BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Riêng tại Việt Nam, bản dịch của ngài Huyền Trang được chuyển sang chữ quốc ngữ Hán Việt và thường dùng để trì tụng hằng ngày. Quý vị cao tăng cũng có phát hành nhiều sách để giải thích nghĩa kinh, trong đó các sách của quý Hòa thượng Thích Thiện Hoa, Thích Thanh Từ, và Thích Nhất Hạnh là phổ thông nhất. Sau đây là một số bài dịch Việt-Anh của Tâm Kinh: Bản tụng Hán Việt: Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Bản dịch nghĩa: Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn. Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. Bản phổ kệ: Bồ Tát Quán Tự Tại Nghe đây Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử nghe đây: Vì không có sở đắc Chư Bụt trong ba đời Cho nên tôi muốn thuyết Yết đế, Yết đế Phổ thơ lục bát: Khi hành Bát Nhã Ba La Nầy Xá Lợi Tử xét ra Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng Sở thành, sở đắc bởi không Ba đời chư Phật sau, xưa Yết đế, yết đế Bản dịch Việt: Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng 1. Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác vô thượng (1), Người Tỉnh Thức Bình Yên (2) soi sáng như thật rằng tự tịnh của năm hợp thể (3) đều là Không (4), liền thoát ly mọi khổ ách. 2. Này người con dòng Sari (5), hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể. Hình thể là chân không, chân không là hình thể. Cảm xúc (6), niệm tự (7) và tư duy (8) và ý thức (9) đều là như vậy. 3. Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không, nó không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm. 4. Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức (10); không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, xúc chạm (11) và hiện hữu (12). Không có đối đượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức; không có minh, không có vô minh (13), không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau và không có con đuuờng đưa đến sự chấm dứt khổ đau (14); không có tri giác (15) cũng không có sự thành tựu tri giác, vì chăng có quả vị của tri giác nào để thành tựu. 5. Người Tỉnh Thức Bình Yên, do sống an lành trong Tuệ giác vô thượng mà thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. 6. Tất cả chư Phật trong ba đời (16) đều nương tựa vào Tuệ giác vô thượng mà thành tựu (17) chánh giác. 7. Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác vô thượng là sức thần (18) kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng: "Đi qua, đi qua Chú thích: (1) Trí tuệ Bát nhã (Prajnàpàramità). (6) Thọ uẩn (10) Sắc, thọ, tưởng, hành, thức (5 uẩn). Bản phổ thơ Anh ngữ: THE HEART SUTRA The Bodhisattva of Compassion, Here then, Form is only emptiness, All things are the primal void, So, in emptiness, no form, No ignorance nor all that comes of it, Nor is there pain, or cause of pain, So know that the Bodhisattva, All Buddhas of past and present, Hear then the great dharani, Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha Bản dịch Anh ngữ: GREAT WISDOM BEYOND WISDOM HEART SUTRA Avalokiteshvara Bodhisattva, when practicing deeply the Prajna Paramita, perceived that all five skandhas in their own being are empty and was saved from all suffering. O Shariputra, form does not differ from emptiness; emptiness does not differ from form. That which is form is emptiness; that which is emptiness form. The same is true of feelings, perceptions, formations, consciousness. O Shariputra, all dharmas are marked with emptiness. they do not appear nor disappear, are not tainted nor pure, do not increase nor decrease. Therefore in emptiness: no form, no feelings, no perceptions, no formations, no consciousness; no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, no mind; no color, no sound, no smell, no taste, no touch, no object of mind; no realm of eyes...until no realm of mind-consciousness; no ignorance and also no extinction of it...until no old-age and death and also no extinction of it; no suffering, no origination, no stopping, no path, no cognition, also no attainment with nothing to attain. A bodhisattva depends on Prajna Paramita and the mind is no hindrance. Without any hindrance no fears exist. Far apart from every perverted view one dwells in nirvana. In the three worlds all buddhas depend on Prajna Paramita and attain unsurpassed complete perfect enlightenment. Therefore, know the Prajna Paramita is the great transcendent mantra, is the great bright mantra, is the utmost mantra, is the supreme mantra which is able to relieve all suffering and is true not false; so proclaim the Prajna Paramita mantra, proclaim the mantra that says: Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha Bản dịch Anh ngữ: THE HEART OF PERFECT WISDOM SUTRA
( Prajna Paramita Hridaya Sutra )
Translated by TRUC HUY
The Bodhisattva Avalokitesvara, from the deep course of Prajna wisdom, saw clearly that all five skandhas were empty, thus sundered all bonds of suffering.
Sariputra, know then: form does not differ from emptiness, nor does emptiness differ from form. Form is no other than emptiness, emptiness no other than form. The same is true of feelings, perceptions, impulses and consciousness. Sariputra, all dharmas are marked with emptiness. None are born or die, nor are they defiled or immaculate, nor do they wax or wane. Therefore, where there is emptiness, there is no form, no feeling, no perception, no impulse, nor is there consciousness. No eye, ear, nose, tongue, body, or mind. No color, sound, smell, taste, touch, or object of mind. There is no domain of sight, nor even domain of mind consciousness. There is no ignorance nor is there ceasing of ignorance. There is no withering, no death, nor is there ceasing of withering and death. There is no suffering, or cause of suffering, or cease in suffering, or path to lead from suffering. There is no cognition, nor even attainment. So know that the Bodhisattva, indifferent to any kind of attainment whatsoever but dwelling in Prajna wisdom, is freed of any thought covering, get rid of the fear bred by it, has overcome what can upset and in the end reaches utmost Nirvana. All Buddhas of past and present, and Buddhas of future time, through faith in Prajna wisdom, come to full and perfect Enlightenment. Therefore, one should know the Prajna paramita as the mantra of great knowledge, the miraculous, the utmost, the unequalled mantra, whose words relieve all suffering. This is highest wisdom, true beyond all doubt. Know then and proclaim the Prajna paramita mantra. It spells like this: Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
( Gone, gone, gone beyond, gone altogether beyond, Bodhi, rejoice! )
(English translation: Trúc Huy)
Bản dịch Pháp ngữ: LE SUTRA DE L'ESPRIT DE LA GRANDE VERTU
DE SAGESSE
( Prajna Paramita Hridaya Sutra )
Traduit par TRÚC HUY
Lorsque le Bodhisattva Avalokitesvara accomplit profondément la grande Vertu de Sagesse, il considéra les cinq agrégats comme vides et traversa ainsi toutes les souffrances et afflictions.
Sariputra, les formes ne sont pas différentes du vide, le vide n'est pas différent des formes. Les formes ne sont rien d'autre que le vide, le vide n'est rien d'autre que les formes. Il en est de même des sensations, des perceptions, des formations mentales et de la conscience. Sariputra, tous ces dharma ont l'aspect du vide. Ils ne naissent ni ne disparaissent. Ils ne sont ni souillés ni purs. Ils ne croissent ni ne décroissent. C'est pourquoi, dans le vide, il n'y a pas de forme, de sensation, de perception, de formation mentale, ni de conscience. Il n'y a pas d'oeil, d'oreille, de nez, de langue, de corps, ni de mental. Il n'y a pas de couleur, de son, d'odeur, de saveur, de toucher, ni d'objet de pensée. Il n'y a pas de domaine du visuel ni même de domaine de la connaissance mentale. Il n'y a pas d'ignorance et pas plus de cessation de l'ignorance. Il n'y a pas de vieillesse ni de mort, et pas plus de cessation de vieillesse ni de mort. Il n'y a pas de souffrance, d'origine de la souffrance, de cessation de la souffrance, ni de chemin qui mène à la cessation de souffrance. Il n'y a pas de connaissance ni même d'obtention. Comme il n'y a rien à obtenir, c'est pourquoi les Bodhisattva s'appuient sur la Vertu de Sagesse. Leur esprit ne connaît pas d'entrave, ainsi ils n'ont pas de peur. En se libérant des erreurs et des égarements, ils atteignent enfin l'ultime Nirvana. Tous les Bouddhas du passé, du présent et du futur, en s'appuyant sur la Vertu de Sagesse, ont obtenu le suprême et parfait Éveil. Aussi professe-t-on la grande Vertu de Sagesse, par un mantra miraculeux, un mantra de grande connaissance, un mantra insurpassable, un mantra sans égal, qui supprime toute souffrance, en vérité et sans fausseté. Voilà donc le mantra qui proclame la grande Vertu de Sagesse. Ce mantra dit: Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi svaha!
( Allez, allez, allez au-delà, allez complètement au-delà, sur la rive du Satori! )
|