Nguyệt Xứng (c. 570 - 650)
NHẬP TRUNG ĐẠO:
CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BI VÀ TRÍ TUỆ
Li cấu địa (Bài 5)
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.
Nhập Trung Đạo -- các kệ tụng
II.1. Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tát có giới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
Các hành nghiệp thân ngữ ý của các bồ tát đều thanh tịnh; thế nên các bồ tát tích tập phúc đức của con đường mười phương diện hành nghiệp thiện hảo.
II.2. Đạo lộ của phúc đức trong mười phương diện hành nghiệp thiện hảo, giờ đây toàn hảo và cực kì thanh tịnh.
Như mặt trăng mùa thu, các giới hạnh thanh tịnh của các Bồ tát chiếu sáng nét đẹp từ bi tới vạn hữu.
II.3. Nếu các giới hạnh thanh tịnh được xem là thực hữu /có hiện hữu tự tính [do đó tự hào về giới hạnh bản thân] thì các giới hạnh này trở thành không thanh tịnh.
Các Bồ tát đều cách tuyệt các tâm niệm nhị nguyên đối đãi về ba phương diện (Kẻ giữ giới hạnh, hành động giữ giới hạnh, giới hạnh được giữ).
II.4. Giới hạnh /Kỉ luật đạo đức là đôi chân để đi tới cõi tái sinh cao (người, a tu la, trời); nếu làm gãy đôi chân của giới hạnh thì kết quả của bố thí chỉ được hưởng thụ trong cõi thấp kém (súc sinh, ngạ quỷ).
Khi tiêu thụ hết vốn và lãi do bố thí, chẳng có hưởng thụ gì sẽ sinh khởi trong tương lai.
II.5. Nếu, khi sinh sống trong thuận duyên và tự do hành động, chúng ta không nỗ lực để ở lại cảnh này;
Một khi chúng ta rơi xuống vực sâu, và chẳng có tự do, vậy làm cách nào chúng ta có thể trốn thoát và thăng tiến trở lại ?
II.6. Do thế đấng Tối Thắng mở đầu nói về bố thí, tiếp đến nói về giới hạnh / kỉ luật đạo đức.
Bởi vì các tính đức được gieo trồng từ các cánh đồng kỉ luật đạo đức sẽ sản sinh các kết quả liên tiếp của hạnh phúc.
II.7. Kỉ luật đạo đức giúp các kẻ thường tục đạt tái sinh các cõi cao.
Kỉ luật đạo đức cũng giúp các Thanh Văn, các Độc giác, các con của các đấng Tối thắng đạt toàn hảo xác định (giải thoát luân hồi sinh tử và đại giải thoát của Phật)
II.8. Biển cả vẫn đưa xác chết vào bờ, những tốt lành vẫn không đồng hành với tai biến.
Cũng như thế các thánh hiền giới hạnh toàn hảo không thể kết bạn với các kẻ hạnh kiểm thấp kém.
II.9. Các kỉ luật đạo đức khi được xem là thực hữu / hiện hữu tự tính trên 3 phương diện -- sự tự ngăn không làm, kẻ tự ngăn không làm, và cái được tự ngăn không làm -- là kỉ luật đạo đức toàn hảo thế tục.
Các kỉ luật đạo đức, nếu không được xem là thực hữu/hiện hữu tự tính trên 3 phương diện, chính là kỉ luật đạo đức toàn hảo siêu việt thế giới.
II.10. Trí địa Li Cấu này, cách tuyệt các nhơ nhuốm, sinh khởi từ mặt trăng của kỉ luật đức hạnh, con của các đấng Tối Thắng.
Các Bồ tát là sự huy hoàng của thế giới tuy không thuộc về thế giới, và như ánh sáng của mặt trăng mùa thu làm tan biến các sầu muộn tâm hồn của các kẻ lữ hành trong sinh tử.
*
Đây là chấm dứt trí địa / bậc thứ nhì của sự đào luyện tâm bồ đề tuyệt đối.
------------
Sơ đồ Bản Giải thích
II. Trí địa thứ nhì: Li cấu
A. Định nghĩa của trí địa thứ nhì (Tụng II.1)
B. Các tính đức của trí địa thứ nhì
1. Sự siêu việt về ảnh hưởng, phúc đức, v.v…và thanh tịnh của giới hạnh
a. Giải thích (Tụng II.2)
b. Tính thanh tịnh của giới hạnh (Tụng II.3)
2. Ca tụng giới hạnh thanh tịnh
a. Tán dương giới hạnh thanh tịnh
i. Ngay cả kẻ thường tục cần thực hành kỉ luật đạo đức
(1) Các khiếm khuyết sinh khởi từ sự thiếu kỉ luật đạo đức
(a) Nếu không có kỉ luật đạo đức thì không thể có tái sinh tốt đẹp (Tụng II.4)
(b) Nếu không có kỉ luật đạo đức, các hành động tích cực chỉ tạo ra một kết quả tốt lành
(c) Nếu không có kỉ luật đạo đức, khó trốn thoát các cõi thấp kém (Tụng II.5)
(d) Kỉ luật đạo đức là một phương cách cứu chữa tất cả các bất thiện hảo (Tụng II.6)
(2) Các lợi ích do có kỉ luật đạo đức
ii. Kỉ luật đạo đức là nền tảng của tất cả các tính đức (Tụng II.7)
b. Làm cách nào các Bồ tát an trú trong kỉ luật đạo đức (Tụng II.8)
3. Hai tiêu chuẩn khác nhau về giới hạnh toàn hảo (Tụng II.9)
C. Kết luận (Tụng II.10)
---------------------------------------------------------------------------------------
II. Trí địa thứ nhì: Li Cấu
Phần này gồm có 3 chủ đề: định nghĩa về trí địa thứ hai, các tính đức của nó, và một quy kết tóm tắt. Chủ đề thứ hai thì có 3 mục chính: sự siêu việt về ảnh hưởng , phúc đức,v.v… và tính thanh tịnh của giới hạnh, tán dương về giới hạnh thanh tịnh, và hai tiêu chuẩn khác nhau về giới hạnh toàn hảo.
A. Định nghĩa về trí địa thứ nhì
Tụng II.1.
II.1. Ở trí địa Li cấu, bởi vì các bồ tát có giới hạnh toàn hảo, nên tự nhiên buông bỏ các hành vi sai lạc dù trong chiêm bao.
Các hành nghiệp thân ngữ ý của các bồ tát đều thanh tịnh; thế nên các bồ tát tích tập phúc đức của con đường mười phương diện hành nghiệp thiện hảo.
Từ điểm nhìn về các khiếm khuyết bị đoạn trừ, các Bồ tát trên trí địa thứ nhì sở hữu giới hạnh / kỉ luật đạo đức toàn hảo. Họ đã đoạn trừ tất cả các hành vi sai lệch, đó là tất cả các vi phạm về các giới điều (transgressions of precepts) -- không những chỉ trong trạng thái thức, nhưng cũng trong cả các chiêm bao của họ. Từ điểm nhìn về thành tựu, họ sở hữu các tính đức thanh tịnh (pure qualities). Bởi vì, do các hành vi thân, ngữ, tâm không bị nhơ nhuốm bởi một chút mảy may lầm lỗi, họ thực hành con đường cao quý về mười phương diện phúc đức (sacred path of the ten virtues; thập thiện nghiệp đạo), đoạn trừ bảy lỗi lầm của thân và ngôn ngữ và ba lỗi lầm của tâm mà ba lỗi lầm của tâm là nền tảng cho mười lỗi lầm.
B. Các tính đức của trí địa thứ nhì
1. Sự siêu việt về ảnh hưởng, phúc đức, v.v…và tính thanh tịnh của giới hạnh
a. Giải thích
Tụng II.2.
II.2. Đạo lộ của phúc đức trong mười phương diện hành nghiệp thiện hảo, giờ đây toàn hảo và cực kì thanh tịnh.
Như mặt trăng mùa thu, các giới hạnh thanh tịnh của các Bồ tát chiếu sáng nét đẹp từ bi tới vạn hữu.
Mặc dù con đường mười phương diện phúc đức cũng được thực hành trên trí địa thứ nhất, các Bồ tát trí địa thứ nhì thì siêu việt về ảnh hưởng, phúc đức, v.v… trong sự thực hành nó, bởi vì nó cực kì thanh tịnh và toàn hảo. Cũng như mặt trăng mùa thu trong bầu trời không mây, các kỉ luật đức hạnh của họ thì ly cấu. Và cũng như ánh sáng mặt trăng làm dịu đi các hành hạ do sức nóng, kỉ luật đạo đức đem đến an vui xuyên qua kết nối các cánh cửa giác quan. Và đồng thời nó ban phát ánh sáng giống như ánh sáng trắng trong của mặt trăng. Đây là vẻ đẹp của kỉ luật đạo đức.
B. Tính thanh tịnh của giới hạnh
Tụng II.3
II.3. Nếu các giới hạnh thanh tịnh được xem là thực hữu /có hiện hữu tự tính [do đó tự hào về giới hạnh bản thân] thì các giới hạnh này trở thành không thanh tịnh.
Các Bồ tát đều cách tuyệt các tâm niệm nhị nguyên đối đãi về ba phương diện (Kẻ giữ giới hạnh, hành động giữ giới hạnh, giới hạnh được giữ).
Trên phương diện khác, nếu một tăng sĩ triệt để tuân thủ các giới điều về giới hạnh biệt giải thoát (pratimoksha discipline), nhưng đồng thời hài lòng nghĩ về nó là một hiện tượng thanh tịnh và hiện hữu thực hữu /tự tính, thì giới hạnh của vị đó đang không thanh tịnh. Vì lí do này, các Bồ tát luôn luôn cách tuyệt với các tiến trình tinh thần nhị nguyên đối đãi, thứ nhất, trong sự buông bỏ các giới hạnh sai lạc; thứ nhì, trong các phương thức đối trị được sử dụng trong công tác như vậy; và thứ ba, quan liên tới kẻ là chủ thể trong một sự buông bỏ như vậy.
2. Ca tụng giới hạnh thanh tịnh
a. Tán dương giới hạnh thanh tịnh
i. Ngay cả các kẻ thường tục cần thực hành các kỉ luật đạo đức
(1) Các khiếm khuyết sinh khởi từ sự thiếu kỉ luật đạo đức
(a) Nếu không có kỉ luật đạo đức thì không thể có tái sinh cõi cao (người, a tu la, trời)
Tụng II.4
II.4. Giới hạnh /Kỉ luật đạo đức là đôi chân để đi tới cõi tái sinh cao (người, a tu la, trời); nếu làm gãy đôi chân của giới hạnh thì kết quả của bố thí chỉ được hưởng thụ trong cõi thấp kém (súc sinh, ngạ quỷ).
Khi tiêu thụ hết vốn và lãi do bố thí, chẳng có hưởng thụ gì sẽ sinh khởi trong tương lai
Sự giàu có, sản phẩm của bố thí có thể hiển lộ ngay cả trong các cõi thấp kém (súc sinh, ngạ qủy). Điều này duyên hội xảy ra bởi vì “đôi chân” của kỉ luật đạo đức dẫn đến các cõi tái sinh cao đã bị gãy và quy chỉ cho, tỉ dụ, sự giàu có hưởng thụ bởi các loài rồng hoặc các ngạ quỷ sơ cấp có các năng lực huyền bí.
(b) Nếu không có kỉ luật đạo đức, các hành động tích cực chỉ cho ra một kết quả tốt lành
Các hữu tình trong các trạng thái thấp kém thì hoang phí và không biết sử dụng sự giàu có của họ để thực hành bố thí thêm nữa. Hệ quả là họ tiêu hết các tích sản mà họ đã tích lũy và từ cái mà họ có thể làm cho tăng trưởng thêm. Về sau, họ không có thêm các sở hữu mới vì họ từ quá khứ không thấy thúc bách phải tạo thêm giàu có. Thế nên khi sản phẩm của bố thí trong quá khứ họ đã tiêu thụ hết, họ mất hết vốn liếng do tiêu hết nó.
(c) Nếu không có kỉ luật đạo đức thì khó tránh thoát các cõi thấp kém
Tụng II.5.
II.5. Nếu, khi sinh sống trong thuận duyên và tự do hành động, chúng ta không nỗ lực để ở lại cảnh này;
Một khi chúng ta rơi xuống vực sâu, và chẳng có tự do, vậy làm cách nào chúng ta có thể trốn thoát và thăng tiến trở lại ?
Giống như các kẻ sống thong dong tự chủ trong một môi trường vui vẻ, các hữu tình sống tự do trong các hoàn cảnh hạnh phúc của cõi trời và cõi người. Nhưng nếu bạn không nắm giữ cơ hội này để tiếp tục sống trong trạng thái này, bạn sẽ giống như một kẻ anh hùng quyền lực chỉ một thời điểm, nay tay chân bị trói buộc và bị liệng xuống một vực sâu. Bạn sẽ rơi vào các cõi tái sinh thấp kém, tất cả các tự do mất luôn, chẳng có một hi vọng nào để ngoi lên.
(d) Kỉ luật đạo đức được xem là phương thức cứu chữa cho các tất cả các bất thiện hảo này
Tụng II.6.
II.6. Do thế đấng Tối Thắng mở đầu nói về bố thí, tiếp đến nói về giới hạnh / kỉ luật đạo đức.
Bởi vì các tính đức được gieo trồng từ các cánh đồng kỉ luật đạo đức sẽ sản sinh các kết quả liên tiếp của hạnh phúc.
Đây là lí do đức Phật nói bố thí trước nhất và kế tiếp nói về giới hạnh / kỉ luật đạo đức
(2) Các lợi ích do có kỉ luật đạo đức
Kỉ luật đạo đức là cần thiết bởi vì nếu các tính đức của bố thí được đào luyện trong cánh đồng của kỉ luật đạo đức, các kết quả lợi ích, có tên là, thân thể tốt đẹp và giàu có với các sở hữu, đi cùng với nguyên nhân của nó, có tên là, bố thí và v.v…, sẽ tiếp tục tăng gia.
ii. Kỉ luật đạo đức là nền tảng của tất cả các tính đức
Tụng II.7.
II.7. Kỉ luật đạo đức giúp các kẻ thường tục đạt tái sinh các cõi cao.
Kỉ luật đạo đức cũng giúp các Thanh Văn, các Độc giác, các con của các đấng Tối thắng đạt toàn hảo xác định (giải thoát luân hồi sinh tử và đại giải thoát của Phật)
Trạng thái của các kẻ thường tục, của các Thanh Văn sinh từ lời dạy của Phật, hoặc của các Độc giác được an lập vững chắc trên đạo lộ của họ, và các sự thành tựu của các Bồ tát -- có tên là, các địa vị cao (trong luân hồi) và sự toàn hảo tối hậu (của giác ngộ) -- tất cả chỉ có một nguyên nhân: giới hạnh. Nếu không có giới hạnh, không một thành tựu nào trong các thành tựu nói trên có thể đạt được. Chúng không có một nguyên nhân nào khác.
b. Làm thế nào các Bồ tát an trú trong giới hạnh
Tụng II.8.
II.8. Biển cả vẫn đưa xác chết vào bờ, những tốt lành vẫn không đồng hành với tai biến.
Cũng như thế các thánh hiền giới hạnh toàn hảo không thể kết bạn với các kẻ hạnh kiểm thấp kém.
Cũng như đại hải, nơi cư trú thanh tịnh của các loài rồng, sẽ luôn luôn đẩy một xác chết (ném nó lên bờ biển), và cũng như các cơ hội thiện hảo và bất hảo đều hỗ tương loại trừ nhau, các Bồ tát trên trí địa thứ nhì, là các vị thầy về giới hạnh, thì chẳng bao giờ kết bạn với các kẻ hạnh kiểm phóng đãng và sai lạc, bởi vì các giới hạnh của các bồ tát là thanh tịnh .
3. Hai tiêu chuẩn khác biệt về giới hạnh toàn hảo
Tụng II.9.
II.9. Các kỉ luật đạo đức khi được xem là thực hữu / hiện hữu tự tính trên 3 phương diện -- sự tự ngăn không làm, kẻ tự ngăn không làm, và cái được tự ngăn không làm -- là kỉ luật đạo đức toàn hảo thế tục.
Các kỉ luật đạo đức, nếu không được xem là thực hữu/hiện hữu tự tính trên 3 phương diện, chính là kỉ luật đạo đức toàn hảo siêu việt thế giới.
Nếu bạn vẫn chủ trương nhìn mọi sự vật theo các khái niệm về ba lãnh vực -- sự hiện hữu thực hữu / hiện hữu tự tính của một hành động, một đối tượng của sự ngăn chặn không làm, và một tác giả là kẻ ngăn chặn không làm -- kỉ luật đạo đức mà bạn thực hành được gọi là một toàn hảo thế tục. Trái lại, một kỉ luật đạo đức với trí tuệ không nhơ nhuốm, không bị nhuộm màu bởi niềm tin tưởng vào hiện hữu thực hữu của ba lãnh vực, là giới hạnh toàn hảo siêu thế giới.
C. Kết luận
Tụng II.10.
II.10. Trí địa Li Cấu này, cách tuyệt các nhơ nhuốm, sinh khởi từ mặt trăng của kỉ luật đức hạnh, con của các đấng Tối Thắng.
Các Bồ tát là sự huy hoàng của thế giới tuy không thuộc về thế giới, và như ánh sáng của mặt trăng mùa thu làm tan biến các sầu muộn tâm hồn của các kẻ lữ hành trong sinh tử.
*
Các Bồ tát được thấy “trong mặt trăng của trí địa thứ nhì” là sự huy hoàng và phong phú của thế giới tuy các Bồ tát vượt trên thế giới. Trí địa thứ nhì được gọi là Li Cấu bởi vì các Bồ tát này đều cách tuyệt với các nhơ nhuốm của vô giới hạnh, và giống như ánh chiếu của mặt trăng mùa thu, họ xoá bỏ hết các sầu muộn của các hữu tình.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chandrakirti. Madhyamakavatara. Introduction to the Middle Way.
Translated by Padmakara Translation Group
----------
2. The Immaculate
****
II.1
The qualities of perfect discipline are theirs, and thus
They spurn disordered conduct even in their dreams.
The actions of their body, speech, and mind are pure;
They practice tenfold virtue on the sacred path.
II.2
Indeed, their path of virtue in its tenfold aspect,
Now perfected, is extremely pure.
And ever-radiant like the autumn moon,
Their discipline is lovely in its soothing light.
II.3
If discipline is looked upon as truly and by nature pure,
This very thing deprives it of its purity.
The Bodhisattvas thus are always and completely free
From dualistic thoughts and hence the three concerns.
II.4
The fruits of generosity enjoyed in lower realms
Occur through fracturing the limbs of discipline.
When capital and interest are both wholly spent,
There is no further prospect of a future yield.
II.5
If, when free and dwelling in a wholesome state,
We make no effort to remain therein,
We’ll fall into the depths and then, deprived of freedom,
How shall we escape and rise again?
II.6
Thus, having set forth generosity,
The Conqueror went on to speak of discipline.
For qualities that spring up in the fields of discipline
Will yield unending fruits of happiness.
II.7
Common folk and speech-born Shravakas,
And those established on the path of self-enlightenment,
The children of the Conqueror also -- their final excellence
And high rebirth derive from discipline alone.
II.8
The ocean and a corpse do not remain together;
Good fortune and calamity do not keep company.
Likewise the great ones, who have perfect discipline,
Decline the company of dissolute behavior.
II.9
Restraint, the agent, and the object of the same --
All discipline observed with these three thoughts
Is said to be a perfect worldly deed;
But when these three are absent, it transcends the world.
II.10
Deriving from the radiant moon of discipline -- the glory of the world,
While yet transcending it -- the Bodhisattvas, free from stains, are now immaculate.
And like the moonlight in the autumn sky,
They sooth away the sorrows from the minds of wanderers.
****
Here ends the second ground or stage in the cultivation of absolute bodhichitta.
-------------------------------------------------------------------
Nguyệt Xứng. Nhập Trung Quán Luận.
Bản dịch (2015) của Tỳ kheo Hạnh Tấn và Sư Cô Nhật Hạnh
*
Phần II Bước Vào Trung Đạo, Phát Tâm thứ hai.
Tâm Bồ Đề Thứ Hai Ly Cấu Địa – Giữ Giới
II.1
Giới đức viên mãn, phẩm chất chứa tròn đầy,
Ngay trong mơ cũng xua tan bất tịnh hành,
Hoạt động của thân miệng ý đều tịnh hóa,
Mười đạo giáo pháp tuyệt hảo đều tu tập.
II.2
Tu tập mười giới đạo thật trang nghiêm,
Ngài thành thanh tịnh và vượt trội,
Như trăng thu tròn luôn trong sáng,
An bình, tỏa sáng đều tươi đẹp.
II.3
Giữ giới nhưng còn kiến chấp tự tánh, (hình tướng)
Giữ giới như thế hoàn toàn không thanh tịnh,
Bởi thế luôn luôn [phải thấy] ba luân,
Nằm ngoài nhận biết nhị nguyên.
II.4
Bố thí của cải có khi còn sanh vào cõi thấp,
Điều này cũng đến với người làm hư chân giới,
Khi phước báu hoàn toàn tiêu thất,
Từ đó của cải không còn trở lại nữa.
II.5
Nếu đang tự do và sống thoải mái,
Nhưng không tạo nhân khỏi đoạ lạc,
Khi rơi xuống và đánh mất tự do,
Không gì có thể kéo lộn trở lên.
II.6
Vì thế đức Phật sau khi tuyên thuyết Bố Thí,
Ngài đã giảng dạy về pháp giữ giới,
Khi ruộng giới đức đầy phẩm chất,
Quả của phước báu chẳng bao giờ ngừng.
II.7
Chúng sanh cùng với các chúng Thanh Văn,
Chư Độc Giác Giác Phật chứng tự tánh,
Tất cả công đức của Pháp Vương Tử (Bồ Tát),
Nhân đạt cảnh giới cao không gì hơn là trì giới.
II.8
Cũng như biển cả đối với xác chết,
Lại như may mắn cùng với rủi ro,
Cũng thế bậc đại nhân giữ giới,
Không muốn cùng chung sống với người phá giới.
II.9
Chủ thể, hoạt động, đối tượng trong buông xả,
Vẫn còn chấp thấy ba thứ này khi trì giới,
Giữ giới như thế gọi là theo thế pháp,
Không còn ba thứ này mới là chân giải thoát.
II.10
Bồ Tát sanh ra từ mặt nguyệt rời luân hồi,
Cũng dùng ánh sáng tịnh hóa các cấu nhiễm,
Lại như ánh trăng rằm trong tháng thu,
Xua tan tất cả phiền não nơi tâm chúng sanh.
---------------------------------------------------------------------------------------
Long Thọ. Vòng hoa quý báu (Ratnavali)
(ĐHP dịch)
**
440. Cũng như tám địa của các Thanh Văn
Được miêu tả trong Thanh Văn Thừa
Cũng thế mười địa của các Bồ tát
Được miêu tả trong Đại Thừa.
*
441. Địa thứ nhất của mười địa là Hoan Hỉ
Bởi vì các Bồ tát đang hân hoan
Từ sự đoạn trừ ba kết bện đan quấn
[ngã thực hữu, nghi vấn do bị phiền não,
các giới hạnh sai bậy mà xem là cao quý]
Và được sinh vào gia đình các Như Lai.
*
442. Xuyên qua sự thành thục của các tính đức thiện hảo này
Toàn hảo của Bố thí trở thành tối thượng.
Các Bồ tát làm chấn động một trăm thế giới
Và trở thành Thượng Thủ của châu lục Jambudvipa.
*
443. Địa thứ nhì được gọi là Li Cấu
Bởi vì tất cả muời hành nghiệp thiện hảo
Của thân, ngữ, và tâm đều là li cấu
Và các Bồ tát tự nhiên an trú trong các hành động đạo đức đó.
*
444. Xuyên qua sự thành thục các tính đức đó
Sự toàn hảo của đạo đức trở thành tối thượng.
Các Bồ tát trở thành các Chuyển Luân Vương giúp đỡ các hữu tình,
Các Thủ Lãnh của bốn châu lục huy hoàng và bảy báu.
----
Nagarjuna. Precious Garland. (translated by Jeffrey Hopkins)
*
440. Just as eight grounds of Hearers
Are described in the Hearers’ Vehicle,
So ten grounds of Bodhisattvas
Are described in the Great Vehicle
*
441. The first of these is the Very Joyful
Because those Bodhisattvas are rejoicing
From having forsaken the three entwinements
And being born into the lineage of Ones Gone Thus.
*
442. Through the maturation of those [good qualities]
The perfection of giving becomes supreme.
They vibrate a hundred worlds
And become Great Lords of Jambudvipa.
*
443. The second is called the Stainless
Because all ten [virtuous] actions
Of body, speech, and mind are stainless
And they naturally abide in those [deeds of ethics].
*
444. Through the maturation of those [good qualities]
The perfection of ethics becomes supreme.
They become Universal Monarchs helping beings,
Masters of the glorious [four continents] and of the seven precious objects.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích từ ngữ
1. Một Bồ tát theo mỗi trí địa, đặt tiêu điểm trên một toàn hảo khác nhau :
trí địa thứ nhất : bố thí (giving)
trí địa thứ nhì : giới hạnh / kỉ luật đạo đức (ethics)
trí địa thứ ba : thuận nhẫn (patience)
trí địa thứ tư : tinh tấn (effort)
trí địa thứ năm : thiền định (dhyana; concentration)
trí địa thứ sáu : trí tuệ siêu việt (wisdom)
trí địa thứ bảy : phương pháp (method)
trí địa thứ tám : các nguyện (wishes)
trí địa thứ chín : lực (power)
trí địa thứ mười : trí (exalted wisdom)
giới hạnh : Skt. vinaya; discipline
kỉ luật đạo đức : moral discipline; ethical discipline
lí cấu : stainless; immaculate
trí địa / bậc : ground / stage (trong Bồ tát địa)
toàn hảo xác định : definite goodness
-----------------
Patrul Rinpoche (1808-1887)
Mười hành nghiệp bất thiện
(ĐHP dịch) -- Lược trích
----------------
Các hiền giả đã viết rằng
Biểu thị tinh hoa của giáo pháp
Nguyên nhân và hiệu quả của các hành nghiệp
Là chúng ta đoạn trừ các hành nghiệp bất thiện
Và bắt đầu thật hiện các hành nghiệp thiện hảo.
*
Chỉ có hai loại tái sinh --
Tốt lành và không tốt lành
Chúng ta phải phân tích
Các hành động thiện hảo và bất hảo của chúng ta
Bởi vì riêng chỉ có chúng tạo thành các tái sinh như thế;
Chúng ta không đi tới điểm tái sinh
Tốt lành, không tốt lành do một tình cờ may rủi.
“ Hãy nỗ lực đoạn trừ cái phi - phúc đức
Và hãy tích tập phúc đức”,
Các vị thầy cao quý khuyến khích, thỉnh cầu.
*
Các hành nghiệp bất thiện là mười:
Lấy đi mạng sống của các hữu tình / hữu thức
Lấy các sự - sự vật- vật mà không được cho
(Tỉ dụ tự do, dân chủ, nhân quyền)
Và các hành vi dục tình sai bậy
Là ba bất thiện của thân.
*
Nói càn/ sai trái, nói vu oan giá họa,
Nói cay đắng khắc nghiệt, và nói phù phiếm,
Là bốn bất thiện của ngôn ngữ.
*
Ham muốn chiếm đoạt sở hữu của kẻ khác, ác tâm, và các tà kiến
Là các bất thiện của tâm trí.
*
Để giảng rõ thêm
Giết có thể có động cơ
Từ thù ghét, tham luyến, hoặc ngu si / vô minh.
Trong các sự giết
Giết các bậc cha mẹ, và các A-la-hán
Là nghiệp tội vô gián. Kinh sách nói
Những kẻ sát nhân như vậy, không có thân trung hữu,
Chỉ tái sinh ngay lập tức
Trong các trạng thái không tốt lành.
*
Một hành vi hoàn tất về giết
Có bốn yếu tố:
Đối tượng, động cơ, hành hoạt, và sự hoàn tất.
Đối tượng là bất kì hữu tình nào;
Động cơ, cái tâm niệm để giết;
Hành hoạt, để thi hành sự giết;
Sự hoàn tất, cái chết của hữu tình.
Nhưng người đời giết không cần lí do,
Thấy người giết người
Trong quá nhiều cách khác nhau
Làm tan vỡ các trái tim
Của những kẻ có lòng đại bi.
*
Trộm cướp / Trấn lột có nghĩa là lấy mà không có sự cho phép
Ba loại là
Lấy bằng bạo lực, sự che lấp, hoặc sự lừa gạt.
Trộm cướp trấn lột bằng bạo lực không chỉ gồm các tên cướp,
Nhưng cộng thêm quân lính / công an và các kẻ khủng bố.
Sự che lấp là lấy đi mà các chủ nhân không hề biết,
Sự lừa gạt, bằng cách sử dụng các ngụy chứng. (Đó là tham nhũng)
……..
----------------
Patrul Rinpoche (1808-1887)
THE TEN NON-VIRTUOUS ACTIONS
*
The great scholars have written that
The significance of teaching
The cause and effect of actions
Is that we discard non-virtuous actions
And adopt virtuous ones.
*
There are only two kinds of rebirth --
Fortunate and non-fortunate.
We must analyze our virtuous and non-virtuous deeds
For these alone create such rebirths;
We do not end up there by chance.
“Strive to abandon non-virtue,
And cultivate virtue”, the great teachers exhort.
*
Non-virtuous activities are ten :
Taking the lives of sentient beings,
Taking things not given,
And sexual misconduct
Are three physical non-virtues.
*
Lying, slander, harsh, and idle speech
Are the four verbal non-virtues.
*
Covetousness, harmful thought, and wrong views
Are the mental non-virtues.
*
To explain a little further,
Killing may be motivated
By hatred, attachment, or ignorance.
Among all killing
That of parents and Arhats
Are heinous sins. It is said
For such killers, there is no bardo,
Just immediately rebirth
In unfortunate states.
*
A complete act of killing
Has four components:
Object, motive, activity, and completion.
The object is any sentient being;
The motive, the thought to kill;
The activity, to carry out the slaying;
The completion, the being’s death.
But humans killfor no reason.
To see human killing human
In so many different ways
Break the hearts
Of those with compassion.
*
Stealing means to take without permission.
Its three types are
To take by force, concealement, or deceit.
Stealing by force includes not only robbers,
But soldiers and terrorists as well.
Concealment is taking without the owner’s knowledge,
Deceit, by using false pretenses.
… (an extract)
-------
Source: Geshe Wangyal. The Jewelled Staircase. Snow Lion Publication 1986. p. 113 -114.
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chú thích từ Tịch Thiên. Con đường Bồ tát. Chương 1
1. Thiện Thệ: Trong 10 hiệu của Phật thì thứ nhất là Như Lai, thứ 5 là Thiện Thệ. Như lai nghĩa nương theo đạo như thực, khéo đến thế giới Sa bà này; Thiện thệ nghĩa là thực sự đến bờ bến kia, không còn lui lại biển sinh tử nữa. Hai từ Như lai và Thiện thệ được sử dụng để nêu tỏ cái đức đi, đến tự tại của chư Phật. (Phật Quang Đại Từ Điển, p.5840) (Bản Việt chú thích)
2. Thiện thệ (Sugata): Prajnakaramati (Bát Nhã Thủ Huệ) trong Panjika, p.1, định nghĩa chư Thiện thệ trong bốn cách:
(1) là các vị đã xoá bỏ các sự che lấp của các phiền não tinh thần (klesyadyavaraprahanam gatah)
(2) là các vị đã thực chứng tính vô ngã của tất cả các hiện tượng (prasatam sarva -dharma-nihsvabhavata-tattvam gata adhigatah)
(3) là các vị đã đi, không trở lại một lần nào (apunaavrttya gatah) bởi vì các vị hoàn toàn xóa sạch vô minh (avidya; spiritual ignorance) là hạt giống chấp thủ “tôi” (ahamkara), và bởi sự xoá bỏ vô minh chư Thiện Thệ khác biệt hẳn với các vị Nhập Lưu/ Dự Lưu (srotapanna; Stream-enterers; tu đà hoàn), các vị Nhất lai (sakrdagamin; Once-returners; tư đà hàm), và các Bồ tát;
(4) và các vị đã đạt đến sự xoá bỏ hoàn toàn các tập khí nghiệp (vasana; karmic imprint) không còn bất kì dư báo nào (without any remainder), và do nhờ trạng thái viễn li trọn vẹn này, chư Thiện Thệ khác biệt hẳn các vị Bất Hoàn (anagamin; Non-returners; a na hàm), các Thanh Văn (sravakas), và các vị Độc Giác (Pratyekabuddhas).
7. Chú thích của bản Anh. Trong toàn tác phẩm này, ngài Tịch Thiên nói về “Skt. papa” (Tibetan: sdig pa), (nghiệp tội/tội nghiệp); Các độc giả Tây Phương hiện đại thường bác bỏ sự giới thiệu từ ngữ SIN (tội) vào các bản dịch Phật giáo trên các căn cứ là nó chất chứa nặng nề thêm các sai biệt hình bóng thần học và tâm lí học từ lịch sử các tôn giáo và xã hội Tây Phương. Họ tranh biện, từ ngữ này thì liên kết sít sao với sự thưởng phạt/ sự phán xét thần thánh, sự có tội, và sự sợ hãi, nó nên cùng được tránh sử dụng trong các bài viết Phật giáo.
Trong bản dịch này chúng tôi [dịch giả bản Anh] dịch thuật ngữ Skt. papa thành cả hai: sin (nghiệp tội/tội nghiệp) và vice ( nết xấu/ tính xấu…). Mặc dầu cũng có thể dịch là misdeed, fault, offence, transgression, hoặc wrongdoing (hành tác sai trái, lỗi lầm, vi phạm…) nhưng không từ ngữ nào theo sát ý niệm Phật giáo mà Tịch Thiên phân biệt giữa các thuật ngữ papa (nghiệp tội), apatti (tội đọa), và dosa (fault, tội lỗi; bane, tai họa) trong hai tác phẩm của ngài, Con đường Bồ tát và Đại thừa tập Bồ tát học luận.
Trong khi Skt. papa quy chỉ về mọi hành nghiệp phi công đức (akusala-karma; non-virtuous deed), Skt. apatti (tội đọa) chỉ quy chỉ vào các tội đọa (downfalls) do sai trái vượt khỏi các giới điều (transgression of precepts); và Skt. dosa quy chỉ các nhóm lỗi lầm rộng hơn, gồm cả các tính nết làm thiệt hại và không chỉ là các hành tác phi công đức. Như vậy các thuật ngữ vi phạm (offence), sai trái với các giới điều (transgression), và lỗi lầm (fault) không có cùng nghĩa như Skt. papa.
Từ Anh ngữ misdeed và wrong doing (hành tác sai trái) có nghĩa tương đối hợp lí với nghĩa của papa, nhưng hãy quan tâm ngài Tịch Thiên nhấn mạnh vào tiến trình sám hối (confessing) và tịnh hoá (purifying) papa để tránh các hệ quả thảm hại/thảm khốc của nó (its dire consequences), tỉ dụ tái sinh trong địa ngục, từ ngữ Anh ngữ thông dụng SIN có vẻ tương ứng sít sao nhất với thuật ngữ papa ( tội nghiệp/ nghiệp tội) của tiếng Phạn.
8. Skt. papa (nghiệp tội) nguyên văn -- cái gì đem bạn xuống thấp. Skt. punya (phúc đức) đối nghĩa với Skt.papa. Punya cái gì đem bạn lên cao. Nó là công đức hay phúc đức tinh thần. Phúc đức dẫn đến hạnh phúc. Nghiệp tội dẫn đến đau khổ.
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
Chính niệm và kỉ luật cần đồng hành -- Năng lượng của tình thương
“ Năng lượng cần phải tuôn chảy, nhưng nó sẽ phải vận hành trên một bình diện khác hơn…bình diện của tình thương. Nhưng để thực hành điều đó, bạn phải kỉ luật bạn.
Khi dục dấy khởi, nó sẽ vận hành trong tình thương, không trong dục. Nó vận hành trong từ bi, không trong đam mê. Nó vận hành trong sự bố thí, không phải trong tham ái.
Kỉ luật cần có để dọn những con đường mới, cho nên chánh niệm và kỉ luật cần đồng hành.
Có người cương quyết cho rằng chánh niệm cũng đã quá đủ. Họ cũng đúng, nhưng để vượt đến điểm chánh niệm toàn triệt, đến điểm tự kỷ luật thì cực kỳ khó khăn…
Có người còn cho là kỷ luật cũng đã quá đủ, họ không cần duy trì chánh niệm. Họ nằm trên một đối cực khác. Chỉ kỷ luật không thôi, không thể được xem là đủ. Họ sẽ tự điều phục chính mình mỗi ngày và họ biến thành bộ máy…
Bộ máy sẽ làm việc, không thiện không ác.
Hệ thống cơ chế của bộ máy vô hồn, vô tâm thức, chỉ biết lặp đi lặp lại.
Sự lặp đi lặp lại là một cái chết trường kỳ, không giúp gì được cho ai.
Bạn cầu nguyện mỗi ngày, nhưng chỉ có bộ máy tâm trí làm việc. Bạn vắng mặt. Bạn có thể tiếp tục phụng sự chúng sinh vạn loài, nhưng nếu bạn di chuyển như bộ máy, nếu chỉ kỷ luật mà không duy trì chánh niệm thì bạn không khác gì máy điện toán. Phương tiện hoàn hảo nhưng bạn vắng mặt.”
(OSHO. Thập Mục Ngưu Đồ. Minh Nguyệt chuyển ngữ. Osho Việt Nam 2009, p.178)
-----------------------------------------------------------------------
Thập sự thiện pháp / Mười pháp tích lũy các điều thiện
(Duy Ma Cật Sở Thuyết. 2008. Bản dịch Tuệ Sỹ.p.255)
Duy-ma-cật nói: “Thật đúng như vậy. Chư Bồ-tát ở cõi này có tâm đại bi kiên cố đối với chúng sinh. Việc làm lợi ích hết thảy chúng sinh của họ trong một đời hơn cả những vị ở cõi kia [23] đã làm trong hàng trăm ngàn kiếp. Vì sao vậy?
Thế giới Ta-bà này có mười sự pháp thiện [24] mà các cõi Tịnh độ khác không có. Mười thiện pháp đó là gì? Đó là:
1. Lấy huệ thí đối trị bần cùng.
2. Lấy trì giới đối trị phạm giới.
3. Lấy nhẫn nhục đối trị sân nhuế.
4. Lấy tinh tấn đối trị giải đãi.
5. Lấy thiền định khắc phục loạn ý.
6. Lấy trí huệ dẹp tan vô minh.
7. Nói pháp trừ nạn để vượt qua tám nạn.
8. Dạy pháp Đại thừa cho người còn chấp pháp Tiểu thừa.
9. Lấy các thiện căn giúp người vô đức.
10. Thường dùng bốn nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh.
Đó chính là mười thiện pháp”.
*
[23] Htr., “hơn các Bồ-tát đã hành qua trăm nghìn đại kiếp trong thế giới Nhất thiết Diệu hương.”
[24] Thập sự thiện pháp 十事善法. VKN: daśa kuśaloccayā dharmā, mười pháp tích lũy các điều thiện.
http://www.tangthuphathoc.net/kinhtang/DuyMaCatSoThuyet-TueSy.pdf
------------------------------------------------------------------------------
PHẬT THUYẾT VÔ CẤU XƯNG KINH
Hán Dịch: Đại Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Nguyên
Quyển thứ sáu XII - PHẨM QUÁN NHƯ LAI
Cư sĩ nên biết! Bồ tát cõi Kham nhẫn này hành Bồ tát hạnh, làm lợi ích hữu tình được công đức trong một đời nhiều hơn công đức của Bồ tát ở thế giới Nhất Thiết Diệu Hương hành Bồ tát hạnh làm lợi ích các hữu tình trong trăm ngàn đại kiếp. Vì sao? Vì cõi Kham nhẫn có mười điều tu tập pháp lành mà các thế giới Phật thanh tịnh khác trong mười phương không có. Thế nào là mười?
1- Lấy bố thí mà hộ trì người nghèo khổ.
2- Đem tịnh giới mà hộ trì người phá giới cấm.
3- Lấy Nhẫn nhục mà hộ trì các sân giận.
4- Lấy tinh tấn mà hộ trì người biếng nhác.
5- Lấy tịnh lự mà hộ trì người loạn tâm.
6- Lấy thắng huệ mà hộ trì người ngu si.
7- Nói pháp trừ bát nạn để hộ trì tất cả hữu tình bị tám nạn.
8- Giảng nói chánh pháp đại thừa mà hộ trì tất cả ai thích pháp nhỏ.
9- Đem những căn lành thù thắng mà hộ trì những người chưa có những căn lành.
10- Lấy bốn nhiếp pháp vô thượng luôn làm thành thục tất cả hữu tình.
Đó là mười điều để tu tập pháp lành, chỉ có cõi Kham nhẫn này có đầy đủ, còn những cõi Phật thanh tịnh khác trong mười phương thì không có.
-----------------------------------------------------------
The Holy Teaching of Vimalakirti. A Mahayana Scripture.
The Pennsylvania State University Press.1976. 19th Printing 2014. Translated by Robert A.F. Thurman (pp. 82-83)
****
The Licchavi Vimalakirti declared, "So be it, good sirs! It is as you say. The great compassion of the bodhisattvas who reincarnate here is extremely firm. In a single lifetime in this universe, they accomplish much benefit for living beings. So much benefit for living beings could not be accomplished in the universe Sarvagandhasugandha even in one hundred thousand aeons. Why? Good sirs, in this Saha universe, there are ten virtuous practices which do not exist in any other buddha-field. What are these ten? Here they are:
1) to win the poor by generosity;
2) to win the immoral by morality;
3) to win the hateful by means of tolerance;
4) to win the lazy by means of effort;
5) to win the mentally troubled by means of concentration;
6) to win the falsely wise by means of true wisdom;
7) to show those suffering from the eight adversities how to rise above them;
8) to teach the Mahayana to those of narrow-minded behavior;
9) to win those who have not produced the roots of virtue by means of the roots of virtue;
10) and to develop living beings without interruption through the four means of unification.
Those who engage in these ten virtuous practices do not exist in any other buddha-field."