Lời Kết

20 Tháng Tư 201300:00(Xem: 5012)

NIETZSCHE VÀ ĐẠO PHẬT 
Nguyên tác: ROBERT G. MORRISON
OXFORD UNIVERSITY PRESS 1997
Bản dịch Việt: THÍCH NHUẬN CHÂU

PHẦN II

NHỮNG QUAN HỆ SAI LẦM

Kết

 

Khi đánh giá quan điểm của Nietzsche về đạo Phật, tôi đã đưa ra miêu tả quan niệm hư vô của Nietzsche đã có sự liên kết như thế nào với cách hiểu về đạo Phật của ông. Nietzsche đã nhìn thấy chiều hướng lịch sử song song giữa một nền văn hoá phát triển vào chính thời của mình và của Ấn Độ vào thời Đức Phật. Song song lịch sử nầy nằm trên sự nổi bật của chủ thuyết hư vô (nihilism) là kéo theo sau sự đánh mất niềm tin trong khái niệm về một thế giới quan (Weltanschauung) ưu việt đã được công nhận. Giáo lý Đức Phật qua kiến giải của Nietzsche như là một đáp lại cho chủ thuyết hư vô (nihilism) vào chính thời của ông, và sự phản ứng đó, thay vì là một câu trả lời đầy tính nội quán (insightful) cho chủ thuyết hư vô, mà chỉ là một dạng đặc biệt của chủ nghĩa hư vô–‘chủ nghĩa hư vô thụ động (passive nihilism)’ Đức Phật không cho rằng nhận thức chủ nghĩa hư vô ấy là một dòng văn hoá đặc trưng phải nên vươn tới, và do vậy, công nhận Thế giới quan về một vũ trụ vô nghĩa và không mục đích như một xác định tuyệt đỉnh về đời sống. Thay vì vậy, Đức Phật tạo ra một điều mà Nietzsche xem là giáo pháp cao quý và nhân văn– Pháp (Dhamma)–như là phương tiện giúp cho những người cùng thời của Nietzsche vượt qua nỗi thất vọng về tâm lý khi họ thấy rằng ở ngay mục đích cuộc sống mà họ có được đã bị xói mòn bởi chủ nghĩa hư vô. Như là kết qủa của việc làm theo giáo pháp Đức Phật, họ sẽ trở thành như có thể đương đầu với nỗi lạnh lùng nầy, thế giới vô nghĩa và sự huỷ diệt của riêng họ, vào lúc chết sẽ cùng với niềm hoan hỷ và bình thản. Lướt mắt nhìn qua nền văn hoá của mình đương thời, Nietzsche thấy trước rằng thế giới già cỗi của họ đang dần dần bị xói mòn bởi chủ nghĩa hư vô đang rõ nét, đặc biệt là bởi nền khoa học mới, họ có thể thấy được trong thông điệp của Đức Phật một phương cách đối xử với sự lớn mạnh hiện sinh của tâm trạng xao xuyến bất an (Angst). Nhưng đối với Nietzsche, một viễn tượng như vậy chính là báo trước một thảm trạng văn hoá: Nietzsche thấy rằng việc chấp nhận đạo Phật sẽ trở nên một đe doạ rất hiện thực cho tương lai Châu Âu, dù ông thán phục nhiều phẩm tính của đạo Phật, đặc biệt là khi đối chiếu với Ki-tô giáo. Tuy nhiên, sau khi khảo sát kỹ xem đạo Phật có được xem là chủ nghĩa hư vô hay không–trong đó họ hiểu rằng thế giới đang hiện hữu không có ý nghĩa và mục đích gì, và mục tiêu của nó, niết-bàn (nirvāṇa), đơn thuần chỉ giúp cho cá nhân hoan hỷ chấp nhận sự hoàn toàn tan hoại lúc chết, đó là cách Nietzsche nghĩ–kết luận của tôi là đạo Phật khác xa với một tôn giáo chủ trương hư vô.

Và tôi đã trình bày những điều tôi hiểu như là những mối tương quan tồn tại giữa câu trả lời của Nietzsche về chủ nghĩa hư vô, quay trở lại trong ý tưởng then chốt cuả ông về ‘Ý chí hùng tráng’ và sự cá tính hoá (individualization) chính là việc tự hàng phục chính mình (self-overcoming), và quan niệm đạo Phật về khát ái (taṇhā) và tu tập định tâm (citta-bhāvanā). Ý chí hùng tráng, xuất phát từ sự nền móng khoa học bởi thuyết động năng ‘vật chất’ của Boscovitch, trở nên sự thay thế ‘Thượng đế’ cuả Nietzsche. Trong thuyết nầy, mọi hiện tượng, từ nguyên tử cho đến các phần tử cấu thành hiện hữu con người, đều được đặc tả bởi một nỗ lực (nisus) vượt thắng mọi chướng ngại, là điều Nietzsche gọi là ‘Ý chí hùng tráng.’ Trong mỗi cá nhân, Ý chí hùng tráng nầy, nếu vận dụng một cách thông minh, thì nó biểu hiện như là ‘tự hàng phục chính mình.’ Và chính thông qua ý niệm tự hàng phục chính mình mà Nietzsche tìm kiếm một thúc giục tiến lên con đường tâm linh mới, đạt đến tột đỉnh trong một dạng hiện hữu mới, là một Siêu nhân, hay Việt nhân (Übermensch)

Thông qua khảo sát khái niệm khát ái trong đạo Phật, dùng mô dạng Eros như được thấy trong Symposium của Plato cũng như được thấy trong Kinh điển đạo Phật, tôi đã nỗ lực trình bày rằng khát ái, vốn theo truyền thống, hầu như luôn luôn được trình bày như là một chướng ngại cho con đường tu tập tâm linh, có thể được hiểu đơn thuần như là điều kiện căn bản cho sự hiện hữu của thế giới, điều kiện chưa hoàn chỉnh, bấp bênh cho hiện sinh. Chính từ điều kiện căn bản nầy mà toàn thể nỗ lực đua tranh. Trong ý nghĩa nầy, nó có liên hệ đến Ý chí hùng tráng của Nietzsche như là một ‘hình thái nguyên thuỷ nhất của xúc cảm.’ Và đúng là Ý chí hùng tráng của Nietzsche có thể hướng vào mục đích tâm linh thông qua tự hàng phục chính mình, khi đối tượng của khát ái là thuộc về bản chất tâm linh, khát ái có thể nói là trở thành pháp dục (dhamma-chanda)[1] hay ‘nỗ lực tìm cầu giáo pháp,’ có biểu hiện chính là tu tập định tâm (citta-bhāvanā). Về cơ sở đối chiếu nầy, kết luận của tôi là, trớ trêu thay, đó chính là điều gì đó hơi giống ý niệm của đạo Phật về tu tập định tâm (citta-bhāvanā) và Nietzsche nhắm đến. Và, vì ý niệm của đạo Phật đã được vận dụng toàn triệt như là một phương pháp thực tiễn, nên có rất nhiều điều có lẽ Nietzsche đã học và vay mượn từ đạo Phật để có thể giúp ông ta trong sự tìm cầu một câu trả lời thiết thực cho chủ nghĩa hư vô. Tu tập định tâm (citta-bhāvanā), như ‘tự hàng phục chính mình’ của Nietzsche, được bắt rễ từ cấu trúc tâm lý tự nhiên của con người. Bằng cách chuyển hóa khéo léo những khuynh hướng thâm sâu và chắc chắn, con người có thể mạo hiểm dấn thân trên con đường tự hàng phục chính mình liên tục để cuối cùng, vươn đến đỉnh cao trong một dạng hiện hữu mới: một vị Phật[2] (bậc giác ngộ). Có lẽ, nhờ vay mượn nhiều từ đạo Phật, Nietzsche có lẽ đã tìm thấy một phương pháp thực tiễn cho việc sáng tạo Siêu nhân (Übermensch) đang còn trong giả thuyết của ông. Thực vậy, Nietzsche đã sống trong một thời đại khi mà đạo Phật đã được thấm nhuần nhiều hơn, Nietzsche thậm chí có thể được xem như một con người giác ngộ, hiện thân một Siêu nhân (Übermensch) như vậy.

Hạ an cư Mậu tý
2008
Thích Nhuận Châu.
(Tu Viện Quảng Đức)

 


[1] * Hán: Dục như ý túc.

[2] * Buddha: one who has attained enlightenment; a man superior to all other beings, human & divine, by his knowledge of the truth (Rhys Davids). Quá khứ phân từ của bujjhati có nghĩa là: biết (known); hiểu (understood); nhận thức (perceived). (danh từ, m.) người đã đạt được sự hiểu biết, nhận thức sáng suốt (one who has attained enlightenment); Đấng Giác ngộ (the Enlightened One).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
28 Tháng Hai 2015(Xem: 13194)
Nhị Nguyên là Pháp rất sâu xa và tế nhị đối với những người tu học, vì nhận được ra nó thật là quá khó rồi thì nói gì siêu việt nó. Mà không vượt lên khỏi Nhị Nguyên thì muôn kiếp vẫn loanh quanh trong Tam giới không làm sao bước ra được
29 Tháng Giêng 2015(Xem: 5861)
Kinh điển Phật giáo phân định vạn hữu thành 2 thể loại là Hữu tình và Vô tình: động vật thuộc về Hữu tình và các loại khoáng vật, thực vật thuộc Vô tình. Tất cả Hữu tình trong vũ trụ đều có một tâm thức A-lại-da. Thức này có khả năng lưu trữ, bảo trì tất cả các kinh nghiệm và chờ khi gặp cơ duyên thì hiện hành trở lại. Vì vậy, cho nên công năng tưởng tượng của ký ức đã hiện hữu thì những ký ức phải được lưu trữ.
23 Tháng Giêng 2015(Xem: 9287)
Một vị lãnh đạo một tôn giáo lớn, tuy thờ Trời nhưng lại sợ con người, đã không dám tiếp một vị lãnh đạo tôn giáo khác trong một dịp viếng thăm Âu Châu gần đây, mặc dù một vị lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng khác từ một nước rất xa xôi tận phía nam Phi Châu đã trực tiếp can thiệp và trách cứ về hành động đáng tiếc này.
26 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6503)
Triết lý Phật giáo đầy mâu thuẫn. Logic học hiện đại đang nghiên cứu tại sao bây giờ nó có thể là một Triết thuyết hay. Nhìn chung, một số Triết gia phương Tây đã không nhìn tư tưởng Phật giáo với nhiều sự nhiệt tình. Như một đồng nghiệp đã từng nói với tôi:
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8619)
Một người Phật tử đã hỏi tôi Lucy có phải là phim Phật giáo không? Nhân đây tôi cũng xin chia sẽ đến các bạn. Lucy là một bộ phim hành động viễn tưởng khoa học của Pháp viết bởi đạo diễn Luc Besson khởi chiếu vào ngày 25/07/2014 đem lại doanh thu hơn 458 triệu đô la. Lucy được khán giả đón nhận nhiệt tình và có rất nhiều phản hồi tích cực trên khắp thế giới. Điều đáng nói là nội dung của phim có rất nhiều điều đáng để suy ngẫm.
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6714)
Thời gian có lẽ là một phạm trù gây nên những băn khoăn nhiều nhất cho triết học, khoa học, tôn giáo và con người nói chung bởi nó là điểm trụ của mọi hình thái tồn vong vũ trụ. Thật vậy, mọi vật sinh khởi trong thời gian, và cũng hủy diệt trong thời gian, hữu sinh tất hữu diệt là một quy luật chẳng những đúng cho vạn vật, mà còn cho tất thảy mọi chúng sinh.
06 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5051)
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, loài người tiếp tục đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu. Có lẽ nghiêm trọng nhất và khiến cho những cuộc khủng hoảng khác khó được giải quyết hơn chính là sự khủng hoảng niềm tin.
04 Tháng Mười Một 2014(Xem: 12087)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á. Ngài Long Thọ là người đưa ra những phê phán nghiêm khắc về triết lý thực thể của Bà La Môn và Phật Giáo, về nhận thức luận, và các pháp môn tu tập.