Vài Nét Về Phật Giáo Du Nhập Vào Afghanistan

12 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10159)

VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO

DU NHẬP VÀO AFGHANISTAN


Afghanistan nằm giữa vùng Tây Á dân số khoảng 20 triệu người, diện tích 647.497 km2, với dân số tuy ít nhưng lại có nhiều chủng tộc như Puxtum, Tat-zit, U dơ bêch,… Ngôn ngữ chính của Afghanistan là Puxtum, Ba Tư và thổ ngữ, thủ đô là Kabul. Trên châu lục thì Afghanistan thuộc Trung Á, vì thế cho nên nó nằm ngay trên con đường xuyên Sil-road (con đường Tơ lụa), rất thuận lợi cho việc giao dịch thương mại, trao đổi văn hóa một số quốc gia lân cận. Có thể nói 300 năm trước Tây lịch dưới triều đại Asoka, Phật giáo đã vượt khỏi biên giới Ấn Độ, và phát triển rộng về phiá Nam, phiá Đông và Tây Ấn Độ.

Phiá Tây Bắc, Phật giáo du nhập vào các vương quốc Hy Lạo, đó là các vùng Gandhara, Pakistan và Afghanistan. Ở thế kỷ thứ I trước Tây lịch, một vùng đất rộng lớn bao gồm Bắc Ấn, Gandtara, Afghanistan cho tới thung lũng sông Tarim do hoàng đế Kaniska cai trị. Vị vua này là một tín đồ Phật giáo, dưới triều đại của ông đã tổ chức kết tập kinh điển lần thứ IV ở Kashmir và cũng chính nhà vua đã cử những vị cao tăng đem Phật giáo đến các vương quốc như Hy Lạp, Ai Cập, Syria… Tất cả những con đường các quốc gia nêu trên phải đi ngang qua Afghanistan rồi Trung Á và truyền sang Trung Hoa.

Vua Milanda gốc Hy Lạp từng trị vì ở Bactria nay là một phần của Afghansitan, ông cũng là một Phật tử, thời đại của ông sau Phật nhập Niết bàn khoảng 500 năm vào TK I trước Tây Lịch. Trong quyển Na Tiên Tỳ Kheo (Milindalinda), ông được giới thiệu như là một vị vua của người dân Yonakas, đây là một từ riêng lúc ban đầu chỉ cho người Hy Lạo có mặt tại Ionia (Tiểu Á ngày nay) nhưng về sau, từ Yonakas có nghĩa mở rộng hơn chỉ cho người Hy Lạp nói chung. Đất nước của người Yonakas và Kambojas được đề cập trong kinh Trung Bộ (kinh Assalayana), cho biết ở hai xứ này thay vì có 4 giai cấp như Ấn Độ, họ chỉ có hai giai cấp, đó là chủ nô và nô lệ.

Như chúng ta biết sau kết tập kinh điển lần thứ III ở Pataliputra dưới triều đại Asoka, các nhà truyền giáo Phật giáo đã được cử đến đất nước của người Yanakas gồm có vương quốc của Gonatas ở Mexedonia, sự kiện này được ghi trên các trụ đá thứ 2 và thứ 13 của Asoka. Trong các trụ đá của Asoka có ghi tên vị tu sĩ Dhmamarakkhita người gốc Hy Lạp được cử tới xứ Aparantaka để truyền đạo. Như vậy cho chúng ta biết khoảng 200 năm trước Milinda, người Hy Lạo đã biết đến đạo Phật và chính vì hoài nghi về số điểm trong nền giáo lý đạo Phật mà vua Milinda đã có cuộc vấn đạo với vị Tỳ kheo Na Tiên (Nagasena) và sau khi được giải thích, nhà vua trở thành một Phật tử thuần thành. Sau 17 năm ở ngôi vua, ông đã xuất gia đạt được quả vị A la hán.

Trong các tài liệu sử ghi lại, vương quốc của Milinda gồm vùng thung lũng Kabul (thủ đô của Afghanistan ngày nay), Peshawar, Punjab, Sindh, Pradesh, đây có thể nói là một vùng rộng lớn thuộc Tây Ấn Độ và Pakistan hiện nay. Ngoài cuộc vấn đáp đạo lý nổi tiếng giữa nhà vua và Na Tiên Tỳ kheo, nhà vua còn cho xây dựng một tu viện mang tên tu viện Milinda, cúng dường cho vị cao tăng Na Tiên, đồng thời ông cũng cúng dường rộng rãi cho chư Tăng trong xứ thời bấy giờ. Nhà sử học Plutarch ghi lại rằng vua Milinda qua đời như một vị xuất gia, các đô thị Ấn Độ đã chia nhau xá lợi nhà vua để tôn thờ.

Điều có ý nghĩa lớn là những đồng tiền đúc của vua Milinda đều mang biểu trưng bánh xe pháp Dharmacakra. Bia ký Shinkot cho biết vua Milinda đã có công lớn trong việc truyền bá đạo Phật giữa hai vùng Hindukouch va Sindh (theo History of culture of India people, quyển II trang 112 và quyển Political history of ancient India – 1955, trang 382). Nhà sử học này cho rằng triều đại của Milinda rất được nhân dân mến mộ trong chính sách cai trị của ông.

Sau vị vua Milinda có một ông vua Ấn độ là một Phật tử (gồm cả vùng Afghanistan và Trung Á) đó là hoàng đế Kaniska, ông thuộc bộ tộc Yueh-chi (Kushans) Trung Hoa gọi là Nguyệt Thị, từng cư trú vùng Tân Cương (Trung Quốc), vị tù trưởng Yueh-chi cũng gọi là bộ tộc Kusana đầu tiên chiếm lĩnh và cai trị Bắc Ấn Độ là vua Kadphises I cũng là một Phật tử, những đồng tiền đúc dưới thời ông đều có dòng chữ DHARMATHIDASA (tin thuần thành ở Pháp). Chính vì sanh ra trong dòng họ tin Phật như vậy cho nên Kaniska lên ngôi mang niềm tin Phật giáo trong việc cai trị đất nước.

Triều đại Kaniska (78-101 trước Tây lịch) là một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển Phật giáo tại Ấn Độ. Nó đánh dấu sự hưng khởi của Phật giáo Đại thừa và sự ra đời của những sáng tác văn chương Phật giáo với những tên tuổi sáng chói như : Parsa, Asvaghosa (Mã Minh), Thế Hữu (Vasumitra)… Trong lĩnh vực nghệ thuật, đây là thời kỳ các trường phái nghệ thuật Gandhara với nhiều tượng Phật và Bồ tát mang nghệ thuật vóc dáng Hy Lạp cổ đại. Chính dưới triều đại Kaniska, Phật giáo được truyền bá rộng rãi ở Trung Á và Đông Á với sự bảo trợ của nhà vua, hoạt động hoằng pháp không ngừng được đẩy mạnh trong một vương quốc rộng lớn từ Trung Ấn Độ ngang qua Afghanistan đến các vùng Trung Á.

BÙI KHÁNH NHI
(Tuần báo Giác Ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Mười 2014(Xem: 8283)
...Điều cuối cùng đáng nói nữa, là chẳng có tư liệu nào là chính xác hoàn toàn, do các vị kết tập sư viết sau cả 500 năm, và cũng khó tránh khỏi sự hư cấu, thêm bớt của hàng sa-môn hậu học. Ta học Phật, tu Phật là học và tu theo giáo pháp. “Khi Như Lai diệt độ rồi thì Pháp và Luật là thầy của các ông”. Và, “Ai thấy Pháp là thấy Như Lai!” Vậy, Pháp mới là quan trọng!...
13 Tháng Mười 2014(Xem: 6663)
Phật giáo được truyền đi hai hướng: một hướng đi về phía Nam Ấn, truyền qua Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, và Campuchia. Phật giáo truyền theo hướng này bằng ngôn ngữ Pali và được gọi là Phật giáo Nam Truyền. Một hướng khác đi về phía Bắc Ấn qua A Phú Hãn (Afghanistan) đến Trung Hoa. Từ Trung Hoa, Phật giáo truyền đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.
26 Tháng Chín 2014(Xem: 9234)
Đức Phật - The Story of Siddhartha Gautama là một phim tài liệu của PBS thực hiện bởi nhà làm phim từng đoạt giải thưởng David Grubin và lời thuyết minh của tài tử điện ảnh Richard Gere, kể câu chuyện về cuộc đời Đức Phật... Phim nói tiếng Anh
03 Tháng Chín 2014(Xem: 11977)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự. Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
12 Tháng Tám 2014(Xem: 24402)
Đây là bộ sách nói về cuộc đời đức Phật Thích Ca từ khi ngài Đản sinh đến lúc ngài Nhập diệt, qua lối văn kể chuyện vừa “giàu tính văn chương nghệ thuật vừa đầy đủ những chi tiết khách quan và trung thực nhất về cuộc đời đức Phật”.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 6460)
Phật Tổ Đạo Ảnh, đúng theo danh xưng là một tác phẩm miêu họa pháp tướng cùng ghi chép đạo hạnh các lịch đại Tổ sư Ấn-độ và Trung Hoa, mong để lại cho kẻ tu hành đời sau những tấm gương soi, không ngoài ý nghĩa “kiến hiền tư tề”, tức nhằm mục đích khích lệ mọi người trông thấy gương các bậc thánh hiền mà khởi tâm nối gót theo .
18 Tháng Bảy 2014(Xem: 5223)
Sau khi viết bài “Những chi tiết dị, đồng về đức Phật lịch sử”, BBT. Thư Viện Hoa Sen gợi ý tôi xem lại trang Wikipedia Tiếng Việt cùng một đề tài liên hệ. Xem xong, tôi nghĩ, mình không dám và cả không có khả năng thò tay vào đấy để sửa hay điều chỉnh được; vả lại đấy là công việc của các nhà nghiên cứu, họ có chuyên môn về cách làm hơn. Tôi thì xin chịu. Do vậy, tôi bèn copy lại, dựa theo trang Wikipedia ấy, rồi thêm chỗ này, bớt chỗ kia, dĩ nhiên là theo chủ quan kiến thức Phật học của mình.
16 Tháng Bảy 2014(Xem: 5997)
Sau khi bộ đại sử đức Phật Sakyā Gotama “Một Cuộc Đời Một Vầng Nhật Nguyệt” 6 quyển, 3000 trang được in ấn và phổ biến trên các trang mạng Phật học, được đọc lại trên các trang Pháp Âm, và được độc giả đọc nhiều nhất là “thuvienhoasen.org” ở Mỹ và “quangduc.com” tức là Tu viện Quảng Đức ở Úc – tôi, tác giả, nhận được khá nhiều câu hỏi về những chi tiết lịch sử, có những dị biệt, mâu thuẫn nơi này và nơi khác.