MỘNG THOÁT LUÂN HỒI
Hồ Dụy
Ta bà vốn cõi mộng, do thức biến. Người đang tu chưa thể hiểu thấu, chỉ biết tin theo lời Phật để mong một lần tỉnh mộng. Cơ duyên biết mình đang mơ, tự hỏi tại sao không mơ giấc mơ vĩ đại: Siêu thoát luần hồi.
1. HÒA GIẢI VỌNG TƯỞNG ĐẢO ĐIÊN
Lời một vị Chân Tu tại gia: Nếu thâu Phật pháp vào một chữ thì đó là Tâm. (Tâm vốn hàm dung vũ trụ, Tâm sanh vạn Pháp). Nếu thâu Phật pháp vào hai chữ, đó là Buông Xả. Gom vào ba chữ là Giới Định Huệ. Cho đến nghìn vạn kinh luận Phật thuyết trong đời có thể gồm thâu trong bốn chữ A Di Đà Phật. Điều này xin phép bàn sau, giờ quay lại với Buông Xả. Những vị sư chứng quả thánh, có thiên nhãn, đã nhìn thấy một số đứa trẻ nằm trong nôi khóc ngặt, tay không ngừng khua khoắng, chính vì nó thấy ma quỷ trước mắt. Tại sao một đứa trẻ thấy được còn người lớn thì không?
Bởi tâm nó còn trong veo; lớn thêm chút bắt đầu nhiễm các tập khí thế gian, tấm gương sáng nhuốm bụi; người thực dụng đam mê vật chất, càng mê mờ tin “không có quả báo thiện ác đời này, đời sau; không có A la hán”, “không ưa bố thí, không giữ giới luật” gương ấy càng dày bụi đến không thể soi thấy vật gì, dẫu được phong giáo sư, thiên tài, đều buộc phải liệt vào hàng vô minh, Phật gọi là hạng người “trước khổ, sau khổ”. Vô Minh, một từ không có gì xấu, đơn giản là chưa đủ cơ duyên tin nhận chân lý siêu hình. Không tin nổi chính bản thân vật chất của họ cũng là hư giả.
Thân người vốn huyễn tướng, chỉ Tâm mới thật, mới chính Ta. Không níu vào cái chân lại theo cái giả, lúc thân hoại sẽ trắng tay. Ta ở trong ngôi nhà, lại tưởng ngôi nhà là ta, ngày ngày tô điểm trang trí rực rỡ trước thiên hạ, còn ta ở trong đó thì héo tàn. Đến ngày ngôi nhà hư hoại theo quy luật vô thường, ta đau đớn khổ sở, chụp bắt hư không. Thử tưởng đến một thời điểm ta nhận nhiệm vụ canh gác tối quan trọng, lại buồn ngủ, ta cố trương mắt đứng dậy đi lại nhảy nhót, nhưng vừa trở lại thế đứng gác lại ríu mắt. Chống mi lên tự nhủ ngủ quên sẽ mất mạng. Tiếp tục cố, vẫn rụi xuống. Rồi ta buông xuôi, thiu thiu. Giật tỉnh. Than ôi, thấy mình đã khoác một thân mới của loài động vật bậc thấp.
Đây là thí dụ nhẹ nhàng. Câu hỏi: Con người từ đâu đến và chết về đâu? Một bậc sư tôn kính trả lời: Con người từ lục đạo (trời, người, A tu la (tam thiện đạo) súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục (tam ác đạo)) theo nghiệp mà tới, chết phần nhiều về lục đạo; thực chất mà nói, chết trở về ác đạo, rồi một số sinh linh chịu hết nghiệp báo từ Tam đồ có cơ may đầu thai làm người. Bởi ta bị rối giữa vọng tâm, không nhận ra chân tâm thanh cao minh tuệ đầy đủ phước báu và trí tuệ. Tự tánh như tờ giấy trắng. Ta sống mỗi ngày là chấm mực vẽ vời lung tung lên đó. Ai xả nhẹ thân kiến, vẫn vẫy vùng trong vô vàn những chấm đen và vạch xóa đủ thứ trần ai. Một khi trí sáng, hành giả từ vọng vẫn có thể nhìn thấy phần giấy trắng tinh phía dưới, dần dần tách bóc (không xóa) những thứ trên tờ giấy đó. Tức không diệt mà lìa vọng. Chuyển vọng quy chân.
Bậc đại đức muôn lần căn dặn: ‘Không thiểu dục tri túc thì ma nạn trùng trùng’. Nguyện tu về nước Phật, công phu đắc lực hơn thì chuyển qua đoạn dục khử ưu. Không đoạn dục, nhất là ái dục thì luôn như trong nhà lửa, lánh chốn nào tâm cũng xao động như khỉ chuyền cành. Đoạn ái dục, người kia dẫu thờ Phật nơi đâu thì đó là Đại hùng bảo điện. Cuộc đời vốn dĩ giấc mơ buồn thảm. Chúng ta, nhiều lúc ẩn mình dưới thú. Chúng ta nhiều lúc đeo mặt nạ người bao biện cho thú tính bản năng. Tham, sân hận, kể cả vỗ ngực làm bộ anh hùng cũng dễ lấp ló mặt thú dưới cái gọi hình nhân.
Giới tà dâm còn kể đến việc không được tự thỏa mãn, rõ việc đoạn ái phải từ gốc rễ, tức không hề còn cái vọng niệm ấy nữa, mắt và tai tuyệt giao với sắc thanh, kể cả giữa phu thê. Một khi ý dâm vừa xoẹt liền ngay cảnh tỉnh, tưởng đến sự phanh đó khiến ta cũng đang đứng trước vực thẳm, chới với suýt lao xuống toi mạng. Giả như lỡ tưởng thảm cảnh quan hệ, hãy quán thân nữ kia là cái xác bệu bạo tanh tưởi da dẻ xám ngoét, quán sự hôi thối từ miệng từ chỗ dơ dáy như hầm phân; không ngớt nghĩ dục là than là lửa, lửa thiêu rụi công đức nhọc nhằn có được, dừng lại vẫn còn kịp dừng lại vẫn còn kịp.
Rồi tắt mọi vọng niệm khiến trở về lần theo từng chữ từng câu Phật hiệu; hằng ngày cầu mong chư Phật và Bồ tát gia trì dứt tận lòng dâm. Chưa đoạn nổi ít ra cũng “thiểu dục”, xem như ăn khoai sắn qua bữa; hành thì phải là ban đêm trong bóng tối với tâm hổ thẹn tận cùng, hổ thẹn đến muôn loài súc sanh ngạ quỷ. Rồi luôn phát nguyện không bao giờ tưởng đến một cảnh dục trong quá khứ. Hễ cảnh vừa dựng liền xóa, liền niệm riết lấy “A Di Đà Phật”. Những cảnh quá khứ không tưởng lại, cảnh mới trong tương lai không tưởng đến, tâm hiện tại sao chẳng an? Đang tĩnh tọa bỗng khởi niệm, liền biết, như một bông hoa dần bung nở rồi héo tàn rũ xuống. Tưởng đến dục, tưởng những thứ liên quan đến ngã, là niệm tà vạy số một trong các tà vạy. Nhất khoát phía trước là hố thẳm. Là trầm luân bể khổ không bến quay về.
Gốc rễ của ưu phiền là vọng, là tưởng. Nhưng liệu ta có nên chống lại tưởng. Hành giả Tịnh độ, giai đoạn đầu đương nhiên phải gắn bằng được câu Phật hiệu vào tâm. Ta có thể chống lại vọng tưởng, tuyên chiến với vọng tưởng; như ngăn nước đổ bằng được một khối bê tông xuống đáy sông. Lúc câu Phật hiệu tự khởi, ở đó rồi, thì bốn bề đều là hàng xóm đều ân nhân, ta phải hài hòa hết thảy. Chưa nói việc mất lòng ra mặt, hễ trong lời nói bỗng cảm nghiệm thấy vướng mắc, phải tưởng ngay đến họ trước mặt, tưởng ngay đến mình đang cúi lễ thành tâm mong họ thứ lỗi. Vọng tưởng cũng đồng nghĩa với oan gia luôn vây quanh chúng ta giờ giờ khắc khắc, chống lại họ là tự rào đường về cõi Tịnh. Theo lý bát nhã (hàng sơ cơ như tôi không dám sờ tới), thì thiện và ác, vọng và chân là hai mặt của bàn tay; trừ ác, diệt vọng, là chặt đứt bàn tay.
Lấy ví dụ vọng tưởng là muỗi, ta ngồi xuống chúng tới vu vu. Bạn đuổi, nó bay một vòng lại vu vu. Phải làm gì. Giết nó? Tự xem mình Phật tử chân chính, bạn đừng nói vậy bởi sẽ chẳng ai tin đâu. Ngay đến ý nghĩ bực cũng chớ khởi. Bạn có thể cúng dường nó một phần tư giọt máu, chẳng sao; lắng tâm sẽ cảm nhận được những chân muỗi đậu lên da mình, rồi cái vòi chích vào hơi nhói, sau đó ngưa ngứa đến lúc muỗi no tròn thì nó tự bay. Tạm biệt. Vọng tưởng chính là vậy. Bạn phải nghĩ mình nợ nó nên giờ vui vẻ trả thôi. Oan gia nên giải không nên kết. Nỗ lực sám hối, nỗ lực thấy mình tội lỗi tràn hư không vẫn may sao có được thân người, may sao gặp chánh pháp, ta phải tận lòng lễ Phật niệm Phật hồi hướng mong có ngày hòa giải với mọi vọng niệm thế gian để chân tâm dần hiển lộ mở lối về Cực Lạc. Ở đó mới là nhà mới là quê hương.
Ta muốn trở về bản quán lẽ dĩ nhiên không vọng niệm nào cản nổi. Vọng khởi lên mở bài câu chuyện, chưa kịp thân bài và kết luận ta liền biết. Vừa biết liền mỉm cười [trong tâm] và tự nói, “này tâm ta biết mi rồi nghe”, kiểu như bọn trẻ chơi trốn tìm ngày xưa vậy; ta biết mi ở bụi nọ bụi kia. Ái chà, mới ngồi đây đã phóng [tâm] đến chợ rồi à. Chà rỗi nhỉ, tham gia cả vào chuyện thế sự nữa. Rồi là: Nghĩ à tưởng à. Ai bắt? Ai bắt mi phải tưởng chứ? Nghĩ để làm gì (nói theo giọng điệu một đoạn quảng cáo trên ti vi: [gấp đôi can xi] nghĩ tưởng để làm gì. Ta phải tưới mát tâm bằng chút hài hước như vậy. Lâu lâu nó hơi quậy, cũng cần nghiêm nghị tí xíu: Này, đủ rồi nghe, đừng để mất lòng nhau đó nghe. Cứ thế, một khi vọng niệm được gạn đục, câu Phật hiệu vốn vẫn niệm nay trỗi lên.
Bây giờ hãy nghĩ, thân ta như ngôi nhà, trong nhà có cái máy niệm Phật suốt ngày đêm; do quanh xóm có trẻ con nô đùa, có nhà này hát ka-ra nhà kia nhậu nhẹt, nhưng hễ mọi âm thanh ngưng thì tiếng niệm Phật từ máy trong nhà vỗng lên trong vắt. Như vậy giai đoạn thứ nhất là khiến tâm luôn niệm Phật, tập thành thói quen thành một phản xạ vô điều kiện. Hoặc nếu bạn chuyên mặc niệm [trong tâm], cứ niệm một chuỗi ấn định bao câu Phật hiệu đó, rồi ngưng lại quan sát xem có vọng nào khởi lên không. Như ai đó trong rừng thẳm, bước một đoạn liền đứng xem có người có vật thoáng qua không. Không có à, lại niệm một chuỗi nữa. Cốt yếu là niệm từng chữ, tánh của tai nghe rõ từng chữ; như là bạn chỉ niệm cho duy nhất cái tai nghe vậy. Có thời điểm quan trọng là trước lúc ngủ, tập niệm Phật đến ngủ quên, giấc ngủ chỉ mang duy nhất Phật hiệu. Ngay đến chợt tỉnh thì tâm tự khởi đầu tiên phải là A Di Đà Phật.
Chưa dám mơ đến loại công phu sự nhất tâm, lý nhất tâm; công phu thành phiến (lấy đó làm bệ mà tiến) là ta có thể tin chắc mình có vé lên Cực Lạc thế giới. Phải sập mọi giác quan không dễ dàng để duyên trần lôi đi, nói không với ti vi không xem đến một phút, tránh tham gia lễ hội tránh la cà và tránh xa các trang mạng dẫu chỉ vờn qua khoảnh khắc nhục dục. Giờ giờ khắc khắc nên luôn trong tư thế quán sát tâm. Đi đứng nằm ngồi cho đến làm việc gì tâm cũng không ngơi nghỉ việc hòa giải vọng niệm, nhẹ nhàng gạn vọng niệm như cần gạt mưa trước kiếng. Hở việc áo cơm liền quay lại với Phật hiệu, rỗi thêm thì nghe kinh, nghe giảng kinh giảng giải chú sớ, đọc luận và học theo cách sống của tổ sư đại đức.
Bạn có thể nghe Pháp thâu đêm suốt sáng và đừng bao giờ nghĩ đế sự ngủ. Một khi tâm hút vào sự nghe vi diệu ấy, sức khỏe không hề bị tiêu hao. Sự thật vẫn có trường hợp niệm Phật còn tạp, nhưng do xả vạn duyên ta bà tha thiết về Quê Hương trong nỗi nhớ quay quắt, cũng dễ toại nguyện. Cho nên xét đến cùng, mọi pháp môn đưa đến mọi thứ bậc công phu chưa hẳn là vấn đề, vấn đề ở sự buông xả. Buông thân, buông vọng tưởng chấp trước không còn đối lập không còn vướng víu gì nữa rồi, câu Phật hiệu mới chính thức vang đến cõi Tịnh nơi Tâm của mình. Ai hành trì dăm mười năm tâm vẫn bị cuốn theo lục trần như trâu bị xỏ mũi, muốn về Cực Lạc là đang chơi trò oẳn tù tì trước mặt chư Phật.
2. PHÁP LIỄU NGHĨA VÀ BƯỚC NHẢY VÔ HỒN
Niệm Phật là pháp Đại thừa, cũng cao thâm như lý bát nhã; nó có tính phá chấp nên ngoại trừ những người thượng căn xả bỏ thân kiến và ngã kiến thiết nguyện cầu vãng sanh, trong một thời gian ngắn dễ gặp được bè giác ngộ, nhận lời hứa tiếp dẫn về cõi Tịnh từ Phật A Di Đà. Những căn cơ còn lại, thiết nghĩ cần phải tu vững căn bản, lấy Tiểu thừa làm nền.
Lẽ ra Phật giáo không có sự phân chia Tiểu thừa và Đại thừa, nhưng điều này đã trở về lịch sử, cũng không nên bận tâm. Ai tu đại thừa mà không tu tiểu thừa không phải đệ tử ta. Câu kinh này tối quan trọng. Theo bậc minh sư, có thể xem Tiểu thừa là móng, Đại thừa là nhà. Nhà không móng là nhà giữa hư không. Ở cõi ta bà mà nói, ấy là ngôi nhà ảo tưởng! Dĩ nhiên người tu Đại thừa có thể vừa tu vừa bồi đắp căn nền Tiểu thừa, cách này thật sự khôn ngoan. Nếu không học kỹ Tứ niệm xứ, quán thân vô thường, tâm vô ngã để lung lay gốc rễ của Ái, Thủ vốn bám chặt cõi trược nghìn vạn rễ độc, sẽ không phá nổi Sắc, Thọ, Tưởng, sự niệm Phật chờ Phật rước lúc lâm chung, thực tế cũng khá hoang đường.
Không thấy sự vô thường của thân xác đâu dễ bước về ánh sáng vô lượng. Hình dung về cái máy niệm Phật được giấu trong đống rơm, mọi người ngang qua đều trầm trồ “đống rơm đang niệm Phật kìa”; thế rồi đống rơm tưởng mình là máy niệm Phật. Nó xuôi theo lời khen tiếng chê, rồi mê thất bổn tánh đến không còn biết cái máy vẫn vốn dĩ không ngừng niệm A Di Đà Phật; bởi vọng tưởng duyên theo trần cảnh đành chờ một nhân duyên đặc biệt, xoay cái nhìn xoay cái nghe vào trong, cứ thế yên lặng và yên lặng cho đến từng mảng an lạc bừng vỡ. Con đường tu đạt đến sự trong lặng đòi hỏi hành giả phải buông trọn ráo. Một con đường dài vô tận song cũng không quá xa vời. Khoa học cũng khuyên, mỗi người đều có năng lực lũy thừa khả năng. Từ 7 + 7 = 14, bạn có thể thực hiện phép 7 x 7 = 49 sự thành tựu. Tại sao người tu không tự lũy thừa khả năng chứng ngộ của mình.
Xưa nay chúng ta hiếm thấy người đốn ngộ trong một đời, nhưng người cầu vãng sanh về Cực Lạc thành Phật khó tính đếm hết - là một cách hiểu khác của đắc đạo. Vấn đề ta có muốn buông? Ta nắm cái điện thoại giá trị, chấp vào nó, ngày ngày sợ cả trầy xước nói gì buông. Cái ngoài thân buông chưa nổi thì thân này sao đành. Ta không muốn, Phật cũng bó tay. Do thói quen, do ấn tượng sâu sắc về những gì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý lưu giữ cẩn mật trong vọng thức; ta đưa nó ra ngắm nghía từng ngày, đưa so sánh với những thứ mới tiếp xúc rồi phân tích đánh giá, luận bàn, phán xử.
Hơn 90% năng lượng tiêu hao vào đó. Cho đến lúc thân rã rời ngả lưng thư giãn, tâm vẫn tiếp tục tưởng đến thị phi nhơn ngã, vẫn không chịu nương vào câu “A Di Đà Phật”, để tiếp tục tiêu hao 90% của 10% còn lại. Ta như “thầy đồ liếm mật” ngoạm bên này ngoạm bên kia, đem bóng tối chiếm dần sự minh tuệ. Tưởng đến câu chuyện đẹp, ta cũng không thể gạt khỏi dòng nghiệp thức những câu chuyện xấu xa, tội lỗi. Người thân yêu mất, ta luôn tưởng lại họ trong mọi cử chỉ hành động gắn chặt cùng mình, rồi tâm bệnh sinh thân bệnh chết dần mòn.
Nghĩ về họ chẳng những ta buồn đau mà họ buồn đau gấp bội. Sự nghĩ tưởng là tham hàng đầu của mọi tham. Ta không muốn buông sự tham đó. Nghĩ về một lần được vinh danh giữa đám bạn, nghĩ về một kỷ niệm đẹp, nghĩ về dục vọng, ôi, thật vĩ đại sướng sung. Ôi, thật điên đảo cái tâm này. Ôi! - ta phải quán cái chữ này thật sắc thật trong và thật diễu nhại; “ôi, vọng tưởng cũng trói được ta trong lục đạo ư?!”.
Không quán thân vô thường, ta niệm Phật đôi khi khiến mây ngũ dục, mây ngũ ấm càng kéo về dày đặc. Không thấy đời vô thường, ta vừa niệm Phật vừa tìm đường thoát khỏi Ngũ giới Thập thiện để rồi lạc vào cái gọi phá chấp vốn chỉ dành cho hàng căn tánh vô ngã. Vô ngã là gì? Là hạng người mà áo quần gọn gàng mặt mày sáng sủa vừa bước ra đường bất ngờ bị người ta tạt phân vào mặt, họ vẫn chỉ… cười thôi. Ta có ngã, có phân biệt và đầy mình chấp trước, niệm Phật dĩ nhiên sợ vãng sanh. Ta chưa thấu hai chữ vãng sanh nên cứ nghĩ nó là một cách diễn đạt khác của chết.
Phật gia trì thọ mạng mỗi mỗi chúng sanh không hết lại ngắt bớt tuổi thọ của ai bao giờ. Ta sợ đạt công phu thành phiến, là điều kiện cần Phật xuống rước. Ta sợ một ngày niệm Phật được nhất tâm tức là không còn nghĩ tưởng thế gian, sợ “chán” ta bà. Ta sợ đến một ngày không bè bạn không điện thoại, không tivi không internet ru rủ một mình. Ta cầu vãng sanh nhưng lúc nào cũng sợ “chứng”, sợ phải rời bỏ chốn dung thân có cây bồ đề tỏa bóng trước hiên nhà, bạn bè thân quyến và biết bao cuộc hẹn bao dự định dở dang nữa. Ta đang phát cái nguyện giả. Thực tâm không muốn thoát bể khổ. Ta không muốn ra khỏi chốn lấm bết bùn lầy. Bởi ta chưa nhìn thấu nó bùn lầy uế trược.
Bởi ta chấp xà phòng thơm nước hoa ngoại ngày ngày thoảng trên tấm thân đáng tội này. Ta nhăn mặt bịt mũi nhổ dãi vén áo quần là lượt khi vào đại tiện, lại không quán mình khác chi cái nhà xí di động chứa hầm phân và nghĩa địa chúng sanh. Ta vẫn muốn già muốn bệnh và muốn hấp hối đảo điên đã mới muốn cầu về nước Phật. Ta không muốn biết chính cõi này cũng là Cực Lạc. Chính ở cõi này nhiều vị tu chứng nhìn thấy chúng ta vàng ròng trong suốt, thấy vạn vật đều trang nghiêm thanh tịnh. Nhiều vị âm thầm sống trong niềm hỷ lạc vô biên khôn tận, âm thầm cứu rỗi linh hồn của vũ trụ. Chính do con mắt phàm của ta nhìn thế gian lắm nỗi. Chính do tâm vọng ta làm rối loạn tối tăm cảnh trần. Lúc gặp pháp niệm Phật lại tưởng mình cao sang không cầu hòa giải lại đối lập phân biệt với mọi người mọi sự mọi vật.
Chẳng xem nhẹ thân này, chẳng xem nhẹ dục lạc, chẳng thấm triết lý hết thảy chỉ là phương tiện như rau cháo qua ngày thì tu song dưới bề sâu tâm thức chẳng muốn ra ngoài tam giới; vẫn thấy cuộc đời này tươi đẹp, vẫn thấy mình còn quá thanh xuân. Vẫn công khóa đều đặn ngày vài thời, đi đứng nằm ngồi vẫn nhớ niệm Phật nhưng vẫn còn ẩn giấu cái ý nghĩ cũng phải nhìn thế gian ngả màu thời gian đã rồi tính đến vãng sanh chưa muộn. Bởi chấp thân. Thân này lại chấp tài sản gia quyến. Ngay đến xả vật “của ta” vốn ở ngoài thân đã quá khó nói chi đến xả thân quý báu nô lệ nó hết mực này.
Xả được tài, ít nhất bạn phải có ý nghĩ đang đi bỗng thấy từ trên ngôi nhà cao tầng tung xuống cả núi tiền, người người ùa tới đua tranh xô đẩy dẫm đạp nhau nhặt nhạnh, bạn sẽ đắm trong nỗi hân hoan như thấy trước mắt là người trẻ đang nô đùa tắm táp dưới một cơn mưa rào bất chợt. Phật từng bảo nếu thân này của ta sao không thể khiến nó trẻ đẹp mãi. Chấp thân là ta cũng như nhân viên ngân hàng chấp lượng tiền đếm mỗi ngày là của mình. Cái thân này, là nơi ẩn náu của tâm; nó chỉ là đống rơm còn ta là “máy niệm Phật” giấu trong đó. Còn hơn thế, thân chẳng những không là của ta như áo quần đang mặc, mà thân này cũng không phải của ta nốt. Nó thuộc về hư không. Ta mượn cái hư huyễn trú ngụ, niệm Phật cầu trở về Cực Lạc mà thôi.
Dựng lập những ý niệm này vững chãi thật chẳng dễ mấy ai: Con đã xong mọi chuyện thế gian. Vợ con đó, nhà cửa danh vọng đó song con đã sắp xếp ổn thỏa không lưu luyến; con muốn về cõi Tịnh bất cứ lúc nào Phật cảm ứng. Con muốn tu chứng ngay bây giờ ngay ngày mai; song hành ít nhất với công phu niệm Phật thành phiến. Niệm Phật, vấn đề ở chỗ tai có nghe rõ từng chữ hay không. Nghe chữ thứ nhất trọn vẹn, ta phải níu lấy những vang động của A đó rồi nối vào chữ Di, chữ Đà, chữ Phật tiếp theo; nhất là khi tan mình trong mật âm của chữ Phật đang ngân vang, thì ta lại tiếp tục trở lại với chữ A.
Đây là mức đầu tiên để ghép từng chuỗi lại với nhau, ba chuỗi, năm chuỗi; để một lúc nào đó câu Phật hiệu vươn lên thành khối quyện giữa không gian. Nhược bằng ta niệm Phật mà tai không chậm rãi nghe rõ, dẫu niệm nhanh niệm chậm, dẫu niệm bao nhiêu thời gian, vọng niệm sẽ cuốn “A Di Đà Phật” đi thật dễ dàng. Ở đây cần một điều tối quan trọng: Đã qua giai đoạn bất chấp vọng niệm để gắn bằng được “máy niệm Phật” vào tâm, qua tiếp giai đoạnhòa giải vọng niệm, rồi khá nhuần việc phẩy qua chuyện thế tục dẫu hấp dẫn hay oan nghiệt đến đâu lội qua tâm trí; bây giờ với vọng niệm cần hơn cả hòa giải, là Cảm Hóa. Phiền não tức Bồ đề, Tham Sân Si tức Giới Định Tuệ.
Chẳng như đoạn Si, không có nghĩa ta bứng gốc Si rồi trồng vào đó gốc Tuệ, mà ngay nơi si kia vừa mất chính là tuệ hiện tiền, không có trước không có sau. A Di Đà Phật dội vào, vọng niệm ẩy ra, cứ lấn qua lấn về không chừng đối kháng. Người ta đã “buông dao”, bạn còn ở đó trui rèn giáo mác mà thánh chiến với vọng tưởng! Vọng rốt cùng cũng là “sinh mệnh”; niệm Phật với tâm từ bi vô hạn tự khắc Vọng sẽ được cảm hóa, sẽ gộp vào A Di Đà Phật như lá lay bụi bặm cuốn theo cơn lốc xoáy. Người nước ngoài chưởi ta, ta không biết tiếng nước đó sẽ không khởi sân giận. Chính vì ta lầm chấp vào tướng nội dung của nó. Tánh của vạn pháp là Không; pháp vọng niệm tánh của nó cũng Không. Nên chính vọng niệm cũng là “A Di Đà Phật”. Các Tổ giảng niệm đến Sự/Lý nhất tâm thì hồng danh không còn tướng danh tự, niệm mà không niệm. Phật hiệu như con thuyền hoàn thành nhiệm vụ đưa vọng tâm trở về tự tánh mênh mang.
Ấy là điều khó. Nên trước hết trở về niệm Phật với tâm thiết tha được về cõi Tịnh, với lòng cảm ân sâu xa mười phương chư Phật - điều này đôi khi quan trọng chẳng thua việc trì niệm. Căn nền vẫn ở chữ Buông. Buông mới mong thể nhập nghĩa chân thật kinh điển, sẽ không còn thấy gì trong thế gian hấp dẫn nữa. Cái cảm giác được trở về làm rung động sâu xa tâm khảm. Một danh sách dài dặc những người từng gặp, từng biết dẫu thoáng qua danh vị, như cái máy dò tìm thấy không dừng lại ở dòng tên nào khởi lên vướng mắc. Ta bắt đầu chuỗi ngày thấy ai cũng đã “trở về” với mình như sự hội ngộ trong một ngày xuân tươi mới.
Thử vẽ ra một con sông, bên này cõi uế, bên kia cõi Tịnh. Có Buông nghĩa là ta một mình đứng ở bờ bên này sẵn sàng qua sông. Là lúc đã thấm thía Khổ Không Vô Thường hành qua Tứ niệm xứ. Bỗng thấy giữa sông có những chỗ tiền trạm, bắt đầu là cái chòi có oan gia trái chủ ẩn nấp, rồi đến túp lều có ma vương đang thưởng trà, tiếp đến là chỗ có các bậc tổ sư đại đức. Nếu theo Bát Nhã tức phải một cú nhảy vọt qua hết thảy đến thẳng trước mặt Phật bên kia bờ. Nghĩa là trước đó ta đã một mình lầm lụi quãng đường rất xa từ ngôi làng thân thương đến chỗ đang đứng, chứ không phải dắt theo vợ con cháu chắt bè bạn và rất nhiều đồ đoàn đến đó. Ý muốn ra ngoài cõi khổ, ý muốn gặp Phật A Di Đà bừng cháy trong ta.
Bấy giờ, hãy thực hiện cú nhảy. Còn không ta mới tiền trạm ở cái chòi đầu tiên đã bị các “chủ nợ” quẳng xuống nước (chướng duyên, lâm bệnh ngặt nghèo, tai nạn, hễ ngồi xuống thì vọng tưởng trào sôi, cuốn phăng chánh niệm, cuốn phăng câu Phật hiệu lúc nào chẳng hay; thì ta phải trở về tu lại Lục hòa kính, Thập thiện, ngũ giới, Tứ chánh cần, Tứ niệm xứ, tu kỹ Lục độ và hơn hết là tu Hiếu thân tôn sư, tu hạnh nguyện Sám hối nghiệp chướng.
Đến lúc ra đường gặp ai kể cả loài vật ta cũng chừng muốn bật khóc, cũng có cảm giác muốn cúi lạy. Rồi thỏng tay vào chợ. Với ta lúc này sở học thế gian bụi bám, bể học thánh hiền rêu phong, đến cả Phật pháp nửa chữ cắn đôi cũng Không nốt; ta mãi miết dạo “trên lối mòn thỏ chạy” cho tới khi người người đoan quyết, ồ cái tướng ấy trông khờ khờ làm sao, cái tướng ấy trông hao hao Bờm quá; giữa rừng dục phấp phới ta không còn lung lay bởi tám gió. Vậy là đã Buông rồi, tự tại hướng về bờ sông để thực hiện lại bước nhảy cuối cùng.
Hồ Dụy
(Người gửi bài: Minh Quang)