Biểu tượng giác ngộ Unalome trong văn hóa Thái Lan và Campuchia

11 Tháng Mười Hai 201504:30(Xem: 6456)

BIỂU TƯỢNG GIÁC NGỘ UNALOME
TRONG VĂN HÓA THÁI LAN VÀ CAMPUCHIA
Tống Phước Khải

 

UnalomeUnalome [u-na-lô-mê] là một biểu tượng rất phổ biến trong đời sống tâm linh tại Thái Lan. Đó là một hình tượng xoắn lò xo dạng tháp. Thông thường biểu tượng này được vẽ trên các hình xăm, hoặc khắc trên các tấm bùa hộ mệnh mà hầu hết các du khách đến Thái Lan đều có dịp xem qua hoặc sở hữu.

Trong hệ thống trường thiền Theravāda, thì Unalome là một biểutượng đặc trưng được chấp nhận sử dụng trong dòng thiền  của ngài Ajahn Chah. Đây là một dòng thiền ở chốn rừng núi (Phra Kammatthaan) tại Thái Lan với rất nhiều những vị  Ajahn (ācariya) được biết đến trên thế giới.

Điều đáng ghi nhận là biểu tượng này được sử dụng một cách chính thức trong các tổ chức chính phủ. Các huy hiệu của Hoàng Gia Thái Lan và quân lực của Hoàng Gia đều có sử dụng biểu tượng Unalome. Còn tại Campuchia thì biểu tượng Unalome hiện diện trên Quốc Huy của nước này.

UNALOME TRONG TIẾNG PĀLI

Unalome 2Theo một số giải thích không chính thống thì Unalome là biểu tượng của sự giác ngộ trong Phật giáo. Một số khác thì cho rằng đây là biểu tượng của sợi tóc mọc giữa đỉnh đầu của một người chứng đắc A La Hán. Tuy nhiên, nếu truy tầm từ Unalome trong từ điển Pāli thì chúng ta có thể nhận ra rằng từ này được kết hợp bởi 2 từ Pāli là uṇṇaloma với ý nghĩa như sau:

uṇṇa: sợi lông trắng giữa hai chân mày của Đức Phật.

loma: lông ở trên thân thể.

Sợi lông trắng giữa hai chân mày, còn được gọi là Bạch Hào, là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật và được đề cập đến rất nhiều trong các bài kinh.

Kinh Tướng (DN 30: Lakkhaṇasutta) trong Trường Bộ Kinh đã ghi nhận về tướng Bạch Hào của Đức Phật như sau:

“Setā susukkā mudu,tūla,sannibhā,
Uṇṇā sujātā bhamukantare ahu;
Na lomakūpesu duve ajāyisuṃ,
Ekekalomūpacitaṅgavā ahu.”

Nghĩa Việt:

“Trắng, rực rỡ, mềm mịn như bông
Bạch hào khéo mọc giữa chặng chân mày
Không mọc hai sợi trên cùng lổ chân lông
Một mà thôi, lông mọc trên cơ thể.”

 Và trong một đoạn khác:

 “Taṃ lakkhaṇaññū bahavo samāgatā,
Byākaṃsu uppāda­nimitta­kovidā;
Uṇṇā ca lomā ca yathā susaṇṭhitā,
Upavattatī īdisakaṃ bahujjano.”

Nghĩa Việt:

“Khi nhiều vị biết xem tướng hội họp
Những vị  am tường vế sinh tướng tiên đoán
Người với tướng bạch hào khéo mọc
Số đông sẽ đến với người này.”

Ngoài ra trong các kinh khác của Nikāya như Kinh Đại Bổn (DN 14: Mahāpadānasutta), Kinh Brahmayu (MN 91: Brahmāyusutta) đều có đề cập đến tướng Bạch Hào.  

GIẢI THÍCH VỀ TƯỚNG BẠCH HÀO

Các bài kinh Pāli chỉ mô tả sơ qua sợi lông trắng giữa hai chân mày của Đức Phật thì mềm mịn, ngoài ra không ghi nhận rõ thêm về các chi tiết khác của Bạch Hào. Đặc điểm chi tiết của Bạch Hào trong hệ thống văn bản Pāli chỉ được biết đến thông qua phần Chú Giải (Aṭṭhakathā) Trường Bộ Kinh của luận sư Buddhaghosa, trong đó mô tả sợi lông này khi được kéo dãn ra thì có chiều dài bằng phân nửa cánh tay của Đức Phật, nó luôn ở hình thức xoắn theo hướng phải, trực chỉ về phía trước và chiếu sáng như đốm bạc trên thoi vàng, tỏa ra ánh sáng dịu dàng.

Chúng ta nhận thấy rằng nội dung mô tả của Buddhaghosa không tồn tại trong các kinh của chánh tạng Pāli. Việc Ngài ấy căn cứ vào đâu để ghi nhận điều này là vấn để chưa được biết rõ. Tuy nhiên, Buddhaghosa là một cao tăng vừa là một học giả uy tín có công rất lớn trong việc hệ thống hóa Tạng Pali, thì những gì Ngài nêu ra chắc hẳn phải trên nguồn tư liệu đáng tin cậy nào đó ngoài chánh tạng và tất nhiên là việc làm này không thể thực hiện một cách võ đoán.

Về nguyên nhân để có được tướng Bạch Hào thì kinh Pāli giảng thích rằng do những khiếp trong quá khứ Đức Phật đã sống với hạnh chân thật, tránh xa điều giả dối.  Nguyên văn trong  Kinh Tướng (DN 30: Lakkhaṇasutta) ghi nhận như sau:

“Saccappaṭiñño purimāsu jātisu,
Advejjhavāco alikaṃ vivajjayi;
Na so visaṃvādayitāpi kassaci,
Bhūtena tacchena tathena bhāsayi.

Nghĩa Việt:

“Trong quá khứ Ngài là người nói thật,
Không nói lời hai lưỡi, khước từ sự giả dối,
Là người không bao giờ thất hứa,
Bất cứ điều gì Ngài nói đều đúng và chân thật.”

BẠCH HÀO TRONG HỆ THỐNG KINH ĐIỂN SANKRIT VÀ HÁN NGỮ

Trong tiếng Sanskrit thì Bạch Hào được gọi là ūṛṇā hoặc ūṛṇā-kośa, và được từ điển Buddhist Hybrid Sanskrit của Edgerton giải thích là vòng xoắn giữa chặng hai chân mày của Đức Phật, là nơi mà Đức Phật phóng ra những tia hào quang.

Hệ thống Hán Tạng ghi nhận rất rõ về Bạch Hào. Bạch Hào trong hệ thống A Hàm được ghi nhận qua các kinh như Kinh Tam Thập Nhị Tướng (MA 59), Kinh Phạm Ma (MA 161).  Nội dung trong kinh A Hàm có mô tả rằng sợi lông trắng này xoay theo hướng bên phải. Bên cạnh đó, các kinh thuộc hệ thống kinh điển Đại Thừa ghi chép rất nhiều về tướng Bạch Hào của Đức Phật. Phật Quang Đại Từ Điển  giải thích đây là một trong 32 tướng của Như Lai. Khoảng giữa hai chân mày của Thế Tôn có sợi lông trắng nhu nhuyễn tinh tế, kéo dãn ra thì được một tầm (lại nói lúc sơ sinh thì dài 5 thước, lúc thành đạo thì dài 1 trượng 5 thước),  thả ra thì xoay trở lại về bên phải, như xoáy ốc. Sáng sủa khiết tịnh , giống như trân châu,  như mặt trời giữa trưa, có khả năng phóng ra ánh sáng, gọi là bạch hào quang. Chúng sinh nào gặp được ánh sáng này thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng, thân tâm được an lạc.

KẾT

Sợi lông trắng giữa hai chân mày của Đức Phật được ghi nhận trong cả 2 hệ thống kinh điển Nam truyền và Bắc truyền. Tướng này là một trong 32 tướng tốt của Đức Thế Tôn và là kết quả tích lũy của hạnh sống chân thật từ trong vô số kiếp quá khứ của Ngài. Bạch Hào Tướng trong truyền thống Phật giáo Khmer-Thái có tên gọi là Unalome, lưu truyền qua nhiều thế hệ và nay đã trở thành nét văn hóa đặc sắc trong dân chúng. Mặc dù ngày nay đa số mọi người không hiểu nhiều về nguồn gốc của Unalome nhưng biểu tượng này mang một giá trị tâm linh sâu sắc đối với người dân bản địa tại Thái Lan và Campuchia.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Sáu 2016(Xem: 5316)
Đã là ngày thứ mười lăm của lịch Tây Tạng, một cách truyền thống đây là thời gian để làm mới. Đức Đạt Lai Lạt Ma đang ở thị trấn của Đạo Tràng Giác Ngộ, Bodhgaya, để tỏ lòng tôn kính đến Phật tích thiêng liêng nhất của Phật Giáo. Sau một vài ngày cần thiết để nghỉ ngơi ở đây, ngài sẽ tiếp tục cuộc hành hương đến đỉnh Linh Thứu trước khi trở lại để truyền lễ quán đảnh Thời Luân. Đức Đạt Lai Lạt Ma bước lên ngai của ngài bên trong Đại Tháp Giác Ngộ, dưới tàng cây bồ đề cổ kính, hậu duệ trực tiếp của cây bồ đề xưa kia nơi Đức Phật đã đạt đến Giác Ngộ hai nghìn năm trăm trước. đông đảo những tu sĩ Tây Tạng ngồi đối diện với ngài trong khoảng sân rộng. Họ đã đến đây để tham dự nghi thức sojong hai lần một tháng - sám hối.
15 Tháng Sáu 2016(Xem: 5369)
Ánh sáng buổi trưa chiếu ấm áp và dễ chịu trên những tàn tích của Đại Học Na Lan Đà cổ xưa. Đức Đạt Lai Lạt Ma và một đoàn tùy tùng khoảng một trăm tu sĩ ngồi và trì tụng kinh chú trên bãi cỏ đối diện trực tiếp với phần còn lại của ngôi tháp cao chín mươi bộ. Tất cả đã đến đây sau khi dừng chân ở Sarnath, trong một cuộc hành hiếm hoi để tỏ lòng tôn kính đến những Phật tử ưu việt Ấn Độ, những người đã học và dạy tại Na Lan Đà. Lãnh tụ Tây Tạng đã không đến đây trong hơn hai thập niên.
10 Tháng Sáu 2016(Xem: 5696)
Đức Đạt Lai Lạt Ma bước ra khỏi chiếc xe đại sứ bọc thép trắng và cất bước hướng đến một khán đài tạm cạnh tháp Sarnath (tháp Chuyển Pháp Luân ở Lộc Uyển). Có khoảng vài trăm khách hành hương và tu sĩ đã tập họp, đang chờ đợi ngài thuyết giảng. Đấy là tháng Giêng, và lãnh tụ Tây Tạng tiến hành một cuộc hành hương hiếm hoi đến những Phật tích thiêng liêng nhất ở Ấn Độ. Sarnath là nơi dừng chân đầu tiên, hơn hai mươi lạt ma cao cấp trong bộ y áo màu đỏ quen thuộc, cầm một bó nhang trong tay, xếp hàng trên lối đi chào đón ngài.
06 Tháng Sáu 2016(Xem: 5196)
Có một cảm giác hấp dẫn mạnh mẽ bất ngờ tại thiền phòng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Dharamsala, biến chuyển trong năm ngày thành một phòng họp cho Hội Nghị Tâm Thức và Đời Sống lần thứ 10. Mọi con mắt đang đổ dồn về Steven Chu, khôi nguyên vật lý của Hoa Kỳ. Ông ngồi trên ghế được xếp bên phải của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một bình hoa bằng đồng đầy những hoa tươi ở phía sau ông. Chu đang chuẩn bị để giải thích mối quan hệ tiềm tàng giữa toán học và cơ học lượng tử đến Đức Đạt Lai Lạt Ma và hội nghị.
17 Tháng Năm 2016(Xem: 5683)
Những ngày hội mừng Một Trăm Năm Giải Nobel Hòa Bình là trọn vẹn. Tôi đang ngồi tại phòng khách gác lững của Khách Sạn sang trọng Holmenkollen, chờ để có thức uống với Lodi Gyari Rinpoche, đại diện đặc biệt của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Phòng chờ đợi đông đảo. Tôi có thể thấy tác giả quyển Holocaust (Vụ Diệt Chủng Do Thái) và khôi nguyên hòa bình Elie Wiesel đang mãi mê đàm luận với một người đồng hành, hoàn toàn không chú ý tới sự huyên náo chung quanh ông. Một người khôi nguyên khác, José Ramos-Hortas của Đông Timor, ở tại một chiếc bàn ngay bên cạnh, ông đang trả lời phỏng vấn với một vài phóng viên.
19 Tháng Tư 2016(Xem: 5253)
Kể từ khi anh được phát hiện treo cổ trong ký túc xá vào tháng Giêng này, câu chuyện về cuộc đời của Rohith Vemula đã được khơi lại thành đề tài nói chuyện về hệ thống đẳng cấp và sự kỳ thị đặt căn bản trên đẳng cấp tại Ấn Độ, đặc biệt hơn là trong các trường đại học.
05 Tháng Tư 2016(Xem: 5705)
Phòng hành thiền của Đức Đạt Lai Lạt Ma được tắm trong ánh nắng dịu dàng của buổi sáng. Những tủ đựng đồ bằng gỗ chạm trổ tinh vi đứng dọc bên tường, ở giữa chúng tôi có thể thấy nhiều bức tượng bằng đồng và vô số sản phẩm thủ công tôn giáo. Cả kho kinh điển Tây Tạng gói trong những tấm vải vàng và gấm thêu kim tuyến chồng chất đầy những kệ sách được làm theo truyền thống. Trung tâm của phòng được chiếm ưu thế bởi một bàn thờ trang trí công phu. Một bức tượng - cao không quá hai bộ được đặt trong một ngôi điện nho nhỏ bằng gỗ và thủy tinh - thật là một nơi đáng ngưỡng mộ. Không gian trầm lặng tuyệt đẹp, một sự thanh lịch bình dị.
02 Tháng Tư 2016(Xem: 4999)
Đây là trích đoạn (lần thứ ba) từ buổi nói chuyện Hỏi & Đáp với Thượng Tọa Pomnyun tại trường Đại Học Princeton vào ngày 1/10/2014. Người phỏng-vấn hỏi Thượng Tọa Pomnyun trở thành một nhà sư như thế nào.