Hương Giải Thoát

15 Tháng Mười 201100:00(Xem: 36396)

HƯƠNG GIẢI THOÁT
TT. Thích Chân Tính
(Chùa Hoằng Pháp)

Nắng hạn đã lâu, mặt đất khô cằn, cỏ cây xơ xác, cảnh vật điêu tàn. Bỗng một ngày có cơn mưa lớn trút xuống, vạn vật như được tắm mát, đất đai thấm nhuần, nhẫn cho đến loài đá sỏi cũng được tẩy rửa.

Cũng thế, giữa nhân gian ngập tràn đau khổ, vạn loại đang còn chìm đắm trong đêm dài của sanh tử trầm luân, còn nổi chìm trong biển khổ tưởng chừng như bất tận, bỗng đức từ phụ Thích-ca Mâu-ni vì lòng đại bi xuất thế, Phật nhật huy hoàng, xua tan màn đêm của vô minh, làm thuyền cứu vớt chúng sanh thoát khỏi ái hà.

Pháp của Phật như mưa, tùy mỗi loài đều nhận được lợi ích”. Chúng sinh căn tánh bất đồng song nếu đã lãnh thọ pháp của Phật thì không luận là nhiều hay ít, hoặc mau hoặc chậm, thảy đều được lợi lạc và giải thoát và lý do đơn giản chính là tuân theo luật nhân quả. “Ví như người ăn chút kim cương không thể tiêu, hạt giống Phật đã gieo vào tạng thức sẽ mãi còn nguyên không sót mất”.

Đến với đạo Phật là đến với sự giải thoát, tu theo pháp Phật tức đã đi trên con đường giải thoát. Phật pháp không xa rời thế gian nên rất thực tế. Ngay trong hoàn cảnh này mà khởi lòng từ bi, ngay trong cuộc sống này mà bao dung, ở nơi các chướng duyên mà nhẫn nhục, vì tâm từ ái mà có thể hy sinh, rõ lẽ vô thường nên sống an bần trong “thiểu dục tri túc”, lìa các ngã chấp nên vô ngã vị tha v.v... Không biết bao nhiêu những phẩm đức cao đẹp và trong sáng được phát huy từ chỗ chân tu thật đạo và những hạnh lành ấy sẽ đưa người học đạo tiến dần lên quả Thánh.

Hôm nay, trong niềm hân hoan và an lạc khi được tắm trong dòng nước từ bi có pha lẫn hương giải thoát, con cùng tất cả chúng sinh vui sướng khôn cùng, thiết tha phát lên lời nguyện. Nguyện đời đời kiếp kiếp, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, trái tim con vẫn luôn có Phật, cuộc đời con luôn luôn có chính pháp sáng soi, đến nơi nào cũng được bậc đại thiện tri thức, những thượng thiện nhân dẫn đường... Tuy con không được giàu sang như người nhưng những lúc con bước từng bước chậm rãi trong đạo tràng, thân mặc chiếc áo lam, hoặc khi kinh hành, hoặc khi lễ Phật trong buổi sớm mai, trong cảnh chiều tà... những giờ phút hiện tiền ấy con cảm thấy đời mình thật đầy đủ, thật bình yên, một ý niệm buông xả bừng lên, bao tham ái tựa hồ như cháy rụi. Con cảm giác tâm hồn mình ngập đầy sự an lạc thảnh thơi, dẫu biết rằng ngày mai lại rơi vào vòng quay cơm, áo, gạo, tiền.

Khi cuộc sống đời thường gặp lúc chật vật, khó khăn, chợt nhớ đến lời Phật dạy: “Ít muốn, biết đủ”. Soi lại đời mình, con là người quá ư đầy đủ vì cha mẹ còn hiện diện, anh em thuận hòa, mỗi ngày đều có cơm ăn hai bữa, áo vải quần thô cũng đủ ấm thân, còn sức khỏe để làm việc mưu sinh, có thân thể bình thường để dễ dàng đi đây đi đó... Con còn được trông thấy dung nhan của đức Từ phụ Thế Tôn, có thể lễ bái trước tôn tượng của đức Quán Thế Âm, mỗi ngày có thể sống bình an, mỗi ngày có thể nhớ tưởng đến Tam Bảo... Con đã có rất nhiều thứ quý giá và sự thật con là một trong số những người may mắn, một trong số những người đầy đủ và là người thật hạnh phúc giữa cuộc đời có nhiều bất hạnh, khổ đau. Mỗi khi gặp điều khổ não, phiền lụy trong cuộc đời, nếu không nhờ Phật pháp soi đường, nếu không tin sợ nhân quả, nếu không dùng ngũ giới nhắc nhở, có lẽ con đã đào thêm hố sâu tội lỗi, tạo thêm vô lượng vô biên nghiệp thay vì phải quán chiếu và ăn năn sám hối.

Trong kinh Kim Cang, con tâm đắc nhất bài kệ:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng huyễn bọt bóng

Như sương như chớp lóe

Nên quán tưởng như thế”.

Để rồi, trong đời sống gặp lúc trái ý nghịch lòng, con đem bài kệ này ra để đối trị, chẳng thế, trong lúc vui sướng ngập tràn con cũng dùng bài kệ này.

“Vạn pháp do duyên sanh

Lại cũng do duyên diệt”

Ôi! Lời Phật thật hoàn mĩ, hàm súc và thiết thực, nên khi nghĩ đến hai bài kệ này, các ý tưởng tham đắm, cố chấp trong con nhẹ dần. Thế mới biết “Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu”, chỉ cần thật tâm ứng dụng thì chẳng cần phải dùng nhiều phương pháp, mà ở nơi một bài kệ, một câu kinh do Phật thuyết đều sẵn đủ diệu dụng, có thể tiêu trừ các phiền não, khổ đau. Con chợt nhận ra rằng, tu là phải biết xem xét và sửa đổi nơi bản thân thì mới có được lợi ích và an lạc, chữ “tu” đó dễ hiểu là “sửa”, sửa ác ra thiện, bỏ xấu làm tốt, diệt si mê và khai đường trí tuệ.

Nhiều lúc lặng lẽ một mình, con nghĩ nếu như đời sống này không nhờ pháp Phật dẫn đường, bản thân mình sẽ ra sao khi đứng trước cuộc đời có nhiều cạm bẫy, mê hoặc. Phải chăng lửa Tam độc càng thêm lẫy lừng, hằng vui thú với sát sinh, trộm cắp?

Có lắm lúc những người thân yêu đã nói những lời, đã làm những việc khiến cho con đau khổ, và rồi trong cơn đau khổ ấy con chỉ có thể khóc và gọi “Phật ơi!”. Vì khi đó chỉ có Phật mới hiểu và thương con thôi. Lại có khi gặp phải hoàn cảnh sợ hãi chúng con thầm niệm hồng danh và nhớ tưởng đến hình tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm thì nỗi lo sợ cũng bớt đi. Đủ biết Tam Bảo là chỗ tốt để con nương tựa, là nơi an ổn cho chúng sinh nương về. Đối với pháp môn Tịnh Độ, dầu con cũng đã có tín tâm, nhưng vì nghiệp chướng sâu nặng nên con chưa được “nhất tâm bất loạn” vẫn thường hay thất niệm nhưng hễ con nhớ là lại niệm ngay. Con biết sự tu tập của con còn kém tệ vô cùng, sự hiểu biết lại càng hạn chế, con chưa xứng đáng là một Ưu-bà-di chân chính, nhưng con chỉ mong sao lòng niệm đạo chẳng nhạt phai. Con có thể cố gắng và cố gắng mãi...

Nhìn lại những gì đã qua, con biết mình vừa thay đổi từ xấu thành tốt, tuy cũng không phải tốt gì cho lắm, song cũng đã hơn trước kia rồi. Con đã có thể vui vẻ mà bố thí, có thể bỏ qua lỗi lầm cho người khác để sống an lạc và hỷ xả với cuộc đời.

Ngày nay, được mưa pháp tắm gội thân tâm, con nghĩ mình đã may mắn và có phước báu lắm đây! Trong niềm hân hoan ấy, con và tất cả mọi hữu tình sẽ chẳng thể nào quên đại ân, đại đức của đấng đại giác Thế Tôn cách nay hơn hai ngàn năm về trước đã thị hiện vì chúng sinh dày công tầm đạo. Lại nhờ ơn chư vị Bồ-tát, lịch đại tổ sư, những bậc đại nhân đã hộ trì chính pháp, thay Phật chuyển pháp luân chỉ vì muốn làm lợi lạc cho trời, người và hết thảy. Các vị cao tăng, thạc đức đã chuyển ngữ giáo điển của Phật thành Việt ngữ, các ngài thể vì lòng từ bi mà hoằng dương thánh đạo. Để đến hôm nay chúng con được gặp chánh pháp và có chỗ nương tựa tu hành. Con xin thành kính tri ân trước là thầy bổn sư của con – vị thầy Trụ trì chùa Hoằng Pháp cùng toàn thể chư Tăng đã hết lòng chăm lo cho chúng sinh. Bản thân con nhờ ở gần chùa, nhờ đọc sách do chùa phát hành mà con đã dễ dàng đến với đạo Phật.

Mong sao quý thầy luôn được an lạc, lòng độ sinh không mệt mỏi, để đưa lớp lớp chúng sinh vượt qua biển khổ.

Cao quý thay:

Tam Bảo chính là ba ngôi báu

Lại là nơi nương náu cho ta

Dẫu qua sốkiếp hà sa

Ngợi khen khôn xiết, ngợi ca không cùng”.

 

>
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Giêng 2015(Xem: 6000)
Trong các pháp thoại của Thế Tôn, những hình ảnh trực quan luôn được vận dụng để minh họa cho thính chúng dễ hiểu, dễ liên hệ, nhận rõ ý nghĩa những lời dạy của Ngài. Nước sông Hằng đã được Thế Tôn dùng để chỉ cho nước mắt của chúng sanh khóc thương nhau trong những lần tử biệt sanh ly, chuyển lưu sanh tử trong nhiều đời kiếp.
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 6551)
Trong Tam tạng giáo điển nhà Phật, giới luật có vai trò rất quan trọng, được xếp thành một tạng riêng, tạng Luật. Trong nội dung tu tập của hàng đệ tử Phật, dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cả xuất gia lẫn tại gia, đều phải thành tựu giới; nhân giới mà sanh định, nhân định mà phát tuệ.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 8686)
Xưa, Đức Thế Tôn dạy các đệ tử: “Chớ ngủ hai đêm, dưới cùng một gốc cây”. Lời dạy, thoạt nghe có vẻ ngộ nghĩnh, gần như chẳng quan trọng gì, nhưng khi được Thầy chỉ rõ hơn, đệ tử mới biết rằng, một lời, dù đơn sơ, từ kim khẩu Đức Thế Tôn, đều là một bài pháp.
03 Tháng Giêng 2015(Xem: 7414)
Lịch sử là một vở kịch mà trong đó các diễn viên luôn thay đổi và trình diễn không ngừng. Trên sân khấu đó, cái nhìn của người thưởng ngoạn- cũng là diễn viên- được nhận diện khác biệt giữa Tây phương và Đông phương.
30 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 8338)
Đi chùa, dâng hương, lễ Phật là một trong những pháp tu căn bản của hàng Phật tử tại gia. Hàng xuất gia cũng nhờ lễ Phật mà nghiệp chướng tiêu trừ, công đức tăng trưởng, thành tựu đạo nghiệp.
21 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 5966)
Tuổi tác rất quan trọng nhưng phẩm hạnh còn quan trọng hơn rất nhiều đối với nhân cách của một người. Nhất là trong nhà đạo thì phẩm hạnh đặc biệt được xem trọng. Chính phẩm hạnh và tuệ giác đã tạo nên tính cách trưởng lão chứ không phải là tuổi tác. Thế Tôn đã xác quyết điều này như tinh thần pháp thoại dưới đây:
17 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6863)
Cuộc đời này có vui không? Có, nhưng vui thì ít mà khổ thì nhiều, vui rất khó tìm mà lại dễ mất, vui không bao giờ là quà tặng cho số đông. Nhờ có chút niềm vui trong năm dục mà an ủi phận người, tiếp thêm nghị lực và sức sống cho con người. Tuy có vui nhưng Đức Phật dạy niềm vui ấy thật mong manh,
07 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 6894)
Chúng ta đều biết, người ta sống ở đời mỗi người đều có một thế mạnh, sở trường và sở đoản khác nhau. Biết khai thác và phát huy thế mạnh đồng thời biết khắc phục và tránh né những thế yếu của mình là nền tảng của mọi thành công.
04 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7940)
Người tu tuy mang hạnh nguyện “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”, nhưng sau nhiều năm tu học nhờ công đức làm lợi mình lợi người nên phước báo ngày càng lớn lên. Phước báo có công năng diệu kỳ, dù người tu không vọng cầu nhưng tứ sự (thực phẩm, y phục, thuốc men, sàng tòa) luôn đầy đủ, sung mãn. Và cũng từ đây, lợi dưỡng cùng cung kính bắt đầu đoanh vây đời sống xuất gia.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7433)
Vì sao người tu phải tránh “những điều luận bàn của thế tục”? Thực ra luận bàn để trau dồi và nâng cao tri thức thế gian cũng rất tốt, cần thiết cho cuộc sống nhưng nó không dẫn người tu đến các pháp lành, không đi đến Phạm hạnh, không đến được chỗ tịch diệt. Đây là chỗ người tu hướng đến giải thoát, Niết-bàn cần hết sức lưu tâm. Người tu thì nên nói chuyện tu, không nói chuyện đời mà chỉ “bàn luận về mười việc công đức”, chính là lời căn dặn của Thế Tôn.