Giới Thiệu

19 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 13683)

Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức 
THẾ THÂN BỒ TÁT

CU XÁ LUẬN TỤNG LƯỢC THÍCH I

Nguyên tác Nhật ngữ: Trai Đằng Duy Tín - Bản dịch Hán Văn: Huệ Viên Cư Sĩ 
Bản dịch Việt Văn: Học Tăng Lớp Chuyên Khoa Phật Học Viện Trung Phần 
Biên tập: Thích Phước Viên - Ban Tu Thư Phật Học 2546 - Nhâm Ngọ

Giới thiệu (1)
(Ấn bản 2546)

Bản dịch này được thực hiện do học tăng Viện Cao đẳng Phật học Hải Đức Nha trang, cách đây đúng 30 năm. Bấy giờ chỉ mới dịch xong phần đầu. Cuối niên học đó, là thời gian được dự định để dịch tiếp phần còn lại. Nhưng vì chiến sự miền Trung đến hồi kịch liệt, học tăng phải tạm nghỉ học để làm các công tác cứu trợ cho các khu đồng bào tản cư vì chiến tranh. Một thời gian ngắn sau đó, Phật học viện cũng đóng cửa. Ban đầu, ngỡ là tạm thời, nhưng không ngờ lại là vĩnh viễn. 

Cho đến nay, khi nhìn lại, mới thấy chương trình Phật học viện hồi đó thật sự quá cao. Đọc bản dịch này, các vị sẽ thấy, tuy chỉ mới năm thứ nhất Cao đẳng dang dở, mà học tăng đã có thể thực hiện được công trình nghiên cứu chuyên sâu như thế. Nhưng điều đáng nói hơn cả, và có lẽ cũng là hoài niệm khó quên của học tăng thời đó: cùng một thầy học, sống hòa hiệp như nước với sữa, mới thấy sự an lạc trong Phật pháp.

Do một nhân duyên, Thầy Đỗng Minh gởi cho tôi bản dịch này, như để gợi nhớ một thời. Tôi trân trọng bản thảo, như trân trọng những tình cảm đồng học đồng tu cao quý trong đó. Rồi tôi chuyển bản thảo đến thầy Phước Viên, vốn từng đóng góp cho bản dịch còn dang dở. Tôi đề nghị thầy biên tập và chỉnh lý lại, sau đó dịch tiếp phần sau cho trọn. 

Tôi không có gì để nói nhiều về tác phẩm cũng như bản dịch. Chỉ có một ước nguyện là sách này đến được với các Thầy các Cô, những cựu học tăng của Phật học viện Hải Đức, dù các huynh đệ đang ở phương trời, trong đời sống nào; để có thể nhớ lại, và thấy lại rằng, tâm nguyện một thời niên thiếu của mình vẫn không hề phai nhạt.

Phật lịch 2547. 
Mùa an cư Quý mùi, 2003
Thích Nguyên Chứng
Cẩn chí


Giới thiệu (2)
(Bản chỉ ấn, Phật học viện Trung phần Nha Trang 1974)

Luận Cu-xá là một tác phẩm cô đọng các yếu nghĩa của Phật pháp. Trong đó, hầu hết các chủ trương dị biệt căn bản của các Bộ phái Tiểu thừa đều được thảo luận cẩn thận với những phê bình khúc chiết. Mặc dù đây chỉ là quan điểm của một Bộ phái, hay nói cho chí lý, là quan điểm riêng của ngài Thế Thân, nhưng nếu muốn thông hiểu giáo pháp của Phật trong các bộ A-hàm mà không nghiên cứu Cu-xá thì khó mà mong thấu triệt. Lại nữa, muốn hiểu sâu xa giáo pháp Đại thừa nơi các luận sư Trung quán hay Duy thức cũng không thể không lấy luận này làm cửa ngõ đi vào. Vì tính cách quan trọng như vậy, và cũng để sự học khả dĩ nắm được phần cương lãnh, Thượng Tọa đã dạy tôi khuyến khích học chúng vừa học các bài tụng giảng trong lớp, vừa tự động tập dịch, như vậy mới có cơ hội đào sâu các chi tiết vấn đề. Thượng Tọa trao cho tôi bản Lược Thích của Trai Đằng Duy Tín qua bản dịch chữ Hán từ nguyên tác Nhật ngữ, bởi vì bản Lược Thích này không quá chi tiết phức tạp, cũng không quá giản lược. Dù vậy, không phải là không có những khó khăn đối với học tăng trình độ Trung đẳng. Vì nghĩa lý Cu-xá quá khúc mắc, văn dù giản dị đến đâu cũng khó làm cho vấn đề trở nên dễ dãi.

Tuân ý Thượng Tọa, tôi chia học chúng thành năm nhóm; mỗi nhóm tự thảo luận về văn nghĩa. Cách hành văn cũng như cách dùng chữ của mỗi nhóm đương nhiên không thể thống nhất. Để có thể ghi nhận những dị biệt này, trong bản Mục lục tôi có đánh số đoạn dịch của mỗi nhóm bằng số Ả rập. Điều này xét ra thì không quá cần thiết. Nhưng vì đây là sự thực tập đầu tiên về phiên dịch, mà cũng là ghi dấu những ngày học cuối cùng của họ. Cùng học và cùng tu trong tinh thần “đồng nhất sư học, như thủy nhủ hiệp”, không những là triển vọng của học chúng trong tương lai, mà ở đó còn là khích lệ lớn lao đối với những vị có trách nhiệm hướng dẫn.

Thời gian dịch giới hạn trong một tháng. Để có thể kịp hoàn tất trước ngày tự tứ, dịch xong đến đâu được cho đánh máy và chỉ ấn. Vì vậy, Thượng Tọa không có dịp đọc và sửa chữa văn nghĩa. Chắc là có nhiều chỗ sai chạy. Nhưng so với trình độ của một lớp Trung đẳng, dù là năm thứ bảy, việc làm này cũng vượt ngoài khả năng phần nào. Vả lại, đây cũng chỉ mới dịch xong phẩm thứ nhất. Bước đầu lúc nào cũng khó, nhưng khi đã đi được một đoạn, những bước kế tiếp có lẽ sẽ có nhiều hứa hẹn hơn. Do đó, Thượng Tọa dạy tôi viết lời giới thiệu này để tán trợ và khích lệ tinh thần hiếu học của họ, và cũng mong các bậc Sư trưởng tùy hỉ tán trợ tinh thần ấy.

Mùa An Cư 2518. Tháng 7 Giáp Dần
Hải Đức, 28-8-1974 
Tỳ kheo Thích Nguyên Chứng
Giám Học

(Nguồn: phatviet.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
18 Tháng Ba 2016(Xem: 13328)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh. Đại thừa triển khai chân lý Phật dạy với quan niệm Thế giới quan và Phật đà quan hoàn toàn không bị đóng khung trong quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Niềm tin trọn vẹn về một bậc thầy giác ngộ viên mãn, đầy đủ oai lực từ bi và trí tuệ. Năng lực của Phật có từ trường rất mạnh đối với tâm thức người quán niệm. Người tu Tịnh Độ, cũng có niềm tin rằng bên ngoài có Phật A Di Đà, bên trong tâm mình có tánh Phật A Di Đà. Khi chưa giác ngộ thì còn bị phiền não che lấp tánh Di Đà, nay niệm Phật là phương tiện tuyệt vời để khôi phục tâm tánh ấy.
04 Tháng Mười Một 2015(Xem: 16996)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ. Từ này khá xa lạ đối với nhiều tín đồ theo truyền thống Phật giáo Nam Truyền Theravāda. Theo quan niệm thông thường của truyền thống Theravāda thì ngoài những Đức Phật quá khứ đã nhập diệt và những Đức Phật tương lai chưa ra đời, thì trong thời điểm hiện tại không tồn tại một Đức Phật nào khác.
30 Tháng Mười 2015(Xem: 14816)
"A-di-đà kinh khắc trên đá ở Tương dương là do Trần Nhân Lăng đời Tùy viết, nét chữ thanh đẹp nên nhiều người hâm mộ. Đoạn từ câu 'nhất tâm bất loạn' trở xuống có thêm: Chuyên trì danh hiệu, dĩ xưng danh, cố chư tội tiêu diệt, tức thị đa thiện căn phước đức nhân duyên. Truyền bản ngày nay đã thoát mất hai mốt chữ này"
19 Tháng Mười 2015(Xem: 19310)
Trong thời gian qua, trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen đã xảy ra nhiều tranh luận khá gay gắt về vấn đề đức Phật A-di-đà, nay thầy Phước Nguyên gửi cho ban biên tập cuốn tiểu luận nghiên cứu từ Tạng Kinh Sanskrit và Tây Tạng để phổ biến đến quý độc giả quan tâm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 10842)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cõi Tịnh độ hay Cực lạc (Phạn ngữ Sukhavatì) được mô tả là cảnh giới tuyệt vời với tất cả những sự thù thắng, trang nghiêm.
11 Tháng Mười 2015(Xem: 29377)
Hiện tại pháp môn niệm Phật đang rất phổ biến tại Việt Nam cũng như Trung Quốc và Đài Loan. Thượng tọa cũng đã giải thích, để được về Tây phương thì phải loại trừ tham, sân, si, còn đối với một người xuất gia muốn đạt được đến sự giải thoát chắc chắn phải tu tập giới-định-tuệ. Kinh A-di-đà có nói đến cảnh giới Tây phương cực lạc. Con muốn hỏi: Đức Phật A-di-đà có hay không, và khi niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà thì có được sanh về thế giới Tây phương hay không?
23 Tháng Chín 2015(Xem: 11964)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
13 Tháng Bảy 2015(Xem: 9395)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác.
27 Tháng Sáu 2015(Xem: 8658)
Bốn mươi sáu đại nguyện của Đức Phật A-di-đà là một bản đồ tu tập lý tưởng cho những ai đã phát Bồ-đề Tâm song song với bản nguyện muốn kiến lập tịnh độ ngay trong thế giới Ta-bà; đó cũng chính là tông dụng của Kinh Duy Ma Cật: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sinh”.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 10923)
Khi thảo luận về nhu cầu tinh thần của người sắp chết dưới cái nhìn Phật giáo, trước hết chúng ta cần phải xem xét một số điểm quan trọng, thí dụ như: