Phần I: Nghiên Cứu Về Trần Nhân Tông - Chương Vi Thượng Hoàng Trần Nhân Tông Xuất Gia.

16 Tháng Tám 201100:00(Xem: 5678)


TRẦN NHÂN TÔNG

CON NGƯỜI VÀ TÁC PHẨM
Tiến sĩ Lê Mạnh Thát 
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 1999

CHƯƠNG VI 
THƯỢNG HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG XUẤT GIA
 
Khi cuộc đấu tranh để bảo vệ hòa bình và gầy dựng cuộc sống ấm no đang trên đà phát triển tốt đẹp thì vua Trần Nhân Tông đã giao lại quyền bính cho con mình là Trần Anh Tông từ tháng 3 năm Qúy Tỡ (1293). Đến tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), Thượng hoàng đi chơi Vũ Lâm và quyết định xuất gia ở đấy, như ĐVSKTT 6 tờ 2b2-4 đã ghi: “Bấy giờ Thượng hoàng đến Vũ Lâm, vào chơi hang đá. Cửa núi đá hẹp. Thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, thái hậu Tuyên Tư ở đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên mũi thuyền, chỉ cho một phu chèo thuyền thôi. Đến khi xuất gia, lúc xe vua sắp ra, cho mời Văn Túc vào điện Dưỡng đức cung Thánh Từ ngồi ăn các món hải vị”. 

Vậy thì vào năm Giáp Ngọ (1294) vua Trần Nhân Tông đã xuất gia. Khâm định Việt sử thông giám cương mục 8 tờ 23b1 chép việc xuất gia này vào tháng 6 năm Ất Mùi (1295), sau khi Thượng hoàng đã đi chinh phạt Ai Lao trở về: 
“Thượng hoàng từ Ai Lao trở về, xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, rồi bỗng trở lại kinh sư.”Cương mục như thế, muốn sau khi Thượng hoàng xuất gia, thì không có chuyện cầm quân đi đánh giặc. Tuy nhiên, ta sẽ thấy, sau khi xuất gia, Thượng hoàng có nhiều hoạt động vì dân vì nước. Và những quyết sách của triều đình thường phải đến thỉnh thị ý kiến của Thượng hoàng. Thí dụ điển hình là việc Đoàn Nhữ Hài trước khi đi sứ Chiêm Thành đã tới chờ Thượng hoàng cả ngày tại chùa Sùng Nghiêm ở Chí Linh. Sự kiện Thượng hoàng xuất gia tại núi Vũ Lâm, như thế, đã xảy ra vào năm 1294, như ĐVSKTT cho biết. 

Vũ Lâm là một trong những thung lũng đẹp thuộc xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh bình ngày nay. Phía đông thung lũng là con sông Ngô Đồng chảy ngang, còn ba phía tây, nam, bắc đều do các núi đá vôi bao bọc. Hiện còn điện Thái Vi thờ vua Trần Thái Tông, vua Trần Thánh Tông và Hoàng thái hậu Hiếu Từ. Điều này chứng tỏ điện Thái Vi do chính vua Trần Nhân Tông dựng nên để thờ ông, cha và mẹ mình. Ba tấm bia hiện còn đọc được tại điện này xác định việc đó. 

Tấm bia thứ nhất có tên Tu tạo Thái Vi cung thần từ thạch bi viết vào ngày 10 tháng 3 năm Vĩnh Thịnh thứ 10 (1715) do dân làng cùng quan viên, hương trưởng của hai giáp Trung và Cật xã Ô Lâm dựng sau khi đã sửa điện xong: “Vào tháng 8 mùa thu năm Giáp Ngọ (1715) dân hai giáp Trung và Cật xã Ô Lâm thấy điện báu nguy nga của triều trước nay đổ nát hư hỏng, bèn dốc lòng cùng nhau sửa chữa (...) 

Điện báu Thái vi 
Dấu xưa lưu truyền 
Triều Trần thánh tổ 
Nhiều đời chuộng thiền 
Khuông phò thế nước 
Giúp giữ dân yên 
(Thái Vi điện bảo 
Cổ tích lưu thông 
Trần triều thánh tổ 
Lịch đại tu sùng 
Khuông phù quốc thế 
Bảo hựu dân trung)

Tấm bia thứ hai cũng do hai giáp Trung và Cật xã Ô Lâm dựng vào năm ấy nhưng sau sáu tháng và có cùng tên, ghi công đức những người đã đóng góp công sửa chữa điện. Hai tấm bia này chỉ khắc hai mặt trước và sau. Còn tấm bia thứ ba thì khắc bốn mặt. Ba mặt ghi công đức. Mặt thứ tư có tên Tu lý Thái Vi điện bi ký ghi rõ là điện này dựng vào năm Bảo Phù nhà Trần, tức những năm 1273 - 1278 và sau đó được liên tục sửa chữa vào những năm Quang Hưng Kỷ Sửu (1598) và Bảo Đại Bính Dần (1926). Tấm bia này được khắc vào lần sửa chữa cuối vừa nói. 

Qua bài khắc vào năm Bảo Đại Bính Dần, ta biết điện Thái vi dựng nên vào những năm Bảo Phù. Điều này có nghĩa vua Trần Nhân Tông trước khi lên ngôi vào tháng 10 năm Bảo Phù Mậu Dần (1278) đã biết tới Vũ Lâm. Rồi sau đó, trong cuộc chiến tranh 1285, khi vua phải chỉ huy tập đoàn quân phía nam nhằm chặn đứng những cuộc tấn công của Thoát Hoan từ phía bắc xuống và của Toa Đô từ phía nam lên, có thể vua đã chọn đây làm tổng hành dinh của mình để thực hiện những cuộc họp khẩn cấp và chớp nhoáng, cùng với các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, v.vỢ quyết định các phương lược phòng thủ và phản công. Vũ Lâm do nằm trong vùng Hoa Lư, nên chắc hẳn đã có một địa hình chiến lược. Không những thế, cảnh vật ở đây có một vẻ đẹp hấp dẫn lạ kỳ, như vua đã biểu lộ trong một bài thơ về Vũ Lâm: 

Lòng khe vắt ngược bóng cầu hoa 
Hắt sáng ngoài khe vệt nắng tà 
Lặng lẻ nghìn non rơi lá đỏ 
Như mơ mây đẫm tiếng chuông xa 
(Họa kiều đảo ảnh trám khê hoành 
Nhất mạt tà dương thủy ngoại minh 
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc 
Thấp vân như mộng viễn chung thanh)

Tuệ Trung và Thượng hoàng 

Vũ Lâm có một vẻ đẹp như vậy, tới thời điểm ấy, vua Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây làm chốn xuất gia của mình. 

Lễ xuất gia như thế nào và ai đứng làm chủ lễ, ngày nay ta không được biết. Nhưng căn cứ Thánh đăng ngữ lục, Trần Nhân Tông đã “tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, sâu được cốt kỷ của thiền, nên thường lấy lễ thầy mà thờ”. 
Vậy, người truyền tâm ấn cho Thượng hoàng Nhân Tông không ai khác hơn là Tuệ Trung Thượng Sĩ, danh tướng đã giải phóng Thăng Long trong cuộc chiến vệ quốc năm 1285 và người đã đi điều đình với giặc ở căn cứ Vạn Kiếp, để cho quân ta có cơ hội tấn công chúng. 

Vua Trần Nhân Tông lúc còn trẻ đã có sự giáo dục đầy đủ về nhiều loại tri thức khác nhau của thời mình. Và xuất phát từ truyền thống gia đình, vua đã sớm tiếp xúc với giáo lý Phật giáo. Nhưng như chính một bài thơ sau này đã xác nhận, vua cảm thấy mình chưa thâm nhập giáo lý Phật giáo nhiều: 

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không 
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung 
Như kim kham phá đông hoàng diện 
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng 
(Tuổi trẻ sao từng hiểu sắc không 
Cả xuân hoa nở ngất ngây lòng 
Đến nay rõ được mặt xuân ấy 
Nệm cỏ giường thiền ngắm rụng hồng)

Khi Tuệ Trung Trần Quốc Tung mất, vua Trần Nhân Tông đã viết tiểu sử của vị thầy đồng thời cũng là ông bác của mình. Nhân lúc viết tiểu sử ấy, vua Trần Nhân Tông đã kể lại kinh nghiệm ngộ đạo của mình như sau: 

 “Trước đây khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó đi mời Thượng Sĩ. Người trao cho hai bộ Ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta thấy Thượng Sĩ sống rất thế tục, nên sinh ngờ vực, bèn giả bộ ngây thơ lén hỏi: 

‘Chúng sinh quen nghiệp uống rượu ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo’. Thượng Sĩ giải rõ: ‘Giả như có người đứng quay lưng lại, bỗng có nhà vua đi qua sau lưng, người kia bất ngờ ném một vật gì đó trúng vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như vậy phải biết hai việc không liên quan với nhau’. Bèn mới viết hai bài kệ để chứng tỏ: 

Vô thường các pháp hành 
Lòng nghi, tội liền sanh 
Xưa nay không một vật 
Chẳng giống cũng chẳng mầm

Lại nói: 

Ngày ngày khi đối cảnh 
Cảnh cảnh từ tâm ra 
Tâm cảnh xưa nay chẳng 
Chốn chốn đều ba la

Ta hiểu ý, chặp lâu mới nói: ‘Tuy là như thế, nhưng tội phước đã rõ thì làm sao’. Thượng Sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo: 

Ăn cỏ với ăn thịt 
Chúng sinh mỗi có thức 
Xuân đến trăm cỏ sinh 
Chỗ nào thấy họa phúc

Ta nói: ‘Chỉ như thế thì công phu giữ sạch phạm hạnh không chút xao nhãng để làm gì’. Thượng Sĩ chỉ cười mà không đáp. Ta lại thỉnh ích, Thượng Sĩ lại làm thành hai bài kệ, để ấn chứng cho ta: 

Trì giới với nhẫn nhục 
Chuốc tội chẳng chuốc phúc 
Muốn biết không tội phúc 
Chẳng trì giới nhẫn nhục

Lại nói: 

Như người lúc leo cây 
Đang yên tự tìm nguy 
Như người không leo nữa 
Trăng gió làm việc gì.

Lại kín đáo dặn ta: ‘Chớ bảo cho người không đáng’”. 

Quá trình học tập và chứng ngộ Phật giáo dưới sự hướng dẫn của Tuệ Trung Trần Quốc Tung do chính vua Trần Nhân Tông kể lại là như thế. Qua lời kể này, ta thấy hai tác phẩm thiền, mà Tuệ Trung đã giao cho vua đọc. Đó là Tuyết Đậu ngữ lục và Dã Hiên ngữ lục. Bộ ngữ lục của Dã Hiên ngày nay đã mất, và tên tuổi ông không thấy chép trong các tác phẩm thiền Trung Quốc. Chỉ có một bài thơ được ghi lại trong Thiền tông tụng cổ liên châu thông tập 21, tờ 128c5-6 (256a5-6). Do thế, Dã Hiên có khả năng sống vào khoảng những năm 900 -1050. Thiền sư Tuyết Đậu chính là Minh Giác Trùng Hiển (980-1052), sống tại núi Tuyết Đậu của Ninh Châu và là đệ tử của Trí Môn Quang Tộ thuộc dòng thiền Vân Môn ở Trung Quốc, và bộ ngữ lục của ông, tức Tuyết Đậu minh giác ngữ lục, rất phổ biến vào thời trước cũng như ngày nay. Thánh đăng ngữ lục ghi lại mấy lần việc giảng Tuyết Đậu ngữ lục tại các thiền đường Việt Nam sau thời vua Trần Nhân Tông. 

Cũng chính qua đoạn văn trên ta biết thời điểm chứng ngộ của vua, đó là vào mùa xuân năm Đinh Hợi (1287), khi cả nước đang rầm rộ chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để đối phó với cuộc xâm lược lần thứ ba của quân Nguyên và đó là lúc Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu mất, như ĐVSKTT 5 tờ 51b5 đã ghi. Nhân lúc mẹ mình mất, vua Trần Nhân Tông đã đến mời người anh của mẹ là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung đến dự tang. Vào dịp ấy, đã xảy ra cuộc đối thoại giữa hai người, mà ta vừa dẫn trên, và do chính vua Trần Nhân Tông ghi lại. Tuệ Trung đã ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông trong cuộc đối thoại đó. 

Cũng qua cuộc đối thoại ấy, ta thấy cơ sở tư tưởng của Trần Nhân Tông đã hình thành, mà sau này vua đã viết thành văn bản bằng tiếng Việt trong Cư trần lạc đạo phú, làm chỉ nam cho sự phát triển của Phật giáo ít lắm cũng kéo dài tới gần bốn trăm năm sau, tức từ khoảng 1300 cho đến 1695. Đây là một giai đoạn Phật giáo hoàn toàn thế tục, không có sự cách biệt giữa các giới tại gia và xuất gia. Họ sống hòa mình với nhau, thậm chí trong một con người, mà điển hình là Hương Chân Pháp Tính (1470-1550 ?), Thọ Tiên Diển Khánh (1550-1610 ?) và Minh Châu Hương Hải (1628-1715). Họ từng là những người đỗ đạt, gánh vác việc nước việc dân, rồi sau đó giống như vua Trần Nhân Tông, họ đã sống đời một vị xuất gia, như Pháp Tính đã diễn tả qua hai câu thơ của mình: 

Trẻ từng vả đứng khoa danh 
Già lên cõi thọ tìm duềnh Bụt tiên

Cơ sở tư tưởng phát biểu trong đoạn văn trên ta cần phải chú ý, khi đề cập đến nền Thiền học của trường phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông gầy dựng. Dù đã xuất gia vào tháng 7, tháng 8 năm ấy Thượng hoàng phải cầm quân đi đánh Ai Lao, như ĐVSKTT 6 tờ 3a1-3 đã chép: “Tháng 8 (năm Giáp Ngọ, 1294) Thượng hoàng thân chinh Ai Lao, bắt sống người và súc vật không kể xiết. Trong chiến dịch này, Trung Thành Vương (thiếu tên) làm tiên phong, bị Ai Lao vây, Phạm Ngũ Lão chợt đem quân ập đến, liền giải vây. nhân thế tung quân đón đánh. Giặc thua. 
Cho Ngũ Lão phù bằng vàng”. 

Tiếp phái bộ Lý Hành - Tiêu Thái Đăng 

Đến ngày mồng 1 tháng 2 năm sau, Thượng hoàng lại đứng ra tiếp phái bộ Lý Hành và Tiêu Thái Đăng do Nguyên Thành Tông lên ngôi gửi qua báo về việc bãi binh. Phái bộ này được gửi đi từ tháng 6 năm Chí Nguyên thứ 31 (1294), tức một tháng sau khi Thành Tông lên ngôi, và đến tháng 2 mới đến nước ta. Trong lời tiễn chân Lý Hành và Tiêu Thái Đăng, Trương Bá Thuần cho rằng đây là một chuyến đi khó khăn. Trương Bá Thuần viết: 

“Vì sao bảo là khó? Trước đây đem chỉ dụ đến nước ấy ai chẳng biết đem đại nghĩa vua tôi, cơ họa phúc lợi hại. Nước kia nếu đem lòng sợ ra để mà nghe thì lời nói dễ vào lỗ tai. Nếu nó không nghe thì cứ về báo lại vua, thế là ta đã xong việc ta, còn sử trí thế nào thì quốc gia đã có cách. Nay hai ông vượt mấy nghìn dặm, chỉ mang theo một bức thư, mà phải làm cho nước kia mở lòng tự đổi mới. Chứ nếu cứ vù vù ra đi, rồi vù vù trở về thì ai mà chẳng làm được, đâu cần đến bọn chúng ta. Huống nữa lòng người sau khi lo nhiều, bỗng thấy mình hết có lỗi, thì vui mừng khôn xiết. Nhưng mừng lại là mầm của khinh mạn. Ta nhân nỗi vui của chúng để khiến chúng bỏ lòng trì nghi không quyết để đi theo con đường mới”. 

Thế là khó khăn của phái bộ Lý Hành lần này là đằng sau những yêu sách của vua Nguyên không còn có một bạo lực để thi hành. Và do vì không có bạo lực này, chúng sợ bị Đại Việt khinh thường. Dẫu thế, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tiếp đãi chúng ân cần, và chắc đây là một trong những cuộc đón tiếp ngoại giao mà Thượng hoàng ưng ý nhất, vì đã thành công, đè bẹp được ý chí xâm lược của kẻ thù, như bài thơ tiễn phái bộ này của Thượng hoàng đãợ thể hiện: 

Phơi phới Linh Trì ấm tiễn đưa 
Người về khôn cách gió xuân ngừa 
Nào hay sao sứ hai ngôi phúc 
Sáng rọi trời Nam mấy tối mưa 
(Khảm khảm Linh Trì noãn tiễn diên 
Xuân phong vô kế trụ quy tiên 
Bất tri lưỡng điểm thiều tinh phúc 
Kỷ dạ quang mang chiếu Việt thiên)

Khi phái bộ này trở vềò Thượng hoàng đã sai nội viên ngoại lang Trần Khắc Dụng và Phạm Thảo mang thư qua xin Đại Tạng kinh. Lá thư này hiện được chép lại trong An Nam chí lược 6 tờ 80 và Thượng hoàng vẫn đứng tên trong lá thư này. Cũng theo An Nam chí lược thì sau khi nhận được lá thư xin Đại Tạng kinh này, triều đình theo lệnh Nguyên Thành Tổ đã cấp cho ta. Đây có lẽ là bộ Đại Tạng kinh mà sau này Trần Anh Tông đã cho chép tác phẩm Thạch thất mỡ ngữ của Thượng hoàng Trần Nhân Tông vào để lưu hành, như Thánh đăng ngữ lục đã ghi. 

Đến tháng 6 năm đó, ĐVSKTT 6 (1295) tờ 3a7-8 chép: “Thượng hoàng trở về kinh sư, xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, mà lại trở về vậy”. Việc vua Trần Nhân Tông xuất gia ở Vũ Lâm, như vậy phải từ tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), tức hơn một năm sau khi đã truyền ngôi cho con mình. Khâm định Việt sử thông giám cương mục 8 tờ 23a7 - b1 dưới mục “mùa hạ tháng 6 năm Ất Mùi (1295) Thượng hoàng về đến từ Ai Lao” đã viết: “Thượng hoàng từ Ai Lao về, xuất gia ở hành cung Vũ Lâm, bỗng chốc lại trở về kinh đô”. Thế thì đối với Quốc sử quán triều Nguyễn, đến mùa hè năm Ất Mùi, vua Trần Nhân Tông mới xuất gia. 

Tuy nhiên, về việc xuất gia ấy, ĐVSKTT 6 tờ 2b4-6 đã kể lại việc Thượng hoàng đi chơi Vũ Lâm vào mùa thu tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294) và đã quyết định xuất gia ở đó, nhân thế đã ghi lại việc yêu quý người con của thái sư Trần Quang Khải là Trần Đạo Tải: “Bấy giờ Thượng hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa núi đá hẹp, Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, thái hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền, chỉ cho một phu chèo thuyền mà thôi. Kịp đến khi Thượng hoàng xuất gia, khi Thượng hoàng sắp ra đi, bèn mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức của cung Thánh Từ, ban cho ngồi ăn đồ biển, làm thơ rằng: 

Chân rùa bóc đỏ mọng 
Yên ngựa nướng vàng thơm 
Sơn tăng giữ giới sạch 
Cùng ngồi chẳng cùng ăn 
(Hồng thấp bác quy cước 
Hoàng hương chá mã an 
Sơn tăng trì tịnh giời 
Đồng tọa bất đồng san)

Sự kiện và bài thơ này, Hồ Nguyên Trừng cũng có chép trong Nam Ông mộng lục. Căn cứ vào cách viết của hai tài liệu đây, rõ ràng bài thơ vùa nêu là của Trần Nhân Tông. Hơn nữa, căn cứ vào nội dung, nhất là câu ‘sơn tăng trì tịnh giới’, thì dứt khoát không thể là của Trần Đạo Tải viết. Trần Đạo Tải có một niềm kính trọng đặc biệt đối với Trần Nhân Tông và việc ông thấy vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia luôn đi bộ, đã thề suốt đời không bao giờ đi xe ngựa, thì không bao giờ Trần Đạo Tải dám gọi vua Trần Nhân Tông là ‘sơn tăng’ (ông sư núi). Chỉ vua Trần Nhân Tông mới tự gọi mình như thế, nhất là khi ta nhớ vua có một sự yêu thích đặc biệt đối với núi rừng, như nhiều bài thơ còn lại đã chứng tỏ. Thế mà ngày nay có một số người đã đem bài thơ này gán cho Trần Đạo Tải một cách sai lầm. 

Dù đã được ghi nhận là xuất gia ở Vũ Lâm sớm như thế, nhưng đối với Thánh Đăng ngữ lục, thì vua Trần Nhân Tông xuất gia vào “năm Kỷ Hợi Hưng Long thứ 7, tháng 10 bằng cách đi thẳng vào núi Yên Tử, siêng năng tu hành 12 hạnh đầu đà, tự gọi là Hương Vân Đại Đầu Đà, dựng Chi Đề tinh xá, mở pháp độ tăng, người học đến như mây”. 
Có khả năng từ tháng 6 năm Ất Mùi (1295) cho đến tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), Thượng hoàng đã thường ở Vũ Lâm, vì các tư liệu hiện có không ghi bất cứ một hoạt động nào về đạo cũng như đời của Thượng hoàng. Đây có thể là thời gian mà Thánh đăng ngữ lục ghi nhận là Thượng hoàng đang tu tập 12 hạnh đầu đà. Trong Vịnh Vân Yên tự phú trạng nguyên Lý Tải Đạo, lúc này đã trở thành thiền sư Huyền Quang và đang sống với Thượng hoàng ở Yên Tử, đã cho ta thấy cuộc sống hàng ngày của Hương Vân Đại Đầu Đà như thế nào: 

Mặc cà sa, nằm trướng giấy 
Màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương 
Quên ngọc thực, bỏ hương giao 
Cắp nạnh cà một vò tương một hũ.

Thật là một cuộc sống giản dị đến mức độ không ai ngờ tới của một vị anh hùng vừa mới chiến thắng oanh liệt kẻ thù và là một vị hoàng đế tài ba. Chỉ đến tháng 5 năm Kỷ Hợi, ĐVSKTT 6 tờ 6a1-b9 môữi ghi việc Thượng hoàng từ Thiên Trường về Thăng Long gặp vua Trần Anh Tông uống rượu say. Thượng hoàng đã đem tất cả triều đình về Thiên Trường. Đến khi tỉnh rượu, nhờ Đoàn Nhữ Hài thảo tờ biểu tạ tội, vua Trần Anh Tông đã cùng Nhữ Hài về Thiên Trường để ra mắt Thượng hoàng, rồi sau đó được tha thứ. Đến tháng 7 năm này, ĐVSKTT 6 tờ 7a6-7 ghi việc dựng am Ngự Dược ở núi Yên Tử. Và tiếp đó nó ghi: “Tháng 8 Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia, vào núi Yên Tử khổ hạnh”. Như thế đến tháng 8 Thượng hoàng lại xuất gia, chứ không phải là tháng 10 như Thánh đăng ngữ lục đã có. 

Khi xuất gia rồi Thượng hoàng đã làm gì, Thánh đăng ngữ lục chép: “Sau ở chùa Phổ Minh ý của phủ Thiên Trường, Thượng hoàng mời đến các danh tăng, mở lớn các trường giảng, trải mấy năm bèn vân du phương ngoại, đến trại Bố Chính, chọn am Tri Kiến để ở”. Thực tế, sau khi chép việc Thượng hoàng vào núi Yên Tử tu khổ hạnh, ĐVSKTT 6 tờ 7a7-8a2 kể tiếp việc vua Trần Anh Tông đến chầu cùng với Quốc Công Trần Quốc Tuấn tại cung Trùng Quang và tránh được việc xăm rồng vào đùi cùng việc vua vi hành bị ném đá và bị Thượng hoàng hỏi. Đến tháng 3 năm Tân Sửu (1301) Thượng hoàng đi chơi các địa phương xa đến Chiêm Thành. Đến tháng 11 năm ấy mới từ Chiêm Thành trở về. Rồi rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303) “Thượng hoàng ở phủ Thiên Trường mở pháp hội Vô Lượng ở chùa Phổ Minh bố thí vàng bạc tiền lụa để chẩn cấp cho người nghèo trong thiên hạ và giảng kinh thí giới”, như ĐVSKTT 6 tờ 17a9b2. 

Tất cả những tư liệu này cho thấy sau khi xuất gia lại một lần nữa tại Yên Tử, chắc Thượng hoàng ở đấy một thời gian. Đến tháng 3 năm Tân Sửu (1301), Thượng hoàng đi xuống phía Namvà ở tại am Tri Kiến của trại Bố Chính. 
Tri Kiến theo Ô Châu cận lục quyển 3 tờ 45a5 là nơi đóng cơ quan hành chính của trại Bố Chính: “Tri Kiến là nơi dựng của huyện xưa” (Tri Kiến cổ chi huyện kiến)1. Cho nên, am Tri Kiến chắc là ngôi chùa của lỡ sở Tri Kiến của Bố Chinh. Có thể nói đây là ngôi chùa đầu tiên được biết của vùng đất Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, mà Lý Thánh Tông đã sát nhập vào bản đồ Đại Việt vào năm 1069 và nay là đất tỉnh Quảng Bình và hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh của Quảng Trị. Vùng đất này chắc hẳn có nhiều chùa khác nữa, nhưng ngày nay ta không biết tên tuổi. Rồi từ trại Bố Chính, Thượng hoàng đã đi sang Chiêm Thành. 

Thượng hoàng đi Chiêm Thành 

Việc đi Chiêm Thành này theo Trần Chí Chính trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ có vẻ như là một cuộc vân du của một nhà truyền giáo và đã được vua Chiêm đón tiếp trong tư cách ấy. Trần Chí Chính viết: 
“Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước và đem đất hai Châu làm lễ cúng dâng cho ngài. Ấy là Thần Châu, Hóa Châu nay vậy”. 

Tuy nhiên căn cứ trên quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Chiêm Thành trong giai đoạn Thượng hoàng lãnh đạo đất nước Đại Việt, thí ta có thể chắc chắn vua Chiêm lúc ấy là Chế Mân đã nghe tiếng và có cảm tình khá đậm đà đối với Thượng hoàng. Ta đã thấy ở trên, khi cuộc chiến tranh Nguyên Chiêm xảy ra vào năm 1283 Thượng hoàng đã gửi chi viện cho nhà nước Chiêm 2 vạn quân và 500 chiến thuyền. Tất nhiên việc gửi quân này là nhằm lợi ích lâu dài của Đại Việt, nhưng trước mắt xương máu Đại Việt đã đổ ra một phần nào cho chiến thắng của quân dân Chiêm Thành. Chính ơn nghĩa này và những hành động xây đắp nền hòa bình hữu nghị Việt Chiêm khác đã tạo điều kiện cho vua Chiêm có một sự kính mến và hâm mộ đối với nhà lãnh đạo Đại Việt. 

Quả vậy, sau khi mở pháp hội Vô Lượng tại chùa Phổ Minh của phủ Thiên Trường và bố thí vàng bạc tiền lụa cho những người nghèo khổ vào rằm tháng giêng năm Quý Mão (1303), ĐVSKTT 6 tờ 17b7-18b4 đã kể lại việc Đoàn Nhữ Hài trước khi đi sứ Chiêm Thành đã đến bái yết Thượng hoàng ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh. Đợi suốt ngày mà vẫn không gặp được. Đến khi pháp giá của Thượng hoàng ngự ra chơi, Nhữ Hài đã đến bái yết và thưa chuyện với Thượng hoàng trên hai tiếng đồng hồ. Nói chuyện xong Thượng hoàng trở về khen với các quan tả hữu “Nhữ Hài thực là người giỏi, được quan gia sai khiến là phải”. Chi tiết này cho ta thấy ngay khi không còn trực tiếp điều khiển đất nước, Thượng hoàng vẫn có một quan tâm đặc biệt đối với Chiêm Thành. 

Những sự việc xảy ra sau đó có liên quan đến Chiêm Thành đều xuất phát từ chuyến vân du vừa kể. 

Tháng 3 năm Giáp Thìn (1304), ĐVSKTT 6 tờ 19b1 chép chuyện một nhà sư tu theo phương pháp du già (yoga) của Chiêm Thành đến nước ta. Nét đặc biệt của vị sư này là chỉ uống sữa bò. Rồi tháng 2 năm Ất Tỡ (1305) ĐVSKTT 6 tờ 20a3-6 chép việc “Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người đem biểu dâng vàng bạc, hương quý, vật lạ để xin định lễ cầu hôn. Triều thần cho là không được. Riêng Văn Túc Vương Đạo Tải chủ trương việc nghị bàn, và Trần Khắc Chung tán thành, nên việc bàn mới quyết”. 

Đến tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), ĐVSKTT 6 tờ 21a8b1 lại ghi việc “gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành Chế Mân. Nguyên trước Thượng hoàng vân du đến Chiêm Thành đã trót hứa rồi. Văn nhân trong triều ngoài nội phần lớn mượn việc vua Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô, làm lời thơ quốc ngữ để mà chê cười”. Đến mùa xuân tháng giêng năm sau, Đinh Mùi (1307) ĐVSKTT 6 tờ 22a7-b2 chép việc “đổi 2 châu Ô, Lý làm Thuận Châu và Hóa Châu, sai hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến ổn định dân chúng. Trước đó chúa Chiêm Thành là Chế Mân đem đất ấy làm vật dẫn cưới. Những người thôn La Thủy, Tác Hồng và Đà Bồng không chịụ. Vua sai Ngự Hài đến tuyên bố đức ý của triều đình, lựa chọn người bọn chúng bổ cho làm quan, đồng thời cấp ruộng đất miễn tô thuế 3 năm để vỗ về”. 

Năm Đinh Mùi tháng 5, Chế Mân chết. Tháng 9 con của Huyền Trân là Chế Đa Da sai sứ thần Bảo Lộc Kê đem voi trắng dâng và chắc là để yêu cầu triều đình Đại Việt đi rước công chúa Huyền Trân về, vì “tục nước Chiêm Thành, hễ vua chết thì Hoàng hậu phải vào đàn thiêu chết theo”. Thế là tháng 10 sai Trần Khắc Chung và Đặng Văn sang Chiêm Thành đón công chúa Huyền Trần và con là Đa Da về nước: “Bọn Khắc Chung sang, mượn cớ làm lễ viếng, rồi nói rằng: ‘Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương. Chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về sẽ vào đàn thiêu’. Người Chiêm nghe theo. Khắc Chung dùng thuyền nhẹ để cướp đi rồi đưa về. Bèn cùng Công chúa tư thông loanh quanh mãi ở đường biển, lâu ngày mới đến kinh sư” như ĐVSKTT 6 tờ 32a7-33a2 đã ghi. ĐVSKTT 6 tờ 33b3-4 nói: “Mùa thu ngày 18 tháng 8 năm Giáp Thân, (1308), công chúa Huyền Trân từ Chiêm Thành trở về. Thượng hoàng sai trại chủ Hoá Châu đưa 300 người Chiêm đi thuyền trở về nước họ”. Thế là gần một năm Trần Khắc Chung mới đưa được Công chúa Huyền Trân về Đại Việt. Và chưa đầy 3 tháng trước khi Thượng hoàng mất, công việc Chiêm Thành vẫn được Thượng hoàng theo dõi. Chúng ta ngày nay không biết trại chủ Hóa Châu lúc bấy giờ là ai và tại sao phải đưa 300 người Chiêm về nước của họ. Phải chăng họ là những người Chiêm đã đi cùng Công chúa ra biển làm lễ chiêu hồn? Dẫu sao, trước khi mất, Thượng hoàng đã gặp lại được người con gái thân yêu của mình tưởng phải mãi mãi xa cách để thực hiện một sứ mệnh có lợi cho đất nước muôn đời về sau. Đó là đưa hai châu Ô và Lý vào bản đồ Đại Việt, để sau này trở thành vùng đất Thuận Hóa nổi tiếng và từng là kinh đô của một nước Việt Nam thống nhất. 

Châu Ô chính là vùng đất Ô Mã của Chiêm Thành, mà Toa Đô trong đợt xâm lược năm 1283 đã báo cáo là vùng đất “nằm gần nước An Nam”, như Nguyên sử 209 tờ 9b đã ghi nhận. Còn châu Lý, tức vùng đất Việt Lý, mà bọn Toa Đô phải đi qua trước khi tiến công vào trại Bố Chính và đất Hoan Ái của ta và đã gây cho ta nhiều tổn thất. Chính vì cánh quân Toa Đô từ miền Nam kéo ra này đã gây nên diễn biến chính trị và quân sự phức tạp đến nỗi vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng đã phải chỉ huy cánh quân phía Nam của ta để đối phó lại với chúng và cuối cùng đã chiến thắng vang dội với việc chém đầu Toa Đô và bắt sống gần một vạn quân chúng tại trận Tây Kết lần thứ hai. 

Ô, Lý, do đó có một vị trí chiến lược xung yếu đối với nền an ninh của Đại Việt. Cho nên dưới cái nhìn chiến lược của một nhà quân sự thiên tài, ngay từ những năm chiến tranh, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã nghĩ tới việc nắm lấy hai châu này để đảm bảo cho sự sống còn của Đại Việt được an toàn. Chắc chắn xuất phát từ cái nhìn như thế, mà cả một loạt biện pháp đã được thực hiện, trong đó có cả việc gả công chúa Huyền Trân, người con gái duy nhất của Thượng hoàng cho vua Chiêm là Chế Mân. Việc sáp nhập hai châu Ô, Lý vào bản đồ Đại Việt đã diễn ra một cách hòa bình, rất khác với việc sáp nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính của Lý Thánh Tông hơn 200 năm trước đó. 

Lý Thánh Tông đã bắt Chế Củ dâng đất để chuộc mạng sống của mình. Còn vua Trần Nhân Tông thì không thế. Vua Chiêm có thêm một người vợ Việt, và người vợ này còn sinh hạ cho vua Chiêm một người con trai là Chế Đa Da. Sách lược ngoại giao hòa bình của vua Trần Nhân Tông đã đem lại những thành quả chính trị và an ninh quá to lớn thật không ngờ tới. Từ đây ta thấy dòng Nam tiến của người Việt ngày càng dồn dập như một cơn thủy triều đang cuồn cuộn dâng lên. Chưa đầy một trăm năm sau khi Ô Lý đã thành châu Thuận và châu Hoá, thì Hồ Quý Ly đã có thêm Thăng Hoa và Tư Nghĩa. Hơn nửa thế kỷ sau Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông đã cắm mốc trên núi Đá Bia ở Phú Yên. Việc lấy được Ô, Lý bằng con đường hòa bình như thế đã đặt nền móng cho việc mở rộng biên cương của tổ quốc. Đây phải nói là một trong những cống hiến vĩ đại của vua Trần Nhân Tông đối với dân tộc, mà muôn đời về sau con cháu vẫn còn ghi nhớ. 

Công việc Chiêm Thành cho đến những giờ phút cuối cùng của cuộc đời mình, Thượng hoàng vẫn có một quan tâm sâu sắc. Tuy thế, không phải vì công việc đó mà Thượng hoàng sao nhãng những công việc khác. Theo Thánh đăng ngữ lục thì vào năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng “đi khắp các xóm làng để giáo hóa và trừ bỏ các việc thờ cúng bậy, dạy cho họ thực hành 10 điều thiện”. Việc Thượng hoàng Trần Nhân Tông đem 10 điều thiện để dạy dân chúng rõ ràng phản ảnh quan điểm chính trị của Phật giáo Việt Nam mà trước đó hơn ngàn năm đã được ghi vào trong kinh Lục Độ tập. Bản kinh này có thể nói là một trong những bản kinh xưa nhất của Phật giáo nước ta hiện biết, đã tổng hợp nhuần nhuyễn và thành công tư tưởng Phật giáo và truyền thống dân tộc. Nó liên tục kêu gọi những người lãnh đạo chính trị phải dùng 10 điều thiện làm “pháp luật quốc gia” (quốc pháp), làm “chính sách quốc gia” (quốc chính). Và đây là lần đầu tiên ta thấy Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã thực hiện lời kêu gọi này. 

Cũng trong năm Giáp Thìn ấy, mùa đông “Anh Tông dâng biểu thỉnh Thượng hoàng về đại nội, xin thọ tại gia Bồ Tát tâm giới. Ngày Thượng hoàng vào thành, vương công bắt quan chuẩn bị đầy đủ lễ nghi đón rước. Vương công bắt quan đều cùng thọ giới”. Thế là cả một triều đình Đại Việt đã cố gắng sống theo lời dạy của đức Phật. Việc thọ tại gia Bồ Tát tâm giới thể hiện rất rõ cơ sở tư tưởng Cư trần lạc đạo mà Thượng hoàng đã tiếp nhận trực tiếp từ thân phụ mình là Vô Nhị Thượng Nhân Trần Thánh Tông và vị thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung. 

Và có thể ngay cả trước khi vua Anh Tông mời Thượng hoàng thực hiện các buổi lễ này, triều đình Đại Việt là một triều đình Phật giáo và người dân Đại Việt là những Phật tử. Trong chuyến đi sứ năm 1293, khi về nước, Trần Phu đã viết bài phú An Nam tức sự, ợchép trong Trần Cương Trung thi tập 2 tờ 24a3-37b2, đã cho ta biết triều đình nhà Trần “tuy có đền miếu, nhưng không có lễ cúng kỡ hàng năm, chỉ có cúng Phật là rất kính thành”, còn “dân hết thảy đều là thầy tu” (dân tất tăng). Và ngay cả Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Trần Phu cũng không quên ghi nhận Hưng Đạo Vương “rất chuộng Phật, nên đặt tên châu là Vạn Kiếp”. Và Thiếu bảo Đinh Củng Viên trong thơ tiễn Trần Phu, cũng đưa tư tưởng Phật giáo vào. Bài thơ này chép trong Trần Cương Trung thi tập 2 tờ 27b3-6, và chưa được các sách vở nước ta từ những thi tập xưa nhất như Việt âm thi tập, Trích diễn thi tập, Toàn Việt thi lục cho đến các sưu tập thơ văn Lý - Trần ngày nay ghi lại. Cho nên chúng tôi cho công bố ra đây để làm tư liệu, nhằm bổ sung cho di sản văn học Lý-Trần nói chung và thơ văn của Đinh Củng Viên nói riêng: 

Sứ tinh phi hạ ủng tường yên 
Bất đạn kỳ khu lộ cửu thiên 
Song tụ phất khai nam hải chướng 
Nhất thanh hát phá hạ thừa thiền. 
Diệu linh thủ xuất Chung Quân thượng 
Anh luận cao cư Lục Giả tiền 
Qui đáo triều đoan tu vị thuyết 
Viễn manh nhật dạ chúc Nghiêu niên. 
(Sao sứ bay qua bám khói lành, 
Chín trời đường khó chẳng ngại lên, 
Miền nam chướng khí vung tay mở, 
Cấp thấp đạo thiền hét tiếng rền. 
Tuổi trẻ Chung Quân hơn một bước, 
Bàn hay Lục Giả đứng bề trên, 
Triều đình về tới nên tâu báo, 
Vua thọ, dân xa chúc những đêm)

Buổi lễ trao tâm giới Bồ Tát tại gia cho vua và triều đình vào mùa đông năm Giáp Thìn (1304) ấy xong, Thánh đăng ngữ lục viết tiếp: “Sau đó vua trác tích ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh, xiển dương tôn giáo”. Tất nhiên, không phải đến cuối năm Giáp Thìn Thượng hoàng mới tới trác tích tại chùa Sùng Nghiêm, bởi vì ĐVSKTT 6 tờ 17b8-9 đã ghi nhận là Thượng hoàng đã ở ngôi chùa này từ năm Tân Mão (1303) và Đoàn Nhữ Hài trước khi đi sứ Chiêm Thành đã đến đó gặp Thượng hoàng để xin ý kiến. Có lẽ Thánh đăng ngữ lục ghi sự có mặt của Thượng hoàng tại chùa Sùng Nghiêm vào cuối năm Giáp Thìn ấy là nhằm nhấn mạnh đến việc “xiển dương tôn giáo” mà Thượng hoàng thực hiện vào thời điểm ấy. 

Quả vậy, sau khi chép thế rồi, Thánh đăng ngữ lục đã dành hơn 6 tờ nữa để ghi lại bài giảng của Thượng hoàng tại chùa Sùng Nghiêm: “Lúc đầu khai đường, Thượng hoàng lên tòa giảng, niêm hương báo ân xong, bèn đến tòa giảng. Thượng thủ đánh bảng.v.v. xin mời Điều Ngự. Bèn nói: ‘Đức Thích Ca Văn Phật vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm, nhúc nhích đôi mép môi, mà chưa từng nói một chữ. Ta nay vì các người mà lên tòa giảng này, thì nói cái gì?’ Rồi Thượng hoàng ngồi xuống giường thiền, một chốc, bèn nói: 

Đỗ quyên rền rỉ, trăng ngày sáng 
Đừng để tầm thường xuân luống qua

Lại đánh xuống một cái: ‘Chẳng có gì cả, hãy đi ra đi, đi ra đi’”. 

Ở đây chúng tôi chỉ trích một đoạn để cho thấy một phần nào quy trình và nội dung của buổi giảng đã bắt đầu như thế nào và tiến hành ra sao? Ta có thể chắc chắn, mỗi lần bắt đầu buổi giảng, mà từ chuyên môn ở đây gọi là khai đường, thì hẳn đã có giấy bố cáo để cho mọi người biết để đến nghe. Khi mọi người đã có mặt, vị giảng sư sẽ đi lên giảng tòa, làm lễ niêm hương cám ơn chư Phật chư Tổ, rồi đi đến tòa giảng. Tại đây người đứng tổ chức và điều khiển buổi giảng, mà Thánh đăng ngữ lục gọi là thượng thủ, sẽ đánh một hồi vào bảng gỗ báo hiệu buổi giảng bắt đầu, rồi mời vị giảng sư khai mạc buổi giảng. 

Đúng theo tinh thần của truyền thống thiền tông, lời khai mạc của Thượng hoàng Trần Nhân Tông tại buổi giảng cuối đông năm Giáp Thìn (1304) đã khởi đầu bằng cách nhắc tới việc đức Thế Tôn trong 49 năm thuyết pháp chưa từng nói một lời. Sau đó Thượng hoàng đã liên hệ tới buổi giảng của mình, chỉ ra rằng đức Thế Tôn còn không nói một lời như thế thì tôi đây có gì để nói ra. Xong lời khai mạc, bấy giờ Thượng hoàng mới ngồi xuống giường thiền, giáo đầu cuộc nói chuyện qua việc dặn dò mọi người đừng để thời gian luống qua, đúng theo tinh thần mà Đức Thế Tôn đã giáo huấn trong giờ phút lâm chung của Ngài: “Mọi vật là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có buông lung” (Vayadhammà samkhàrà appamàdena sampàdethâti). 

Sau đó, buổi giảng trở thành cuộc đối thoại thiền giữa một vị thiền sư và các thiền sinh. Đây phải nói là một nét đặc biệt của việc diễn giảng của Phật giáo Việt Nam ngày xưa. Những câu hỏi được thiền sinh nêu lên. Vị thầy sẽ tùy theo câu hỏi mà trả lời. Có thể nói đây là buổi giảng đầu tiên trong lịch sử đã được ghi chép lại đầy đủ, cung cấp cho ta một điển hình về sinh hoạt diễn giảng Phật giáo Việt Nam của thế kỷ thứ 13, nếu không là của các thế kỷ trước đó. Nghiên cứu điển hình này giúp cho ta có một nhận thức khá chính xác và cụ thể về sinh hoạt diễn giảng vừa nói. 
Trong buổi giảng vào cuối năm Giáp Thìn nói trên, ta thấy có ít nhất ba thiền sinh đứng lên hỏi. Và sau đây là cuộc đối thoại của thiền sinh thứ nhất với Thượng hoàng: 

Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?”. 
Đáp: “Hiểu theo như trước là chẳng phải”. 
Lại tiến lên hỏi: “Thế nào là Pháp?”. 
Đáp: “Hiểu theo lối trước là chẳng phải”. 
Lại đứng lên hỏi: “Rốt ráo là thế nào?”. 
Đáp: 
Tám chữ mở toang trăng trối hết 
Chẳng còn gì nữa để trình ông. 
Lại đứng lên hỏi: “Thế nào là Tăng?”. 
Đáp: “Hiểu theo lối trước lại chẳng phải”. 
Lại đứng lên hỏi: “Rốt ráo là như sao?”. 
Đáp: 
Tám chữ mở toang trăng trối hết 
Chẳng còn gì nữa để trình ông. 
Lại đứng lên hỏi: 
“Thế nào là một việc hướng thượng?”. 
Đáp: “Đứng đầu gậy khêu trời trăng”. 
Lại đứng lên hỏi: “Dùng công án cũ để làm gì?”. 
Đáp: “Mỗi lần nêu ra mỗi lần mới”. 
Lại đứng lên hỏi: 
“Thế nào là giáo ngoại biệt truyền?” 
Đáp: “Ễnh ương nhảy không ra khỏi đấu”. 
Lại đứng lên hỏi: 
“Hiện ra rồi chìm mất là thế nào?”. 
Đáp: “Còn tùy dài ngắn bước cát bùn”. 
Tiến lên hỏi: “Thế còn nhảy không ra”. 
Điều Ngự bèn lên tiếng: “Tên mù kia thấy cái gì?” 
Bèn đứng lên nói: “Đại tôn đức lừa người để làm gì?” 
Điều Ngự bèn thở dài. Vị tăng ngẫm nghĩ. Điều Ngự liền đánh. Vị tăng lại định đi ra hỏi. Điều Ngự liền hét. Vị tăng cũng hét. 
Điều Ngự nói: “Lão tăng bị ông hét một tiếng, hét hai tiếng rốt ráo để làm gì? Nói mau, nói mau”. 
Vị tăng ngẫm nghĩ. Điều Ngự lại hét một tiếng, nói: “Con dã hồ tinh kia vừa đến láu lỉnh, nay ở chỗ nào rồi?”. 
Vị tăng vái rút lui”. 

Chúng tôi cho dịch trọn vẹn cuộc đối thoại giữa thiền sinh thứ nhất với Thượng hoàng, để cho thấy phong cách và nội dung của buổi giảng vào cuối đông năm Giáp Thìn (1304) tại chùa Sùng Nghiêm. Nội dung bao gồm những vấn đề về Phật pháp tăng, về việc hướng thượng, về giáo ngoại biệt truyền. Và đúng theo phong cách của thiền tông những câu trả lời có vẻ không ăn nhập gì và chỉ có thể hiểu được đối với người trong cuộc. Ngôn ngữ thiền có những nét đặt trưng của nó, đòi hỏi người lĩnh hội phải có một trình độ, một quyết tâm tìm hiểu vấn đề như thế nào đó. Nó có cấu trúc rất khác với ngôn ngữ thường ngày, dù vẫn dùng chung một bộ từ vựng, mà khi nói lên, ta tưởng ai cũng có thể lĩnh hội dễ dàng. Điều này ta có thể thấy ngay khi đọc đoạn đối thoại vừa trích. 

Dạng đối thoại thiền này, căn cứ vào Thiền uyển tập anh, thì đã xuất hiện từ thời Pháp Hiền (?- 626) và đặc biệt thịnh hành vào thời Viên Chiếu (999-1090), khi Viên Chiếu viết Tham đồ hiển quyết và hầu như được bảo lưu trọn vẹn cho tới ngày nay. Tham đồ hiển quyết có nhiệm vụ làm rõ những công án nhằm để dạy cho những người tham thiền hiểu được ý nghĩa của chúng. Chẳng hạn, Thiền uyển tập anh ghi lại một trong những câu đầu tiên của Tham đồ hiển quyết như thế này: 
“Có vị tăng hỏi: 
-Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào? 

Sư đáp: 
Cúc trùng dương dưới giậu 
Oanh thục khí đầu cành” 

Ta có thể hiểu quan hệ giữa Phật và Nho giáo giống như hoa cúc nở vào tháng 9, oanh hót vào đầu mùa xuân. Điều này có nghĩa Phật giáo và Nho giáo có những nhiệm vụ khác nhau, tùy vào những điều kiện cụ thể, mà chúng có thể ứng dụng cho phù hợp. 

Ngôn ngữ thiền như thế có những cấu trúc về ngữ nghĩa, mà chỉ người trong cuộc mới nhận ra và nắm bắt được. Có người giải thích cấu trúc ngữ nghĩa ấy có mục đích đánh thức, khơi dậy tiềm năng giác ngộ nằm sẵn đâu đó trong mỗi con người. Tuy nhiên, ngôn ngữ thiền không chỉ giới hạn trong cấu trúc ngữ nghĩa hay ngữ pháp. Thực tế, nó vượt ra ngoài ngôn ngữ lời nói và bao gồm cả những động tác thân thể khác như cái nhìn, tiếng hét, tay đánh v.vỢ tức là ngôn ngữ cơ thể. Trong đoạn đối thoại trên, ta thấy xuất hiện cả ngôn ngữ cơ thể vừa nói. Thượng hoàng đã hét và đánh vị thiền sinh. Kết quả của buổi giảng, bao nhiêu người đã hiểu được Phật giáo, bao nhiêu người đã giác ngộ sự thật, ta ngày nay không biết. Nhưng chắc chắn họ đã có một sự nhận thức thế nào đó về Phật giáo. 

Có người sẽ đặt vấn đề lối diễn giảng này chịu ảnh hưởng lối diễn giảng thiền Trung Quốc hay không? Tất nhiên, thiền như một tư trào văn hóa trong quá trình phát triển của mình chắc chắn đã tiếp thu nhiều yếu tố khác nhau. 

Cho nên, ngay trong lịch sử thiền tông Trung Quốc, ta đã thấy có nhiều biến đổi qua các thời đại. Thí dụ, chỉ cần đọc các cuộc đối thoại của Huệ Năng và Nghĩa Huyền trong Cảnh đức truyền đăng lục thì ta có thể thấy ngay. Đọc tiểu sử của Huệ Năng, ta thấy câu hỏi và trả lời thật dễ hiểu. Hỏi cái gì thì trả lời cái đó. Nhưng qua đến Nghĩa Huyền, sự việc hoàn toàn khác. Ở đây đã xuất hiện đánh hét trong ngôn ngữ thiền. 

Tại nước ta, thiền đã phát triển theo một hướng hoàn toàn khác. Nó đã ra đời nhằm giải quyết một vấn đề tư tưởng. 

Đó là tại sao tu mà không thấy Phật? Một vấn đề người Việt Nam đã nêu lên vào giữa thế kỷ thứ 5 sau dương lịch. 

1 Thiền ra đời nhằm trả lời câu hỏi ấy. Và để trả lời, nó đã đưa một quan niệm mới về Phật. Phật không phải chỉ là một đức Phật lịch sử, càng không phải là một đức Phật nằm bên ngoài ta. Phật nằm ngay chính trong ta. Vì thế, tu là thể hiện đức Phật này, là tìm thấy ở trong chính mình. Xuất phát từ một khởi điểm như vậy, thiền Việt Nam trong quá trình phát triển tất phải chịu tác động của yêu cầu thực tế Việt Nam. Nếu trong quá trình phát triển ấy, ở nơi này nơi khác có những nét tương đồng với những truyền thống thiền khác, thì chúng cũng chỉ thể hiện tính phổ quát, tính nhân loại mà thôi. 

Buổi giảng thiền tại chùa Sùng Nghiêm vào cuối năm Giáp Thìn trên ít nhiều cho ta thấy sinh hoạt Phật giáo của dân tộc ta nói chung, đồng thời cũng cho thấy hoạt động Phật giáo của cá nhân Thượng hoàng Trần Nhân Tông. 
Tam tổ thực lục do Tính Quảng và Ngô Thời Nhiệm tập hợp các tư liệu đời Trần để viết nên, đã ghi lại cho ta một buổi giảng khác có sự tham dự của Thượng hoàng Trần Nhân Tông. Đó là buổi giảng tại viện Kỳ Lân vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306). Tam tổ thực lục đã ghi lại buổi giảng này như sau: 
“Ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ, Trúc Lâm đại tôn giả đến viện Kỳ Lân khai đường, bèn chỉ pháp tòa nói: ‘Tòa này là giường mây khúc lục, là tòa báu kim nghê. Ngồi đây đoán định lời lẽ Phật tổ thì thật rất chật hẹp’. Bèn niêm hương: 

Một nén hương này, khói lành thơm phức, khi tốt bay lên, ngưng đọng năm phần pháp thân, biến khắp mười phương lễ diệu. Sức nóng lò hương dâng lên mười phương ban phúc, chín miếu ứng thiêng, tuổi vua lâu bền, ngôi trời vững chãi. 

Một nén hương này, trong sạch rễ mầm, hiếm lạ giống tính, không mượn sức bón vun, chỉ nhờ thấm thấy biết. Sức nóng lò hương vâng xin mưa thuận gió hòa, nước thái dân yên, trời Phật thêm sáng, xe pháp thường quay. 
Một nén hương này, nướng cũng không chín, đốt cũng không cháy, gõ vào không mở, kéo lại không đến, ngó trộm thì con ngươi khô kiệt, ngửi thử thì cửa não toác đôi. Sức nóng lò hương dâng lên Vô Nhị thượng nhân, Tuệ Trung đại sĩ, mưa pháp ơn nhuàôn, cháu con đều gội. 

Thượng hoàng đến tòa giảng, khi lên tòa giảng, thượng thủ đánh bảng, xin mời. Sư nói: ‘Đại chúng, nếu nhắm vào chân lý thứ nhất mà nói, động niệm tức sai, mở miệng là bậy, thì làm sao hiểu chân lý, làm sao hiểu quán tưởng ? 
Hôm nay, hãy căn cứ vào chân lý thứ hai mà nói, thế có được không nào ?’ 

Rồi Sư ngoảnh nhìn tả hữu. nói: ‘Ở đây chẳng có người nào có đủ được con mắt to lớn hay sao. Nếu có, hai đóa lông mày không mất một mảy may. Nếu không, bần đạo không khỏi cái miệng lầm rầm, đưa ra những lời thừa rách nát sáo mòn. Nhưng vì các người, xin lấy ra một phần hổ lốn. Hãy lắng nghe, lắng nghe. 

Này xem, đạo lớn trống rỗng, đâu buộc đâu ràng, bản tính sáng trong, chẳng lành chẳng dữ. Bởi do chọn lựa, lắm ngả sinh ngang, một nháy thoáng mờ, dễ thành trời vực. Thánh phàm cùng chung một lối, phải trái há được phân ranh. Nên biết tổn phước vốn không, nhân qủa rốt ráo chẳng thật. Người người vốn đủ, ai nấy tròn đầy. Phật tính, pháp thân như hình với bóng, tùy ẩn tùy hiện, chẳng dính chẳng rời. Lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu? 

Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy. Ba ngàn pháp môn cùng về tấc dạ. Hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm. Cái gọi là giới môn, định môn, tuệ môn, các người không thiếu. Nên trở về mà tự nghĩ suy. Phàm những tiếng ho hắng, mày dương mắt nháy, tay cầm chân bước, đó là tính gì? Biết được tính đó là tâm gì, tâm tính rõ thông, thì cái gì đúng, cái gì là không đúng. 

Pháp tức là tính, Phật tức là tâm. Tính nào chẳng phải là pháp? Tính nào chẳng phải là Phật. Tức tâm tức Phật, tức tâm tức pháp, pháp vốn chẳng pháp. Tức pháp tức tâm, tâm vốn chẳng tâm, tức tâm tức Phật. 

Này các người, thời gian dễ trôi qua, mạng người không dừng lại. Cớ sao ăn cháo ăn chay, mà không rõ việc cái bát cái tô chiếc thìa đôi đũa để tìm hiểu?” 

Chúng tôi cho dịch lại đây toàn văn đoạn mở đầu của buổi giảng tại viện Kỳ Lân của Thượng hoàng, để bổ sung cho những gì còn thiếu sót, mà Thánh đăng ngữ lục đã ghi chép về buổi giảng ở chùa Sùng Nghiêm. Ta đã thấy Thánh đăng ngữ lục chỉ ghi Thượng hoàng “khai đường, lên tòa giảng, niêm hương báo ân xong, bèn đến tòa giảng, thường thủ gõ bảng thưa...” Nhưng niêm hương báo ân thế nào, Thánh đăng ngữ lục không ghi rõ. Bây giờ với đoạn văn trên, ta biết nghi thức niêm hương có nội dung gì và đã được thực hiện ra sao. 

Ngoài ra, chúng tôi cho trích cả đoạn văn trên còn có mục đích khác. Đó là nhằm cho thấy lời giáo đầu tại buổi giảng ở viện Kỳ Lân này có nội dung hoàn toàn thống nhất với lời giáo đầu của buổi giảng ở chùa Sùng Nghiêm. Lời giáo đầu ở viện Kỳ Lân, tuy dài và từ vựng có khác, song ý chính vẫn nhắc tới việc chân lý không thể dùng ngôn từ để diễn đạt và kêu gọi mọi người hãy cố gắng tinh tấn tu tập, đừng để cuộc đời mình trôi qua vô ích. Sự thống nhất về nội dung này giúp ta xác định ai là người đứng ra thực hiện buổi giảng tại viện Kỳ Lân. Người ấy không ai khác hơn là Thượng hoàng Trần Nhân Tông. 

Hơn nữa, nếu phân tích nội dung buổi giảng, thì nó cùng một chủ đề và phong cách, thậm chí có những câu hoàn toàn đồng nhất với môn tử. Chỉ cần trích một đoạn ngắn sau đây ta có thể thấy ngay: 

“Bấy giờ có vị tăng bước ra nói: 
‘Ăn cơm mặc áo, tầm thường việc 
Sao phải quan tâm để phát ngờ’ 

Bèn lạy xuống, rồi đứng lên hỏi: ‘Cõi thiền vô dục thì không hỏi. Cõi dục không thiền, xin nói cho một câu.’ 
Sư đưa tay chỉ vào khoảng không. 
Lại đứng lên hỏi: ‘Dùng đờm dãi người xưa để làm gì?’. 
Sư nói: ’Mỗi lần nêu ra, một lần mới’. 
Lại đứng lên hỏi: ‘Người xưa đều nói như thế nào là Phật, như thế nào là pháp, như thế nào là tăng. 
Chỉ như thế 
nào ấy thì việc thế nào?’ 

Sư đáp: ‘Như thế nào. Việc như thế nào’. 
Lại đứng lên nói: 
 ‘Không dây đàn gảy tri âm ít 

Cha đánh con nghe, cách điệu cao’”. 

Đoạn trích này trong Tam tổ thực lục, tới đây thì được ghi hai chữ “vân vân”. Điều này có nghĩa buổi giảng đang còn tiếp tục nữa, nhưng người trích đoạn vừa nêu đã không chịu chép lại toàn bộ. Dẫu thế, một lần nữa, đọc đoạn vừa trích ta thấy văn cú và ý tứ có nhiều điểm thống nhất với những gì đã giảng vào cuối đông năm Giáp Thìn ở chùa Sùng Nghiêm. Và đây là một nét đặc biệt trong lối diễn giảng của Thượng hoàng Trần Nhân Tông. 

Những ngày cuối đời 

Ngày mồng một tết năm Mậu Thân (1308) Thượng hoàng về ở tại chùa Báo Ân, huyện Siêu Loại, cho gọi Pháp Loa đến trụ trì chùa, mở trường giảng và làm người nối dõi mình trong dòng thiền Trúc Lâm. Tới tháng tư, Thượng hoàng về kiết hạ tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Lạng Giang. Lần này, Thượng hoàng lại gọi Pháp Loa đến giao nhiệm vụ trụ trì chùa Báo Ân và mở trường giảng. Trong ba tháng an cư ở đây, Thượng hoàng đã giảng Cảnh Đức truyền đăng lục, còn quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho đại chúng. An cư xong, Thượng hoàng vào núi Yên Tử và cho các hoạn quan và Tam bảo nô trở về nhà. Chỉ giữ lại mười người hầu thường cho đi theo. Rồi bèn trở lên am Tử Tiêu, giảng Truyền đăng lục cho Pháp Loa. Những người hầu dần dần xuống núi gần hết. Chỉ có thượng túc đệ tử Bảo Sát ở lại hầu bên cạnh. 

Từ lúc đó trở đi, Thượng hoàng đã đi khắp hang núi và thường sống ở trong nhà đá. Bảo Sát thấy thế, thưa với Thượng hoàng, “Tôn đức tuổi tác đã cao mà cứ xông pha sương tuyết, thì mạng mạch của Phật pháp sẽ thế nào?”. 
Thượng hoàng đã trả lời: “Thời ta đã đến, ta muốn làm kế trường vãng”. Ngày mồng 5 tháng 10, gia đồng của công chúa Thiên Thụy lên núi tâu: “Thiên Thụy đau nặng, xin gặp tôn đức để chết”. Thượng hoàng bùi ngùi nói: “Thời tiết đã đến rồi”. Rồi xách gậy xuống núi, chỉ đem theo một người hầu. Đi mười ngày mới tới Thăng Long. Đó là hôm rằm tháng mười. Sau khi dặn dò chị mình xong, bèn trở về núi. Ngủ đêm tại chùa Báo Ân của Siêu Loại. Sáng tinh mơ hôm sau. bèn lại ra đi. Đến chùa thôn hương Cổ Châu, Thượng hoàng tự đề lên vách chùa bài kệ: 

Số đời hơi thở lặng 
Tình người đôi biển ngân 
Cung ma chật hẹp lắm 
Nước Phật khôn xiết xuân 

Ngày 17, Thượng hoàng ngủ đêm lại ở chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh. Thái hậu Tuyên Từ mời đến am Bình Dương đãi chay. Thượng hoàng vui vẻ nói: “Đây là bữa cơm cúng dường cuối cùng”. Rồi nhận lời. Ngày 18, Thượng hoàng lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở núi Kỳ Đặc của vùng Yên Sinh, thì thấy nhức đầu. Bèn gọi hai tỳ kheo Tử Doanh và Hoàn Trung bảo: “Ta muốn lên núi Ngọa Vân mà sức chân đi không nổi, biết làm sao bây giờ”. Hai vị tỳ kheo nói: 

“Hai đệ tử có thể giúp vậy”. Vừa đến núi Ngọa Vân, Thượng hoàng cám ơn hai vị tỳ kheo và bảo: 

 “Xuống núi gắng tu hành, chớ cho sống chết là chuyện chơi”. Ngày 19, sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu núi Yên Tử gọi Bảo Sát về gấp. Ngày 20, Bảo Sát ra đi, đến suối Doanh, thấy một dải mây đen từ núi Ngọa Vân qua tới Lỗi Sơn, rồi phủ xuống suối Doanh. Nước lớn dâng lên mấy trượng, chốc lát lại hạ xuống, thì thấy hai đầu rồng lớn như con ngựa đang cất cao hơn một trượng, đôi mắt sáng như sao, giây lát rồi biến mất. Đêm ấy Bảo Sát ngủ qua đêm tại Sơn điếm, lại nằm mơ thấy chuyện không lành. 

Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngọa Vân. Thượng hoàng thấy đến, mỉm cười nói: “Ta sắp đi rồi, ngươi sao đến muộn thế. Trong Phật pháp, ngươi có điểm nào chưa rõ, mau đem ra đây”. Bảo Sát đứng lên hỏi: “Khi Mã đại sư không khỏe, viện chủ hỏi: ‘Gần đây Tôn đức thế nào?’ Mã nói: ‘Ngày gặp Phật, tháng gặp Phật’, ý chỉ thế nào?”. 
Thượng hoàng nói lớn: “Năm đế ba vua là vật gì?”. Sát lại đứng bên hỏi: 

“Chỉ như 
Hoa phơi phới chừ gấm phới phơi 
Trúc đất Nam chừ cây đất Bắc 
thì làm sao”. 
Thượng hoàng nói: “Mắt ngươi mù rồi chăng”. Sát thôi không hỏi nữa. Từ đó bốn ngày trời đất tối tăm, gió lốc thổi mạnh, mưa tuyết phủ cây, khỉ vượn đi quanh am khóc la. Chim rừng buồn bã hót. 

Ngày mồng một tháng 11, vào lúc nửa đêm, sao mai sáng rực, Thượng hoàng hỏi: “Lúc này mấy giờ rồi”. Bảo Sát trả lời: “Giờ Tý”. Thượng hoàng dùng tay mở cánh cửa sổ ra nhìn rồi nói: “Đây là giờ ta đi”. Bảo Sát hỏi: “Tôn đức đi đâu?”. Thượng hoàng nói: 

Tất cả pháp không sinh 
Tất cả pháp không diệt 
Nếu hay hiểu như vậy 
Chư Phật thường hiện tiền 
Sao có chuyện đến đi 

Bảo Sát đứng lên hỏi: “Nếu không sanh không diệt thì thế nào?” Thượng hoàng bỗng nhiên lấy tay che miệng nói:
“Đừng nói mớ”. Nói xong Thượng hoàng nằm theo thế sư tử, rồi lặng lẽ ra đi. Đến đêm ngày mồng 2, Bảo Sát theo di chúc đem hỏa táng ở tại am Thượng hoàng ở. Hương thơm bay ngào ngạt, nhạc trời vang dội cả hư không. Có mây ngũ sắc phủ lên giàn lửa. Đến ngày mồng 4, tôn giả Phổ Tuệ mới từ núi Yên Tử lật đật mà đi đến. Đem nước thơm tưới giàn lửa. Làm lễ thu ngọc cốt, lại lượm được xá lợi ngũ sắc, loại lớn hơn năm trăm viên, loại nhỏ như hạt thóc, hạt cải thì không thể kể xiết. 

Bấy giờ hoàng đế Anh Tông và quốc phụ thượng tể đem triều đình cùng thuyền ngự đến vái lạy từ chân núi, khóc lóc vang động đất trời. Sau đó bèn rước ngọc cốt và xá lợi xuống thuyền ngự đưa về kinh đô Thăng Long. triều đình và dân dã buồn thương khóc lóc vang động cả đất trời, dâng tôn hiệu Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Huệ Giác Hoàn Điều Ngự Tổ Phật, rồi đem ngọc cốt vào trong khám báu, phân chia xá lợi làm hai phần. Mỗi phần đều đựng trong hộp vàng bảy báu. Việc chay xong rước ngọc cốt nhập vào đức lăng, miếu hiệu là Nhân Tông. Lấy một phần xá lợi đưa vào bảo tháp đặt ở đức lăng của Long Hưng. Còn một phần thì gói đưa vào tháp vàng đặt ở chùa Vân Yên núi Yên Tử. 

Những ngày cuối cùng của Thượng hoàng Trần Nhân Tông là như thế theo Thánh Đăng ngữ lục. ĐVSKTT 6 tờ 23b4-24a4 chép ngắn gọn hơn và khác đi đôi chút: “Ngày mồng 3(tháng 11) Thượng hoàng băng ở am Ngọa Vân ở núi Yên Tử. Bấy giờ Thượng hoàng xuất gia ở ngọn Tử Tiêu của núi Yên Tử, tự gọi là Trúc Lâm đại sĩ. Chị Thượng hoàng là Thiên Thụy đau nặng, bèn xuống núi đi đến thăm bảo: ‘Chị nếu thời tới thì tự đi, gặp cõi âm có hỏi việc gì thì cứ trả lời: ‘Xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ đến’. Nói xong Thượng hoàng trở về núi, dặn dò thị giả Pháp Loa về hậu sự rồi lặng lẽ ngồi mà mất. 

Thiên Thụy cũng mất vào ngày hôm ấy. Pháp Loa thiêu được xá lợi hơn 3000 hạt, vâng đem tới chùa Tư Phúc của kinh sư. Vua nghi ngờ, còn quần thần thì phần lớn xin hỏi tội Pháp Loa. Hoàng thái tử Mạnh tuổi vừa lên 9 hộ một bên. Ở trong mình liền có mấy viên xá lợi. Bèn đem ra để thấy. Kiểm lại thấy trong hộp thì có thiếu mấy hạt. Vua (Anh Tông) cảm động khóc lóc, trong lòng mới hết nghi ngờ”. 

Vậy là theo ĐVSKTT, ta không thấy vai trò của Bảo Sát, mà Thánh đăng ngữ lục gọi là thượng túc đệ tử của Thượng hoàng Trần Nhân Tông, người đã được Thượng hoàng cho gọi đến và ở bên cạnh trong những giây phút cuối cùng. Và cũng chính Bảo Sát đã thực hiện việc hỏa táng theo lời dặn dò của Thượng hoàng, mà không cần sự có mặt của Pháp Loa. Khi Pháp Loa tới, thì chỉ có việc dùng nước thơm tưới tắt giàn hỏa và thu lấy xá lợi cũng như ngọc cốt. 

Qua những sự kiện như thế, hình như vai trò Pháp Loa dù được Thượng hoàng cho làm người nối pháp, vẫn có vẻ như rất mờ nhạt trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời của Thượng hoàng. 

Đến hơn một năm sau, ĐVSKTT 6 tờ 25b9 -27a8 đã kể lại việc đưa xá lợi Thượng hoàng đi nhập tháp: “Ngày 16 tháng 9 mùa thu năm Canh Tuất (1310), rước linh cữu Thượng hoàng đưa về chôn ở lăng Quy Đức ở phủ Long Hưng, xá lợi thì để tại bảo tháp am Ngọa Vân, miếu hiệu là Nhân Tông, thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Duyên Long Từ Huyễn Huệ Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Minh Duệ Hiếu hoàng đế. Đem Khâm Từ Bảo Thánh thái hoàng thái hậu hợp táng ở đấy. Trước đó tạm quàn tại tể cung của Nhân Tông ở điện Diên Hiền. Khi sắp đưa đi, giờ đã đến rồi mà quan liêu dân chúng đứng chật khắp cung điện. Tể tướng cầm roi xua đuổi, rốt cuộc cũng không thể mở đường. 

Vua cho gọi chi hầu chánh chưởng Trịnh Trọng Tử đến bảo: ‘Linh cữu sắp đưa mà dân chúng đầy nghẽn như thế thì làm thế nào?’. Trọng Tử lập tức đến đền Thiên Trì gọi quân Hải khẩu và Hổ dực (quân của Trọng Tử trông coi) đến ngồi la liệt trong thềm, sai hát mấy câu khúc Long ngâm. Mọi người ngạc nhiên kéo nhau đến xem, cung điện mới giãn người, bèn rước về lăng Quy Đức. Trọng Tử lo dọc đường tất có chỗ thế đất quanh co, nếu nghiêm tỉnh không nói to thì sợ có chỗ nghiêng lệch. Nếu có truyền gọi bảo ban thì lại sợ ồn ào. Bèn đem các câu dặn cách đi đứng ngang dọc, viết vào khúc Long ngâm, khiến mọi người hát theo để cùng bảo nhau. Người bấy giờ khen là giỏi
(...) 

Xá lợi của Nhân Tông để vào bảo tháp thì có sư Trí Thông phụng hầu. Trước đây, khi Nhân Tông mới xuất gia, sư chùa Siêu Loại là Trí Thông đốt cánh tay từ bàn tay vào đến khủy tay và vẫn nghiễm nhiên không đổi sắc mặt. Nhân Tông đến xem, Trí Thông đặt chỗ cho vua ngồi, rồi lạy nói: ‘Thần tăng đốt đèn mà thôi. Đốt đèn xong thì trở về viện, ngủ say, thức dậy thì thấy phỏng liền lành’. Đến đây, khi Nhân Tông băng, bèn vào núi Yên Tử phụng hầu bảo tháp xá lợi, đến thời Minh Tông thì tự thiêu chết”. 

Cuộc đời của vua Trần Nhân Tông, sau khi mất, được ĐVSKTT ghi lại như thế. Ta thấy ít có vị vua nào trong lịch sử dân tộc lại có sự ghi chép đầy đủ về sự mến mộ của người dân sau khi đã mất. Đây là một cuộc đời chỉ trong vòng 50 năm, mà có những đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc và nhân loại. Một cuộc đời đã kết thúc, nhưng đã để lại bao nhiêu lưu luyến cho những người đương thời cũng như hậu thế. Một cuộc đời có một kết thúc hết sức bình dị nhưng lại vô cùng cao đẹp. Ngày nay, mỗi khi đọc lại những gì tổ tiên ta đã viết về những ngày cuối cùng của vua Trần Nhân Tông, chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động như mình đang đối diện với một người đang sống bằng xương bằng thịt trước mặt chúng ta. 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn