Phần 4

05 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10892)

CON ĐƯỜNG CŨ XA XƯA 
(Bát Chánh Đạo) 
Phạm Kim Khánh 
Trung tâm Narada, Seattle, Hoa Kỳ 1993

Phần 4


Chánh ngữ

Chánh ngữ là lời nói có chân chánh, tức không tạo nghiệp bất thiện bằng lời nói, trái lại trau giồi những thiện khẩu nghiệp. 

Lời nói là một khả năng của con người có giá trị vô cùng trọng đại. Bằng lời nói, ta biểu lộ những tư tưởng thầm kín để chia xẻ với người khác. Người có Chánh Kiến và Chánh Tư Duy tức nhiên cũng có Chánh Ngữ. Những người khác, dầu chưa đạt đến mức cao thượng ấy, vẫn có thể tu tập, thận trọng chú tâm vào những gì mình sắp nói. Nếu con người có thể kiểm soát được cái lưỡi không xương của mình nhân loại ắt tránh được bao nhiêu phiền phức và đời sống trên thế gian này sẽ tốt đẹp hơn bao nhiêu. Lời nói trong sạch sẽ không đượm nhuần những tâm sở bất thiện như tham lam, sân hận, ganh tỵ, ngã mạn, ích kỷ v.v... 

Bốn loại khẩu nghiệp bất thiện là: nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ cộc cằn và nói nhảm nhí.

a. Không nói dối mà luôn luôn nói lời chân thật là đức hạnh đầu tiên của Chánh Ngữ. Người nghiêm trì giới này cố tránh và kiêng cữ nói lời giả dối, tức chuyện có nói không, chuyện không nói có. Người ấy nói lời chân thật, tận tâm sống chân thật, chắc chắn, đáng được tín cẩn. Tâm sở bất thiện nằm phía sau lời nói giả dối, hay ý định làm cho người khác hiểu sai sự thật, có thể khác nhau như khi nói dối để được lợi về tài sản vật chất, địa vị, quyền thế, danh vọng v.v... cho mình hay cho người thân mình thì đó là tâm tham. Nói dối cố tình làm hại người khác là tâm sân v.v... 

Nói lời giả dối tác hại cho người mà cũng làm hại chính mình. Xã hội chỉ có thể tồn tại êm thấm trong sự tín cẩn lẫn nhau khi mà người này có lý do để tín nhiệm người khác. Tật nói dối còn ảnh hưởng đến tâm tánh tự nhiên của mình. Khi đã nói dối một lần ta bị bắt buộc phải nói dối nữa để che đậy cái dối trước và như vậy, gài chặt người nói dối vào một loại cạm bẩy rất chằn chịt, không lối thoát. Lắm lúc, đến độ nào, chính người nói dối cũng không còn biết đâu là sự thật. 

Giả dối là một trở ngại quan trọng trên đường giác ngộ. Giác ngộ là thấu triệt sự thật, thấy rõ thực tướng của sự vật, còn nói dối là nói sai sự thật, cố tình làm cho người khác hiểu sai sự thật. Chứng ngộ Chân Lý là trọn vẹn tự hòa đồng với sự thật, với cái gì thật sự là như vậy. Người giả dối nghĩ một đàng nói ra một nẽo, lấy giả làm thật. Con đường giả dối hẳn là ngược chiều với con đường giác ngộ. Như vậy, cố tránh, cố kiêng cữ lời nói giả dối là vươn mình cố vượt qua khỏi phạm vi luân lý của đời sống xã hội. Vấn đề ở đây là trọn vẹn hòa đồng với Chân Lý. 

Đến mức cùng tột, chân thật là một Parami (Ba La Mật), tức là một trong mười pháp có khả năng đưa người thực hành thuần tục từ bờ mê đến bến giác (Sacca Paramita, Ba La Mật Chân Thật). Một vị Bồ Tát luôn luôn chân thật, trong sạch và chánh trực. Phương châm của Ngài là, "nói sao làm vậy, làm sao nói vậy", không hề sai chạy, không bao giờ có sự chênh lệch giữa hành động và lời nói. Đời công các Ngài như thế nào đời tư như thế ấy. Dầu có phải hy sinh mạng sống đi nữa Bồ Tát vẫn không hề nói lời giả dối. Sở dĩ chư vị Bồ Tát rất chú tâm đến hạnh chân thật như vậy là vì ảnh hưởng của sự giả dối rất sâu đậm. 

b. Không nói đâm thọc là pháp tu học thứ nhì. Danh từ "pisunavacca" được Đức Thế Tôn dùng ở đây có nghĩa là lời nói nhằm bẻ gảy tình bằng hữu. Thành ngữ mà người thế gian thường dùng là đâm bị thóc chọc bị gạo. Đi đầu này nói xấu đầu kia, rồi trở lại đầu kia đặt chuyện dèm pha người này nhằm tạo sự thù hằn, hờn giận hay chia rẽ. Đức Phật dạy: 

"Người trì giới này cố tránh và kiêng cữ, không dùng lời lẽ có tánh cách đâm thọc. Điều gì nghe ở đây, người ấy không lặp lại ở nơi khác nhằm tạo chia rẽ, hoặc nghe ở nơi khác người ấy không lặp lại ở đây với ý định làm cho hai đàng hờn giận lẫn nhau. Người ấy đoàn kết những ai chia rẽ và khuyến khích những ai đoàn kết. Không khí thuận hòa là niềm vui của người ấy. Người ấy hoan hỷ thỏa thích và phấn khởi trong sự hòa hợp và, bằng lời nói, cố gắng gieo trồng mầm mống thuận hòa" (Tăng Nhứt A Hàm. Anguttara Nikàya, 176)
Động cơ thúc đẩy, đưa đến lời nói đâm chọc thường là tâm bất mãn, sân hận hay ganh tỵ. Thấy ai thành công hay thấy người có giới đức được tôn trọng thì sanh tâm muốn hạ uy tín hoặc làm giảm suy giá trị. Đôi khi vì muốn ám hại hay muốn lấy lòng một người, cũng có khi chỉ vì thỏa thích muốn thấy người ta giận dũi cấu xé lẫn nhau. 

Đứng về phương diện nghiệp báo, quả của lời nói đâm thọc rất là tai hại. Tâm sân, làm nguyên nhân cho lời nói, đã là một căn bất thiện rồi, người có ác ý cố gây chia rẽ thường nghiền ngẩm suy tư, tìm lời lẽ để châm chích cho đúng lúc, đúng tâm lý v.v... Càng ấp ủ dưỡng nuôi trong lòng, nghiệp ác càng nặng. Nếu cố tâm bày điều giả dối để thêm bớt thì lại còn tạo thêm khẩu nghiệp giả dối. Cả hai, lời nói giả dối và lời nói đâm thọc, phối hợp lại tạo thành một khẩu nghiệp bất thiện vô cùng tai hại. 

Người nói đâm thọc tựa hồ như loài muổi, hút máu đầu này rồi đến ve vản đầu kia, hút một ít máu và trong lúc ấy, không quên để lại một phần nọc độc. Miệng nói ngọt ngào như mật nhưng tâm thì đượm nhuần chất độc. 

Lời chân chính không tạo phiền phức cho ai mà chỉ đem lại hòa hợp và an tĩnh. Thay vì gieo rắc mầm mống chia rẽ người ấy luôn luôn tạo hòa khí giữa những người bất đồng ý kiến, xây dựng tình bằng hữu giữa những người thù nghịch. 

Trong xã hội loài người chúng ta không thể sống riêng rẽ một mình mà phải tùy thuộc lẫn nhau. Vậy, trong sự lợi ích kế cận nhất của mỗi người, chúng ta hãy cố gắng tập sống chung với nhau trong bầu không khí thuận hòa, trong tình huynh đệ và trong sự điều hòa.

c. Không nói lời thô lỗ cộc cằn mà chỉ nói thanh tao nhã nhặn. Lời thô tiếng cộc biểu lộ ra ngoài tâm hung tợn bên trong và được thốt ra trong cơn nóng giận. Tánh cách thô bạo của lời nói như thế có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức như la rầy, mắng nhiếc, chưởi rủa hay nói xiêng nói xỏ v.v... tất cả đều phát sanh từ tâm bất mãn, sân hận và nhằm gây phiền muộn khổ đau cho người khác. 

Những cơn nóng giận thường bộc phát đột ngột, không có sự nghiền ngẫm suy tính, do đó hậu quả không đến nổi trầm trọng lắm. Tuy nhiên, vì nó có khuynh hướng tái diễn, nếu chúng ta lơ đểnh để lặp đi lặp lại nhiều lần ắt thành thói quen và từ đó, trở thành tâm tánh sân hận và hung bạo thì rõ ràng là một hiểm họa. Lời nói thô bạo, biểu lộ sự nóng giận, lúc nào cũng là một tai hại cho người nghe cũng như cho người nói, trong hiện tại cũng như trong tương lai. 

Vào thời Đức Phật có vài vị tỳ khưu thường nặng lời lăng mạ một vị khác và vị này trả lời lại. Đức Phật khuyên: 

"Không nên dùng lời thô lỗ cộc cằn. Người bị nói cộc sẽ trả lời thô. Những lời gây thù trả oán thô tục thật là đau đớn. Lời qua tiếng lại sẽ làm tổn thương như gây thương tích." (Kinh Pháp Cú, câu 133)
Ngài giảng dạy về sự lợi ích của người biết giữ im lặng trước những lời lăng mạ của kẻ khác như sau, "Nếu giữ được im lặng như cái mõ bể, con đã đắc quả Niết Bàn", ý nói người hành đúng như vậy, dầu còn tại thế cũng được xem như đã đắc Niết Bàn. 

Tự kềm chế, cố tránh và kiêng cữ những lời thô bạo trong cơn nóng giận là trau giồi hạnh nhẫn nhục, cũng là một Ba La Mật, Khanti Paramita, Nhẫn Nhục Ba La Mật,. Đó là chịu đựng những lời khiển trách khắc khe và khoan hồng bỏ qua những sai lầm của người khác, tôn trọng những quan điểm dị đồng và cảm thông những thiếu sót của người. Tự kiểm soát thân tâm là cái chìa khóa mở cửa đưa vào hạnh phúc và để cho những cảm xúc vô độ lượng, vô trật tự, đượm nhuần sân hận, điều khiển mình là tự đạt mình vào tình trạng nô lệ tệ hại nhất. 

Túc Sanh Truyện số 269 có thuật chuyện Bồ Tát, tiền thân của Đức Thế Tôn, là vua xứ Bernares (Ba La Nại), trong một kiếp sống. Đức Hoàng Thái Hậu, mẹ Ngài, là người hiền lương nhưng đôi khi ăn nói cộc cằn. Hôm nọ Vua cùng đi chơi với Hoàng Thái Hậu và đoàn tùy tùng, dạo chơi trong ngự uyển.Bên đàng có con chim ác là, màu sắc xanh tươi lộng lẩy, nhưng mỗi khi cất tiếng lên thì giọng kêu chác chúa, ai nấy cũng bịt tai, ngoảnh mặt than phiền. Một lúc sau, đến nơi khác có con chim chích chòe, lông đen xấu xí mà tiếng hát lãnh lót thanh tao dịu ngọt, ai cũng thích nghe, ai cũng trông cho nó hát thêm nữa để nghe. Nhân cơ hội Vua mở lời khuyên nhủ mẹ: 

"Kính Thưa Mẫu Hậu thân mến, tiếng kêu của con chim ác là thật chác chúa khó chịu, ai cũng muốn xa lánh. Thật không ai thích nghe lời thô lỗ. Chim chích chòe trái lại, mặc dầu đen đúa xấu xa nhưng đã thu hút mọi người bằng giọng hát thanh nhã dịu hiền. Như vậy, lời nói của ta phải cẩn ngôn, êm dịu, hiền lành, đầy ý nghĩa v.v..."
Do lời khuyên của người con sáng suốt kể từ đó về sau Hoàng Thái Hậu giữ gìn lời ăn tiếng nói và trở nên thanh nhã dịu hiền.

d. Không nói nhảm nhí mà chỉ nói lời hữu ích. Pháp học này được Đức Phật dạy như sau: 

"Người (thọ trì phẩm hạnh này) cố tránh và kiêng cữ nói lời nhảm nhí, vô ích. Người ấy nói đúng lúc, đúng như sự việc xảy ra, nói những lời hữu ích, nói về Giáo Pháp và Giới Luật. Lời nói của người ấy là một kho tàng, thốt ra đúng lúc, hữu ly, hòa nhã và đầy ý nghĩa." (Tăng Nhứt A Hàm, Anguttara Nikàya, bài số 176)
Lời nói nhảm ắt vô ý nghĩa, nông cạn và không mang lại lợi ích nào. Những lời lẽ như thế ấy chỉ khơi động vọng tâm. Đức Phật khuyên nên hạn chế những ngôn từ thuộc loại này. Đối với bậc xuất gia, lời nói phải thật là cẩn ngôn, phải được chọn lọc và chỉ nói những gì thích hợp với Giáo Pháp. Ngài dạy: 
"Này chư Tỳ Khưu, khi các con tụ họp đông đảo thì chỉ có hai việc nên làm: hoặc thảo luận về Giáo Pháp, hoặc im lặng cao thượng." (Trung A Hàm, Majjhima Nikàya, bài số 26)
Thảo luận về Giáo Pháp là đề cập đến bản chất thật sự của vạn hữu, là đề cập đến Con Đường dẫn đến chứng ngộ Chân Lý cùng tột, Niết Bàn, và do đó, quả thật là hữu ích. Đàng khác trầm lặng là một hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn. Lại nữa, khi ẩn rút trong im lặng chúng ta hoàn toàn đơn độc để nhìn vào bên trong chúng ta, vào bản chất thật sự của chúng ta, để tận tường thấy rõ mình như thật sự mình là vậy. Chừng đó ta có thể học được phương cách vượt qua những khuyết điểm và giới hạn của cuộc sống bình thường. Hàng cư sĩ tại gia, vì nhu cầu xã hội, còn phải cần nói năng lịch thiệp trong câu chuyện giao dịch hằng ngày. Mặc dầu vậy, Đức Phật dạy không nên lơ đểnh để buông trôi quá xa, vì người chú nguyện đi trên con đường giải thoát phải hết sức thận trọng phân biệt điều nào sẽ dẫn đi đâu, và phải luôn luôn chuyên cần canh chừng "anh chàng nói láo" sâu ẩn lẫn trốn bên trong chúng ta một cách rất là kín đáo. 

Không nên nói lời nhảm nhí mà luôn luôn có lời hữu ích. Vào thời Đức Phật có tên sát nhân khát máu nọ gia nhập vào đảng cướp, gây nhiều tội ác và về sau trở thành đao phủ thủ của triều đình. Nhờ Đức Sàriputta (Xá Lợi Phất) cảm hóa, tánh tình anh đổi hẳn từ hung tàn bạo ngược trở nên hiền lành lương thiện và sau khi chết tái sanh vào cảnh Trời. Đức Phật giải thích rằng sở dĩ anh tái sanh tốt đẹp là nhờ lời khuyên hữu hiệu đượm nhuần từ bi của bậc đạo đức cao thượng. Ngài dạy: 

"Chỉ một lời nói hữu ích, làm cho người nghe an tĩnh, còn quý hơn cả ngàn tiếng nói vô ích." (Kinh Pháp Cú, câu 100)
Không phải nói nhiều mà chứng tỏ rằng mình học rộng biết nhiều. Cũng không phải nói nhiều mà mình tạo lợi ích cho mình hoặc cho ai khác. Kinh sách Tây Tạng có lời dạy rằng nói nhiều lắm khi đưa đến hậy quả tai hại, như trường hợp con két, vì ham nói mà phải chịu cảnh chim lồng. 
 
 

Chánh nghiệp

Chánh nghiệp là tạo nghiệp chân chánh, tức không sát sanh, không trộm cắp và không tà dâm, ba điều tu tập đầu tiên trong ngũ giới. Giới thứ tư, vọng ngữ, đã đề cập đến trong phần Chánh Ngữ. Phần lớn các kinh sách không đề cập đến giới thứ năm -- không dùng chất say -- trong Chánh Nghiệp. Nên hiểu rằng không dễ duôi uống rượu và dùng các chất say là giữ gìn tâm cho được luôn luôn sáng suốt để luôn luôn quyết định chân chính.

a) Không Sát Sanh: là không có ý cắt đứt, ngăn chặn, tiêu diệt hay làm trở ngại sức tiến triển của năng lực một đời sống, không cho nó liên tục trôi chảy, là không làm tổn thương cuộc sống của bất luận sinh vật nào, cũng không sai biểu, xúi dục hay quyến dụ người khác làm những điều này. Trong hình thức thô sơ nhất, hành động sát sanh gồm đủ năm yếu tố là: Có một sinh vật đang sống, có sự hiểu biết rằng sinh vật ấy đang sống, có ý định cắt đứt sự sinh sống của sinh vật ấy, có sự cố tâm cố gắng làm cho con vật chết và chính tác động sát sanh.

Đức Phật dạy: "Ai cũng run sợ trước gậy gộc. Tất cả đều qúy trọng đời sống. Hãy lấy bụng ta suy lòng người. Không nên giết cũng không nên làm cho người khác giết." (Kinh Pháp Cú, câu 129).

Một ngày nọ khi vào thành Savatthi (Xá Vệ) để trì bình Đức Phật thấy một đám trẻ con cầm gậy xúm lại đập một con rắn nước. Ngài dừng chân lại hỏi:

- Này các con, các con đang làm gì đó?

- Bạch Ngài chúng con đập con rắn.

- Tại sao các con đập nó?

- Bạch Ngài, vì chúng con sợ nó cắn.

Đức Phật mở lời khuyên rằng trong khi làm đau đớn con rắn các con hãy nghĩ đến chính các con. Hành động hung bạo này sẽ làm tổn thương đến hạnh phúc của các con trong tương lai. Người nào muốn tìm hạnh phúc cho mình chớ nên đánh đập kẻ khác. Và Ngài dạy:

"Kẻ nào tìm hạnh phúc cho chính mình bằng cách hành hạ chúng sanh khác, cũng ưa thích an lạc, kẻ ấy sẽ không được hạnh phúc."
Khi giảng về Trì Giới Ba La Mật (Sĩla Paramita), Đại Đức Nãrada có lời khuyên dạy như sau:
"Mọi người đều quý trọng đời sống của mình. Không ai có quyền cướp sự sống của kẻ khác. Bồ Tát rải tâm từ đến tất cả chúng sanh, cho đến những con vật bé nhỏ đang bò dưới chân và không khi nào sát hại hoặc làm tổn thương một sinh vật nào. Con người vốn sẵn có một thú tính xúi dục giết hại những chúng sanh khác để ăn thịt mà không chút thương hại. Cũng có khi sát sanh, như săn bắn hay đi câu, để tiêu khiển thì giờ. Dầu để nuôi sống thân mạng hay để tìm thú vui, không có lý do nào chánh đáng để giết một sinh linh hoặc làm một cách nào khác cho một sinh linh bị giết. Có những phương pháp tàn nhẫn, ghê tởm, cũng có những phương pháp mà ngươi ta gọi là "nhân đạo" để sát sanh. Nhưng, làm đau khổ một chúng sanh khác là thiếu lòng từ ái.

Giết một con thú đã là hành động bất chánh, nói chi đến giết một người, mặc dầu nhiều lý do đã được viện ra, gọi là chánh đáng, có khi gọi là cao qúy, để con người tàn sát con người."

Để giải thích cho một thanh niên tên Subha, thắc mắc trước trạng huống bất đồng giữa loài người Đức Phật dạy:
"Nếu người kia trọn đời chỉ biết sát sanh, nguời thợ săn chẳng hạn, bàn tay luôn luôn đẫm máu, hàng ngày sống trong sự giết chóc và gây thương tích không chút xót thương. Do tính hiếu sát ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ yểu mạng.

"Nếu người kia luôn luôn thận trọng, không hề xúc phạm đến cuộc sống của ai, sống xa gươm đao giáo mác và các loại vũ khí, lấy lòng từ ái đối xử với tất cả chúng sanh. Do sự không sát sanh ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ trường thọ.

"Nếu người kia độc ác, luôn luôn tìm cách hại người, luôn luôn dùng đấm đá và gươm đao đối xử với mọi người. Do nết hung dữ bạo tàn ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ ươn hèn yếu bệnh hoạn. 

"Nếu người kia không bao giờ làm tổn thương ai. Do đức tánh hiền lương nhu hòa ấy, nếu tái sanh trong cảnh người, người ấy sẽ mạnh khỏe... " (Kinh Cũllakammavibhanga Sutta số 135 của bộ Trung A Hàm, Majjhima Nikãya).

Quả của nghiệp sát sanh nặng hay nhẹ tùy theo tầm quan trọng của chúng sanh bị giết vì sự cố gắng để thực hiện hành động sát sanh và tai hại gây ra khác nhau. Sát hại một người thánh thiện là gâsy nhiều tai họa hơn là giết một tương cướp.

b. Không trộm cắp: là không có ý lấy hoặc xúi dục người khác lấy một vật có chủ mà không được cho đến mình. "Lấy một vật không được cho đến mình" có thể bao gồm nhiều hình thức như trộm cắp, tức lén lút lấy của người như móc túi, khoét vách đào ngạch vào nhà lấy trộm v.v... ; như cướp gịưt tức công khai lấy của người bằng võ lực hoặc bằng cách hăm dọa, lẹ làng gịưt lấy món đồ rồi bỏ chạy, làm cho người ta không kịp trở tay; như gian lận, tức giả dối, tráo trở dành quyền sở hữu của một người khác; như lường gạt, buôn bán của ít nói nhiều, giá thấp nói cao hay đo, lường, cân thiếu, của hư xấu nói tốt, v.v... Tất cả những hình thức trên đều tạo nghiệp trộm cắp.

Một khi nhân đã gieo rồi thì qủa đương nhiên ắt phải trổ, sớm hay chầy, nơi này hay nơi khác. Theo đúng giáo huấn của Đức Bổn Sư, không thể van lơn cầu cạnh hay hối lộ hoặc gian lận bằng cách nào mà ta có thể đổi được định luật nhân qủa, cũng không thể lẩn trốn nơi nào, dầu trên trời lồng lộng mênh mông, giữa đại dương sâu thẳm hoặc ở thâm sơn cùng cốc mà ta có thể tránh khỏi hậu quả của nghiệp bất thiện đã tạo. Không có vị Trời nào, chí đến Đức Phật đi nữa, có thể can thiệp vào sự báo ứng của nghiệp. Qủa của nghiệp trộm cắp là nghèo nàn, khốn khổ, bị thất vọng và làm thân nô bộc.

Năm chi tạo nghiệp trộm cắp là: Có một vật sở hữu của người khác, mình biết như vậy, mà có ý định đoạt vật ấy làm sở hữu của mình, rồi cố gắng đoạt lấy.

Người thực hành Chánh Nghiệp lánh xa mọi hình thức trộm cắp, dầu là sự trộm cắp hiển nhiên, lộ liễu hay vi tế, kín đáo, ẩn núp dưới một lớp gì khác, trái lại, luôn luôn cố gắng phát triển những đức hạnh thanh bạch, liêm khiết, chân thật và chánh trực.

c. Không tà dâm: tức là giữ gìn đời sống gia đình cho được trong sạch, không lang chạ phóng túng, là pháp tu học thứ ba trong Chánh Nghiệp.

Về phương diện luân lý giới này nhằm bảo vệ hạnh phúc gia đình, không để cho người ngoài xâm phạm vào tình trạng an lạc trong nhà, tạo sự tín cẩn lẫn nhau và xiết chặt tình nghiã giữa vợ và chồng. Về mặt đạo đức, giới này giúp làm giảm thiểu năng lực tự nhiên có chiều hướng lan rộng của dục vọng và đằng khác tăng trưởng hạnh từ khước buông bỏ và tự chế của lối sống thanh cao.

Lẽ dĩ nhiên đời sống độc thân của các vị tu sĩ chân chánh là hình thức trong sạch đáng qúy trọng nhất, vì các Ngài có thể tận dụng tất cả năng lực và thì giờ của mình để phục vụ kẻ khác. Tuy nhiên, Đức Phật là vị giáo chủ thực tế, Ngài không bao giờ trông chờ hàng tín đồ tại gia cư sĩ sống cuộc sống của các bậc xuất gia. Hiểu biết bản năng và những kích thích của đời sống, khát vọng và những thúc giục của con người Đức Bổn Sư không ép buộc người Phật Tử cư sĩ sống tuyệt đối độc thân như các vị Tỳ Khưu. Nhưng Ngài khuyên chúng ta nên thận trọng, đừng để sai lầm làm nô lệ cho thể xác và do đó, làm giảm suy phẩm giá con người.

Quả của nghiệp Tà dâm là có nhiều kẻ thù và đời sống gia đình, giữa vợ và chồng, không có hạnh phúc.
 
 

Chánh mạng

Chánh Mạng là hành nghề chân chánh để nuôi mạng. Kinh sách thường đề cập đến năm nghề không nên làm là: Buôn bán khí giới, nuôi hay bán thú để làm thịt, buôn bán người để làm nô lệ, buôn bán độc dược, buôn bán rượu và các chất say. Tinh thần của năm điều kiêng cữ này là không nên nuôi mạng sống bằng những nghề mà, trong khi hành , ta trực tiếp hay gián tiếp tạo nghiệp bất thiện.

Trong bài thuyết minh về Tứ Diệu Đế, đạo hữu V.F. Gunaratna viết:

"...Cuộc chiến đấu để sống và những nhu cầu khẩn thiết được tạo nên để bảo tồn đời sống cá nhân và nuôi sống gia đình bắt buộc con người phải xem công cuộc làm ăn sinh sống là một vấn đề trọng đại và do đó, có một thúc dục cấp bách đẩy con người đi dài theo kiếp sống để thành tựu điều này.

"Xét rằng những gì công bằng và lịch sự đều bị vứt bỏ, biến tan theo chiều gió, và xét rằng những hậu qủa tai hại sẩy đến cho kẻ khác sẽ bị lãng quên, không ai để ý đến, con người có thể bị quyến rũ đi vào con đường bất chánh. Đó là điều mà chúng ta phải thận trọng giữ mình, đừng để bị rơi vào những quyến rũ tương tợ. Bằng mọi giá chúng ta phải giữ cho Chánh Mạng của mình được trong sạch. Yếu tố Chánh Mạng dẫn đến giới đức trong sạch, người hành nghề theo đúng Chánh Mạng mới có thể trang nghiêm trì giới, bằng cách tránh xa sự buôn bán khí giới, bán thú để làm thịt, bán người làm nô lệ, bán rượu, bán độc dược.

"Thông thường ta nghĩ rằng phải tránh chỉ có bấy nhiêu nghề đó để giữ cho Chánh Mạng được trong sạch. Không phải chỉ có vậy. Trong bộ Trung A Hàm, Majjhima Nikãya, có đoạn ghi rằng hành những nghề có "sự lường gạt, nịnh bợ, mờ ám, chia rẽ, cố ăn" đều được sxem là không Chánh Mạng. Một cách tổng quát , như đã ghi trong Trường A Hàm Dĩgha Nikãya, Chánh Mạng được xem là tránh xa những lối sống bất chánh và sống đời chân chánh."

Các vị Tỳ khưu sống không nhà cửa, không gia đình, và tất cả tài sản chỉ bao gồm có bộ y và bình bát. Các Ngài không phải buôn bán hay làm lụng để sinh sống như người tại gia cư sĩ nhưng cũng có giới Chánh Mạng. Ngài Đại Đức Ledi Sayadaw phân làm bốn loại Chánh Mạng cho các vị tu sĩ là:

1. Tránh xa sự nuôi mạng bằng những phẩm hạnh sai lạc như phạm một trong ba thân bất thiện nghiệp và bốn khẩu bất thiện nghiệp.

2. Tránh xa sự nuôi mạng bằng những phương tiện bất chánh, đối với nhà sư như nịnh bợ, đưa thơ từ qua lại v..v...

3. Tránh xa sự nuôi mạng bằng cách gạt gẫm người khác như dụ dỗ người theo mình tu học để được phép thần thông hay khoe mình đã đắc Thánh Qủa, hay nói cho người ta bực mình phải cho ra một vật gì để mình đi cho rồi, hoặc nữa, bỏ ra một món quà nhỏ để câu lấy một món qúy giá hơn...

4. Tránh xa sự nuôi mạng bằng những kiến thức trần tục như coi tướng số, bói quẻ...

Tóm lại, Chánh Mạng tạo điều hòa trong đời sống xã hội và đem lại an lành hạnh phúc cho từng cá nhân. Nếu người sống tà mạng hàng ngày gạt gẫm, giết chóc, hoặc say sưa, trộm cắp và do đó gây xáo trộn cho toàn thể cộng đồng thì người có Chánh Mạng đem lại tình trạng an toàn, hòa hợp cho tất cả mọi người.

Ba chi Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng hợp thành phân hạng giới, hay phần luân lý trong Bát Chánh Đạo. Giới là những quy tắc đạo đức có tác dụng như tấm bảng màu đỏ dựng bên lrề đường để cảnh cáo hiểm họa sa đọa, những gì không nên làm, những điều nên tránh (varitta). Đằng khác Giới cũng là nếp sống kỷ cương được xem như những tảng đá vững chắc cẩn trên con đường đưa đến an tĩnh hoàn toàn, hạnh phúc tuyệt đối, những gì nên làm (caritta).

Giới được ban hành nhằm tạo thân và khẩu nghiệp trong sạch, nhưng chính phẩm hạnh tuyệt hảo tự nó chỉ là phương tiện. Mục tiêu tối hậu của Giới - hiểu theo Bát Chánh Đạo - là thoát ra khỏi mọi hình thức khổ đau của đời sống và vượt đến hạnh phúc trường cửu, Niết Bàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn