind. 

Just like a finger pointing to the moon, all the teachings from sutras can only be temporarily used to describe the unchangeable truth of our own True Mind. Therefore, let’s forget them (all the teachings from sutras) after we have completely experienced the reality.

Do not ever let sutras and dharma teachings mislead us with their beautiful and eloquent writing styles, or become a place to imprison our absolute freedom and complete tranquility state of mind.

Practice Zen Meditation requires us to have a high and constant intuitive mind, just like a cat ambushing a mouse, it never let go of its focus until it catches its prey. And once we become enlightened or experiencing the awakening state of mind with a complete tranquility and transcending time and space – or empty, then the awakening itself will shine and guide us in all activities of our lives. Because of this awakening that we intuitively realizing that the tranquil state of mind and this absolute peace is Nirvana, and is also Zen. Therefore, Zen has no beginning and ending.

On the contrary, when we haven’t achieved the enlightenment, haven’t recognized the true nature of quiescence and tranquility right within us, then it means that we are not really practicing Zen Meditation, not knowing what Zen really is and still standing outside the door of Zen. No matter how clever and smart all our behaviors and actions are, they are just merely a careful consideration and calculation of our consciousness (mind); and hence, cannot avoid the clumsy and foolish mistakes leading to the conflicts. Once we have awakened and achieved the perfect freedom and absolute peace of our True Mind (Buddha-nature), then our lives will become more and abundantly meaningful and all our actions are always being shined and lighted upon. A freshly new view about the humanity and universe is opened; seeing life is no longer a sea of sufferings but a miraculous, lively, and sparkling picture, and a wonderful symphony. We will not be looking at life with desolate eyes, but with the equal, fully, and true-loving eyes.  

Whenever door of Zen is widely opened, the Master will step back. At this time, the practitioner himself will be walking alone on the path to liberation with no one intervenes him anymore. However, there are still battles, but even if he has to fight, he would still be clearly lighted by his inner mindful consciousness; and would never be lost because he have once experienced the awakening state of the natural peace and tranquility of his own True Mind (Buddha-Nature).

Once inside the door of Zen, we will become a new person with new point of view, which means living equally and harmoniously with the Absolute Truth. The enlightenment is not necessarily triggered by the teaching of a Dharma Master, but can sometime simply be the singing sound of flowing water in the creek, a light breeze, a leaf falling off from its branch, or a cracking sound of a dry tree’s branch. At that time, a practitioner is like a man in deep sleep suddenly awake, and immediately escapes from his long and continuous dream. The practitioner has become enlightened and experienced the Absolute Truth. He has recognized his free, lively, and permanent state of mind within him, that is his True Self is the Universe, the Universe is his True Self. At that very awakening moment, the practitioner no longer fights in battles and has already rested peacefully and completely within his own absolute tranquility and freedom state of mind. A favorable opportunity for a total transformation has happened, allowing the state of mind to unify fully with the universe.

Thus, before the starting of a long journey, the practitioner already has a map and a compass in his hands. The practitioner already recognized the path and the destination. The practitioner already has experienced the digging and beating of his own mind with many expedient means and is now too tired because of those means. The practitioner already intuitively recognized the foolishness in the indifference using those expedient means to harm his heart and mind. Right now, the practitioner has awakened to cross the river without staying attach to any bridge, despite how new, modern and beautiful that bridge really is. Now, the practitioner has nothing else to do and to say even just a word. The lively Absolute Nature encompasses all existents with a magnificent and realistic wisdom. The Truth (Reality) is manifesting and existing in each of us like the breath with space, like the sky holding plenty of marvelous stars and moon. The practitioner has self-experienced the Truth with his original and peaceful mind and not through the intermediary of any constant, flowing, and discriminate mind (misleading mind); hence, no longer misled by any delusions and worldly knowledge. 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
25 Tháng Mười Một 2014(Xem: 11134)
"BÂY GIỜ ĐẠI THIỀN SƯ đã nhập diệt, chúng ta chỉ còn lại những câu chuyện. Và, may mắn thay, cuốn sách này là hiện thân như ngài còn sống, cho những ai chưa từng có cơ hội gặp được ngài. Qua các trang sách này, nếu bạn lưu tâm suy gẫm và để cho chúng thấm sâu vào tâm hồn bạn, bạn sẽ thực sự thấy ngài trong lời khai thị mà mình không thể bắt chước được và có lẽ quan trọng hơn nhiều, đó là niềm mong mỏi của ngài, bạn sẽ gặp lại chính mình."
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14455)
Biểu đồ I.1: Thiền tông Ấn Độ Biểu đồ I.2: Thiền Ấn Độ Đến Trung Quốc Biểu đồ I.3: Thiền Trung Quốc – Huệ Năng và Môn Đệ Biểu đồ II.1: Dòng Mã Tổ Biểu đồ II.2: Dòng Mã Tổ Biểu đồ III.1: Tông Tào Động Biểu đồ IV.1: Tông Lâm Tế Biểu đồ IV.3: Dòng Lâm Tế – Viên Ngộ Biểu đồ V: Tông Vân Môn & Pháp Nhãn
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5965)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy. Cho nên, nhìn thấy "cái thấy không thể thấy" thì chân tính sẽ hiện ra. Bản tính của cái thấy là vô sinh, nên "cái thấy sinh nẩy" là không có. Cũng không có sự thực hữu của tính, mà cái thấy chân thực thì không thay đổi, cho nên mới nói: thấy tính một cách chân thực.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 13364)
Phương pháp của Thiền là cắt đứt con đường nói năng và dập tắt khung trời khái niệm trong đó ý thức cứ tiếp tục tư duy và đi tìm kiếm những ý niệm để cố gắng tìm hiểu thực tại (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt). Ngôn ngữ đạo đoạn là cắt đứt con đường ngôn ngữ. Tâm hành xứ diệt nghĩa là dập tắt vùng trời của sự suy tư bằng khái niệm, đừng để tâm ý đi tìm những ý niệm: có-không, sanh-diệt,…
30 Tháng Chín 2014(Xem: 15476)
Đạo Phật nước Việt Nam chúng ta ngày nay có hai pháp môn tu chính là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai pháp môn Thiền và Tịnh cùng xuất phát trong hệ kinh tạng Đại Thừa, nói có hai pháp môn nhưng cùng cứu cánh cùng đi đến thành quả là hết khổ đau sanh già bệnh chết cho chính mình và cho mọi người.
29 Tháng Chín 2014(Xem: 9111)
Từ khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua trung quốc truyền tâm ấn đạo lý giác ngộ theo truyền thuyết thì sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền cho vị đệ tử kế thừa là ngài Thần Quang Huệ Khả bộ kinh Lăng-già tâm ấn. Nhưng phải chờ đến hơn ba trăm năm sau và qua sáu vị Tổ thì đạo giác ngộ mới nở hoa kết trái. Tuy nhiên hạt giống của Tổ Bồ-đề-đạt-ma gieo trên đất Trung Hoa là kinh Lăng-già nhưng nở hoa kết trái lại là kinh Kim cang. Tại sao lại có sừ sai biệt như vậy, dù rằng cả hai bộ kinh đều do Như Lai Thế Tôn thuyết giảng.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 13414)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với ngài... ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
22 Tháng Chín 2014(Xem: 11887)
Quyển Lâm Tế Ngữ Lục song ngữ này được soạn thảo cho lớp Phật pháp tiếng Anh và cho giới trẻ người Việt học Phật. Đây là một phần việc trong chương trình giới thiệu những bản dịch hiện nay về văn bản Thiền cổ điển.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 8838)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 9450)
Tánh thấy là tánh giác biểu lộ nơi sự thấy. Tánh giác thì vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay thế nên tánh thấy cũng vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay. Thế thì tại sao lại có ra cái thấy phiền não, sanh tử khổ đau? Cái thấy của chúng ta đã bị nhiễm ô bởi tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… để thành ra các tướng sai biệt đến độ tranh chấp nhau không thể hoà giải. Đó là cái thấy sai lầm.