Thiền Và Bát Nhã

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 32225)

THIỀN VÀ BÁT NHÃ
Daisetz Teitaro Suzuki
Bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Nhà xuất bản Phương Đông

thienvabatnha-bia

MỤC LỤC
Tựa tái bản
DẪN VÀO TÂM KINH BÁT-NHÃ
I. CÁC TRUYỀN BẢN PHẠN VĂN
II. LƯỢC CHÚ VĂN NGHĨA
1. Hành thâm Bát-nhã:
2. Chiếu kiến ngũ uẩn giai không:
3. Độ nhất thiết khổ ách:
4. Thị chư pháp không tướng bất sinh bất diệt:
5. Dĩ vô sở đắc cố:
6. Viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn.
III. ẢNH HƯỞNG TÂM KINH VÀ MẬT GIÁO
THIỀN LUẬN NĂM
Ý NGHĨA CỦA TÂM KINH BÁT-NHÃ TRONG PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG

I. PHẠN VĂN TÂM KINH BÁT-NHÃ VÀ HÁN DỊCH
1. Bản Devanāgarī
2. Bản phiên âm Latin
3. Hán dịch của Huyền Trang
II. BÁT-NHÃ TÂM KINH VIỆT DỊCH
1. Việt dịch theo bản Anh của Suzuki
2. Việt dịch theo bản Hán của Huyền Trang
PHỤ LỤC 1
1. Bản phiên âm Phạn-Hán.
2. Hán dịch của Cưu-ma-la-thập.
3. Việt dịch theo bản Hán của Cưu-ma-la-thập.
III. PHÂN TÍCH TÂM KINH
IV. TÂM KINH VÀ BIỂU HIỆN TÂM LÝ CỦA KINH NGHIỆM THIỀN
PHỤ LỤC 2
TÂM KINH QUẢNG BẢN - PHẠN VĂN VÀ HÁN DỊCH
I. PHẠN VĂN
A. Bản Devanāgarī (Mahāyānasūtra-saṁgraha I 98)
B. Phiên âm Latin
II. CÁC BẢN HÁN DỊCH
1. Taishō No 252.
2. Taishō No 253.
3. Taishō No 254.
4. Taishō No 255.
5. Taishō No 257.
PHỤ LỤC 3
NGUỒN THAM CHIẾU
1. Đại Bát-nhã, Huyền Trang, quyển 403, phần II, phẩm 3 “Quán chiếu”
2. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh.
3. Đại trí độ quyển 36, phẩm 3 “Tập tương ưng”.
THIỀN LUẬN SÁU
TRIẾT HỌC VÀ TÔN GIÁO TRONG BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

I. ĐẠI CƯƠNG
II. TRIẾT HỌC TRONG BÁT-NHÃ
1. Bát-nhã: Nguyên lý chi đạo.
2. Bát-nhã: thí dụ đôi cánh chim và cái ghè.
3. Bát-nhã: mẹ của chư Phật và Bồ-tát
4. Bát-nhã = Chính giác = Nhất thiết trí
5. Bát-nhã: Như thật Tri kiến.
6. Bát-nhã và Tính Không.
7. Bát-nhã và Như Huyễn.
8. Bát-nhã và Trực quán.
9. Bát-nhã như là Bất khả đắc và Tương đối tính.
10. Bát-nhã và Phản lý.
11. Vô sở đắc và Vô thủ trước.
12. Thực tại như được nhìn từ bên kia.
13. Bát-nhã trong tay các Thiền sư.
II TÔN GIÁO CỦA BÁT-NHÃ
1. Môi trường hoạt dụng của Bát-nhã.
2. Upāya, Phương tiện Thiện xảo.
3. Bồ-tát và Thanh văn.
4. Quán Không bất chứng.
5. Một vài Đối nghịch quan trọng.
a. Bát-nhã trí hay Nhất thiết trí đối Đại bi hay Phương tiện.
b Tu Thiền định (dhyāna) không thọ quả Thiền.
c. Bồ-tát đối Thanh văn.
d. Thực đối huyễn.
e. Bát-nhã đối phân biệt
III TỔNG YẾU

Mạc-hạ-diên, mà phương Tây gọi là sa mạc Gobi, sách xưa gọi là Sa hà, một bãi cát mênh mông, dài trên 800 dặm, nối liền hai nền văn minh tối cổ của nhân loại; trên không chim bay, dưới không thú chạy; cỏ không, nước cũng không, Huyền Trang một mình một bóng, đã vượt qua khỏi đoạn đường đầy kinh sợ và thường xuyên làm nản lòng những người kiên cường nhất, duy chỉ bằng vào lời kinh “Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh

Trước đó, khi Pháp sư còn ngụ tại chùa Không huệ, Ích châu, có gặp một thầy tăng bịnh hoạn, ghẻ chóc; thân mình hôi hám, y phục rách rưới bẩn thỉu. Huyền Trang động lòng trắc ẩn, dẫn vào chùa, cho y phục và lương phạn. Thầy tăng bịnh ấy hình như hổ thẹn, bèn trả ơn bằng cách dạy Pháp sư học thuộc bài kinh Bát-nhã ngắn gọn này.[1]

Khi vượt sa mạc đầy kinh sợ, với những hình bóng ma quái chập chờn, với ác quỷ kỳ hình dị trạng chợt hiện trước mặt, hoặc đuổi theo sau lưng. Trong những lúc kinh hãi cùng cực, Pháp sư niệm danh hiệu Bồ-tát Quán thế âm. Nhưng vẫn không đuổi đi được bọn quỷ ma ám ảnh. Nhớ lại bài kinh ngắn mà thầy tăng ghẻ chóc đã dạy cho lúc trước, Pháp sư bèn cất tiếng tụng niệm. Lạ lùng thay, mọi hình tượng quái dị biến mất. Quả thật đúng như lời kinh, “… chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.” Có lẽ, như kinh nói, “… Bồ-tát y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng…”...





Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Chín 2014(Xem: 9470)
Tánh thấy là tánh giác biểu lộ nơi sự thấy. Tánh giác thì vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay thế nên tánh thấy cũng vốn sẵn, thanh tịnh xưa nay. Thế thì tại sao lại có ra cái thấy phiền não, sanh tử khổ đau? Cái thấy của chúng ta đã bị nhiễm ô bởi tham, sân, si, kiêu căng, đố kỵ… để thành ra các tướng sai biệt đến độ tranh chấp nhau không thể hoà giải. Đó là cái thấy sai lầm.
28 Tháng Tám 2014(Xem: 9113)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
22 Tháng Tám 2014(Xem: 7704)
Đốn ngộ tiệm tu là một vấn đề căn bản quan trọng trong Thiền tông, vì đó cũng là con đường Thiền tông. Thiền sư Phổ Chiếu (1158-1210) trong Tu Tâm Quyết nói:
01 Tháng Tám 2014(Xem: 6980)
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 10463)
Trong những lời dạy của Lục tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn, ngài đã đề cập và trích từ nhiều kinh luận như Duy Ma Cật, Kim Cương, Đại Bát Niết Bàn, Thành Duy Thức Luận, Đại Bát Nhã…. Trong kinh này, ngài nói đến nhiều chủ đề của Đại thừa như Ba Thân Phật, Vô tướng, Vô trụ, Vô niệm, Thiền định, quy y, phát tâm, sám hối…
27 Tháng Bảy 2014(Xem: 14239)
Thực tại Thiền không phải là cái gì mới lạ. Đó là Phật tánh trong kinh Đại Bát Niết Bàn, là Tri Kiến Phật hay Thật tướng của các pháp trong kinh Pháp Hoa, là Như Lai Tạng trong kinh Lăng Nghiêm, Thắng Man, là Pháp Giới Tánh trong kinh Hoa Nghiêm, là Tánh Giác trong kinh Viên Giác, là Tánh Không trong kinh Đại Bát Nhã, là Thánh Trí Tự Giác trong kinh Lăng Già…
24 Tháng Bảy 2014(Xem: 15329)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dōgen Kigen) Nhật Bản thế kỷ mười ba là một nhà cải cách tôn giáo, một Phật tử thành tựu, một tư tưởng gia sâu sắc và một người viết văn sáng chói. Tác phẩm chính yếu của ngài, Shōbō-genzō, viết bằng một thể văn phức tạp, cách tân, được yêu thích trong thời gian gần đây không chỉ vì những thành tựu triết lý của nó mà còn do sự tuyệt hảo văn chương của nó, thuộc về những bản văn Thiền được quý chuộng nhất.
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 12157)
Chúng sanh mê lầm quên tâm chạy theo vật, hướng ra ngoài gọi là theo duyên, do đó bị cảnh duyên chuyển quên mất gốc, nhận lầm các pháp là thật có, nên gọi là cái thấy điên đảo. Điên đảo là cái thấy lộn ngược, cái giả cho là thật, cái thật thì không nhận thấy.
17 Tháng Bảy 2014(Xem: 6100)
Trong sự đi hoang nào đó của tư tưởng, cảm xúc, ngôn ngữ, thì bản chất của ngôn ngữ, âm thanh đều là vô thường, giới hạn, và không thật, vì nó không có thực tính độc lập, phải nương với nhau mà thành, nhờ vào căn, trần, thức mở lối nên mới hiện hữu.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 11432)
Đây là nhắc nhở cho tất cả về ý nghĩa "Đưa Tâm Về Nhà". Bây giờ mình phải ngược dòng lưu chuyển để đưa tâm về nhà. Như đã nói, hiện tại mình đang ở đây nhưng tâm mình thì đang lang thang ở quê người, đó gọi là xa quê, xa nhà, là mất gốc.