TÔI HỌC KIM CANG
“…ƯNG TÁC NHƯ THỊ QUÁN!”
ĐỖ HỒNG NGỌC
Như đã nói, học hỏi, nghiền ngẫm Kim Cang, một người bình thường như tôi hết chưng hửng này đến chới với khác, nhưng chưa có lúc nào chưng hửng và chới với như lúc đọc đến phần kết của kinh! Thực ra với tôi, Kim Cang phần nào cũng là phần kết, câu nào cũng là câu kết! Nhiều lúc cứ tưởng đã hết, đã dứt, đã xong rồi, ai dè lại mở ra một khung trời mới, lồng lộng hơn, thăm thẳm hơn, kỳ lạ hơn. Cứ cuồn cuộn như thế.
Ở đoạn kết, kinh đang bàn đến những chuyện vời vợi cao xa từ vi trần đến tam thiên đại thiên thế giới, rồi nhất hiệp tướng này nọ… bỗng đột ngột đặt lại câu hỏi “Vân hà vị nhơn diễn thuyết?”(diễn giảng cho người cách nào đây?) như vốn là chủ đề chính xuyên suốt của buổi “gươm báu trao tay” này cho những trai thiện gái lành, các vị Bồ tát tương lai! Câu trả lời chắc nịch: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”! Nghĩa là dễ lắm, đừng có bám vào hiện tượng thì sẽ thấy được bản chất, thấy được cái Chân Như đời đời bất động đó thôi! Nhưng làm sao để “bất thủ tướng”, làm sao để được “như như bất động” khi quanh ta đầy những chằng chịt, quấn quít không ngơi? Đang băn khoăn thắc mắc như vậy thì “Hà dĩ cố” (tại sao vậy?), rồi gút: “Ưng tác như thị quán”!
Như thị quán? Quán cái gì? Quán cách nào? Quán để làm gì? Câu trả lời là thì cứ “quán” (xem xét, quan sát) mấy cái chuyện sờ sờ trước mắt đó, những chuyện mà ai cũng thấy cũng biết, cũng nói tới nói lui từ lâu rồi đó thôi! Trớt quớt! Tưởng cái gì ghê gớm lắm, ảo diệu lắm, cao siêu lắm! Ai dè bảo cứ quán những cái rất tầm thường như giấc mộng, như cầu vồng, sương mai, ánh chớp… Chẳng có gì mới mẻ, lạ lùng cả! Đơn giản vậy thôi sao? Đơn giản vậy mà giải quyết được rốt ráo vấn đề cốt lõi làm sao để an trụ tâm, làm sao để hàng phục tâm và từ đó mà “thọ trì đọc tụng, vị nhơn diễn thuyết” Kim Cang ư? Kim Cang bảo đúng vậy, chỉ cần vậy! Cứ “ưng tác như thị quán” là xong! Không chưng hửng ngỡ ngàng sao được!
Nhớ lại lúc ban đầu, khi tiếp cận Kim Cang, cũng tưởng sẽ gặp cái gì ghê gớm lắm, cao siêu lắm, ai dè toàn kể chuyện Phật đói bụng, bưng bình bát đi xin cơm, về trải tọa cụ ngồi ăn, xong dọn dẹp y bát, rồi xếp bằng… thở! Chỉ có vậy! Rồi đến đoạn cuối này, những tưởng sẽ gặp cái gì cao siêu lắm, uyên áo lắm ai dè cũng chỉ bảo hãy cứ quan sát những hiện tượng tầm thường hằng ngày mà ai cũng thấy cũng biết! Để chi vậy? Để thấy vô thường, thấy ảo hóa…? Thì mọi người đã chẳng nói rồi đó ư? “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì (Nguyễn Công Trứ), rồi nào cuộc đời “… Như gió nổi như mây thổi như chiêm bao…” (Cao Bá Quát), rồi nào “… Giấc Nam Kha khéo bất bình/ Bừng con mắt dậy thấy mình tay không” (Nguyễn Gia Thiều)? Đó ư?
Nhưng vì sao mà một người như Lục tổ Huệ Năng chỉ nghe lóm một câu trong kinh Kim Cangmà đại ngộ? Vì sao mà một người như Nguyễn Du đã phải nghiền ngẫm kinh Kim Cang đến ngàn lần để rồi phát hiện: Chung tri vô tự thị chân kinh! (Cuối cùng mới hiểu ra kinh không chữ mới thật là chơn kinh!).
Kinh không chữ ư? Ô hay, có lẽ nào Kim Cang mà ta đang đọc, đang nghiền ngẫm đây chỉ là… cái vỏ của kinh, cái tạm mượn để nói lên bằng thứ tiếng người, ghép chữ nghĩa quanh co để làm tạm một chiếc bè qua sông? Có thể lắm chứ. Nếu không, việc gì Kim Cang cứ mỗi lần nói xong lại vội vàng xóa đi ngay, như luôn sợ người ta tưởng thiệt, bám lấy! Không phải vô cớ mà Huệ Năng bảo không biết chữ, chỉ biết nghĩa! Biết nghĩa, là biết cái ngoài chữ, không dính vào chữ. Nhưng Huệ Năng cũng bảo học Phật không được sai một chữ, không được sót một câu! Thật là thú vị!
Đọc giữa những dòng kinh, đọc kinh vô tự chắc chắn chẳng dễ chút nào! Mỗi người sẽ đọc rất khác nhau. Và như vậy nên mới có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn, để phù hợp với căn cơ của mỗi chúng sanh! Do vậy, việc phân đoạn Kim Cang rồi đặt cho mỗi đoạn một tiểu tựa, như một “toát yếu”, rõ ràng là không ổn. Nó như buộc người ta phải nắm lấy ý đó mà suy luận, bám theo ý đó mà học, mà “vị nhơn diễn thuyết”… Còn đâu là tinh thần “phá chấp” của Kim Cang?
Tôi nghiền ngẫm, thực hành Kim Cang theo kiểu của riêng mình. Có khi lắp ghép như puzzle, có khi xoay trở như rubic… Khi gặp một vấn đề trong đời sống hằng ngày, tôi tự hỏi trong trường hợp này… Kim Cang bảo sao nhỉ? À, phải ly tướng! Chỗ nào có tướng là có hư vọng! À, chỗ này ly tướng chưa đủ mà phải ly niệm! Đừng có trụ vào đâu cả để mà sanh cái tâm! Nhất là cái tâm hay “sanh sự” của mình! À, chỗ này nói vậy mà chẳng phải vậy đâu! Còn chỗ này chẳng phải vậy mà vậy đó! Tức phi mà thị danh. À, đừng có bám, đừng có chấp, đừng có khư khư! Khư khư cố chấp chỉ khổ mình thôi! Phải “bất thủ ư tướng” mới may ra thấy đựơc sự thật! Nhưng đừng tưởng là không có tướng nhé! Đừng có ngây ngô mà “đoạn diệt” tướng nhé! Núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Chỉ có cách nhìn đã khác, cách thấy biết đã khác! Con voi vẫn là con voi, vẫn đủ cả đầu đuôi đủ cả vòi. Nhưng nó là puzzle, là rubic, là lắp ghép. Nó vô thường. Nó duyên sinh. Nó vô ngã. Đừng cãi nhau chí chóe bởi cách sờ voi của riêng mình. Hãy nhìn bằng cả năm thứ mắt (ngũ nhãn) xem sao đã nhé! Nhìn thật chi ly cõi vi trần rồi nhìn thật mênh mông cõi tam thiên đại thiên thế giới đi đã, thấy được cái “nhất hiệp tướng” xem sao… Nhìn bằng cái nhìn trong mỗi sát na rồi nhìn bằng cái nhìn miên viễn ngàn năm sẽ thấy nhiều điều ngộ nghĩnh, đáng… tủm tỉm cười hơn là khổ đau và phiền não! Để rồi có hôm nào đó bỗng thấy “Lòng chợt từ bi bất ngờ…!” (Trịnh Công Sơn). Phải, từ bi với mình, và từ bi với người, Nào ngã, nào nhân, nào chúng sanh, thọ giả!
Phóng cực lớn một tấm ảnh chân dung của một người nào đó, dù rất quen, ta vẫn không thể nhận ra bởi chỉ thấy những đốm sáng rời rạc màu sắc nhạt nhòa. Những đốm sáng rời rạc nhạt nhòa đó không hề “đặc trưng” cho một ai cả. Khi tập hợp lại với một số điều kiện nào đó, ta mới lại nhận ra hình ảnh của người quen kẻ lạ…
Vật lý học hiện đại cũng nhận thấy các hạt cơ bản có tính không liên tục, chỉ có sự tương tác gắn kết để tạo ra vật chất, tạo nên cấu trúc cong xoắn của không gian - thời gian. Vật chất và không gian - thời gian là một. Vật chất không còn thì không gian - thời gian cũng không còn. Thế giới vi mô là một thế giới luôn dao động…
Kim Cang bắt đầu bằng một chuyện rất đỗi đời thường là ăn ngủ, đi đứng nằm ngồi, hít thở… và kết thúc cũng bằng một chuyện rất đỗi đời thường là mộng, huyễn, bào ảnh, sấm chớp… Thì ra những cái sờ sờ đó, những cái tầm thường đó mới là sự sống, mới là cụôc sống. Những “thực tại hiện tiền” đó mới là kiếp người. Phật từ chối nói về những chuyện siêu hình cao xa, những chuyện thần thông quái lạ. Hãy cứu lấy người đang bị trúng tên. Rút mũi tên ra, làm sạch vết thương, khử độc, băng bó... cái đã! Hạnh phúc không ở đâu xa, không từ trên trời rơi xuống, cũng không phải do ai ban phát. Hạnh phúc ở trong ta và ở quanh ta. Hạnh phúc hay khổ đau, thiên đàng hay địa ngục là những cái do ta tự… tạo ra cho mình, nên cũng phải do ta tự xoay chuyển lấy. “Phiền não vô tận” kia thực ra cũng chính là bồ đề vô lượng nọ!
Cái gì “tạo ra sự khác biệt”- nói theo kiểu thời thượng bây giờ? Tại sao trong cùng một hoàn cảnh người thì thảnh thơi tự tại mà kẻ lại quằn quại khổ đau?
Câu trả lời là để thấy thực tướng Bát nhã không thể dừng lại ở văn tự mà phải quán chiếu, nghĩa là phải thực hành, phải “hành thâm Bát nhã”! Kim Cang là để dạy thực hành đó. Muốn chữa được bệnh thì phải uống thuốc, chớ chỉ đọc… toa thuốc không thôi thì dễ bị tẩu hỏa nhập ma lắm!
Trong buổi “Gươm báu trao tay” này là để chuẩn bị cho những trai thiện gái lành - những vị bồ tát tương lai- dấn bước vào đời. Cũng có nghĩa là họ sẽ phải ăn phải uống, phải giặt giũ, đánh răng, thay quần áo…, cũng có nghĩa là họ sẽ phải thấy những điều người khác thấy, phải nghe những điều người khác nghe, phải nói những điều người khác nói. Nhưng lục độ vạn hạnh họ phải rèn tập, đi đứng nằm ngồi họ phải “trang nghiêm”, nói mà không vướng, thấy mà không mắc… Tóm lại, họ phải sống một đời sống “Ba-la-mật” thực sự thì họ mới đích thị là Bồ tát! Cho nên phải kiên trì, phải tinh tấn, phải nhẫn nhục! Trong suốt kinh Kim Cang, Phật đã rất nghiêm khắc với những điều căn bản - ắt có và đủ- đó. Có cách nào hay hơn là dạy từ những thực tế của cuộc sống… để từ đó họ có thể sống một cách hạnh phúc, và nhất là biết sẻ chia cách sống hạnh phúc đó cho mọi người? Sẻ chia, không phải như chia một cái bánh mà là dạy cách làm bánh!
Kim Cang đòi hỏi thực hành. Phải tự thân “hành thâm Bát nhã” cái đã rồi nói gì thì nói, thuyết gì thì thuyết. Tâm có thông thì thuyết mới thông.
Thiền và Quán. Đó chính là con đường Phật đã trải nghiệm. “Cứ đến. Nếm thử đi. Rồi thấy”. Đừng hý luận, đừng giáo điều. Nó như là một khoa học thực nghiệm, chính xác và phổ quát. Phải tự mình thể nghiệm thôi.
Một người thấy mộng, huyễn, bào ảnh… là mộng huyễn bào ảnh, chỉ thấy có tàn phai và huyễn hoặc đầy phiền não và khổ đau, thì người được trang bị “gươm báu” trong tay sẽ biết nhìn bằng… năm thứ con mắt, sẽ thấy đằng sau sự tàn phai, huyễn hoặc kia là duyên sinh, là không, là vô ngã, một tất yếu, Chân Như, Như Như. Cầu vồng cứ là cầu vồng, chẳng phải vì có tình yêu của ta mà cầu vồng rực rỡ, chẳng phải vì tình ta tan vỡ mà cầu vồng chóng tàn phai! Mộng, huyễn, bào ảnh có cái tuyệt vời của nó, sanh trưởng thu tàn có cái… tuyệt vời của nó. Lúc đó thỏng tay vào chợ không còn sợ bị quấy nhiễu. Sống thời @, thế giới phẳng mà không thấy đảo điên. Chẳng cũng khoái ru?
Cứ “như vậy” đó mà hàng phục cái tâm. Đó là Thiền. Cứ “như vậy” đó mà nhìn cho rõ bản chất của mọi sự vật hiện tượng. Đó là Quán. Và, chỉ có cách đó mới có thể “Bất thủ ư tướng, Như như bất động”!
Nguyễn Du đọc Kim Cang ngàn lần không uổng. Không chỉ đọc, ông đã thực sự “hành thâm”!
Mãn cảnh giai không hà hữu tướng,
Thử tâm thường định bất ly thiền.
(Nguyễn Du)
(Tất cả cảnh đều đã không rồi thì tướng còn đâu nữa?
Tâm ta đã thường định rồi, nhờ chẳng phút giây rời thiền!).
Cái Như Như - Chân Như - vốn không hề thay đổi. Chỉ có lòng ta thay đổi thôi! “Đào hoa y cựu” vẫn “tiếu đông phong” mỗi độ xuân về. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông, chẳng cần biết chàng thi sĩ Thôi Hộ kia đang đau khổ ra sao vì “nhân diện đào hoa” năm nọ chẳng biết đã biền biệt về đâu? Về đâu? Không về đâu cả! Bởi cũng chẳng đến từ đâu.
Ly tướng khác bất thủ tướng! “Ly”, mang nghĩa tránh né. Lên núi, xuống biển, cách ly với cõi nhân sinh, vui cùng cỏ cây mây nước... Còn “bất thủ” lại mang ý nghĩa không bị dính mắc một khi đã dấn thân, vào cuộc, lăn lóc trong cõi hồng trần! Ly ở ngoài còn bất thủ ở trong. Bởi “thủ” là thủ ở trong tâm. Nên bất thủ khó hơn. Đó chính là “vô tâm” của Trần Nhân Tông, là “vô niệm” của Huệ Năng. Thủ thì do “Ái” mà ra. Rồi vì thủ mà sinh “hữu”. Ái, thủ, hữu… mới sinh sự! Cho nên bất thủ tướng khó hơn ly tướng. Ly nhứt thiết tướng đã tức danh chư Phật, còn bất thủ ư tướng thì… tức danh “Như như bất động”, Như Lai, Chân như vậy!
Nhưng dù không, dù vô ngã, mọi thứ lại vẫn luôn có cái tướng của nó. “Thế gian tướng thường trụ”! Tùy duyên mà bất biến. Bất biến mà tùy duyên. Chẳng thú lắm sao? Động tâm sinh sự, thức này tưởng nọ làm rối tung cả lên là tại ta! “Phiền não vô tận” là tại ta. Tại ta sinh sự, tại ta không “như như bất động” được đó mà thôi! “… Đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây… Chiều hôm thức dậy chập chờn lau trắng trong tay…” (Trịnh Công Sơn).
“A nậu đa la Tam muội Tam Bồ đề…” có lẽ là thành quả cuối cùng, vô thực vô hư, trong khi cái tâm “Bồ đề” lại là tâm có thực, từ những hạt mầm đựơc gieo trồng, chăm bón. Thần Tú hoàn toàn có lý khi bảo phải siêng năng chăm sóc, tưới bón cho “cây bồ đề” của mình, đừng để nó héo, nó khô, cũng như phải siêng năng chùi rửa tấm gương của mình, đừng để nó bị bụi bám, nhện giăng. Tinh cần, nhẫn nhục đâu có dễ! Tự lợi và lợi tha. Không từ bi với mình thì sao có thể từ bi với người? Phải “quán tự tại” rồi mới có thể “quán thế âm”! Cho nên, ở phần cuối, Kim Cang chỉ nhắc đến “tâm Bồ đề” của các vị “bồ tát tương lai” mà không cần nói đến “A nậu đa la…” vô thực vô hư gì đó nữa. Đó chính là tinh thần rất thực tế của Kim Cang...
Nhìn lại hành trình tu thiền của Đức Phật ta thấy Ngài đã trải qua những chặng đường không kém cam go. Vượt qua tám chặng đường thiền định kinh điển mà vẫn chưa thấy đựơc lối thoát thực sự bởi lúc nào cũng còn bị cái “tưởng” đến quấy phá cho đến khi tự mình tìm ra đựơc một con đường riêng sau những tháng năm khổ hạnh miệt mài. Có thể nói đó là một bước nhảy vọt, từ lượng sang chất. Chính là cửu thiền, thiền thứ chín, diệt thọ tưởng định. Lúc đó tưởng đã không còn để quấy rối nữa, thọ cũng không còn để khơi ngòi nữa. Đã có thể “như như bất động” rồi vậy! Đã có thể thấy “…diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh mà thực ra không có một chúng sanh nào được diệt độ”! Bởi có còn sanh ra nữa đâu mà diệt! “Bất sanh bất diệt” là vậy. Như người biết giữ gìn sức khỏe, biết rèn luyện nâng cao sức khỏe thì bệnh tật không phát sinh được và như vậy thì không có lý do gì để phải… uống thuốc! Ốm đau, bệnh tật tuy có thể giảm, mà “phiền não vô tận” - từ tham sân si-… thì vẫn còn kia, nên phải có cái nhìn mới, cái “tri kiến” mới, vượt ra, vượt qua, vượt lên - paramita - thì mới giải quyết rốt ráo. Đó là con đường tất yếu mà một vị bồ tát tương lai - những trai thiện gái lành - sẽ phải kinh qua, như là điều kiện ắt có vàđủ. Thiền để thoát và Quán để vượt. “Hành thâm Bát nhã” đến độ chín muồi thì mới có thể Bất thủ ư tướng, như như bất động, từ đó mà “vị nhơn diễn thuyết” đó vậy!
Khi nhận ra Vô thường, Vô ngã, Không… thì hóa ra lại thấy cái gì cũng đáng quý, cũng tuyệt vời! Không có chuyện tiêu cực, buông bỏ ở đây! Đừng nói đoạn diệt. Kim Cang dạy rất kỹ. Thấy “thường” đã sai mà thấy “đoạn” càng sai. Thấy có đã sai mà thấy không càng sai. Bồ tát thì “bất tận hữu vi bất trụ vô vi”. Không có hữu vi thì cũng chẳng thể thấy được vô vi! Núi vẫn là núi, sông vẫn là sông, khác chăng là một hành trình miên mật của sự tu tập dài lâu để nhận ra “sắc tức thị không, không tức thị sắc”, chân không mà diệu hữu... Sự chuyển hóa chỉ có thể đến từ bên trong. Thiền và Quán. Lộ trình đã vạch. Hành trang đã đủ. Cho nên không phải vô cớ màtinh tấn và nhẫn nhục lại là những Ba la mật không thể thiếu vắng trên hành trình đi vào nội tâm.
Khi không còn chấp thủ, không còn tham ái, thì mọi thứ đã trở nên nhẹ nhàng, thong dong, tự tại.
“Gươm báu” đã được “trao tay” từ đó