Để trở thành Phật tử chân chính - tập 2

31 Tháng Mười 201414:59(Xem: 5872)

ĐỂ TRỞ THÀNH PHẬT TỬ CHÂN CHÍNH - TẬP 2

Thích Đạt Ma Phổ Giác

LỜI ĐẦU SÁCH

Đôi lời bộc bạch chân thành, chúng tôi viết quyển sách này cho những ai muốn trở thành người Phật tử chân chính. Bước đầu học Phật rất quan trọng, nếu đi sai lệch sẽ làm trở ngại trên bước đường tu học. Người mới bắt đầu học Phật không hiểu đúng tinh thần Phật giáo sẽ khó được thành tựu viên mãn. Người có trách nhiệm hướng dẫn không thể xem thường kẻ mới học, cần phải xây dựng cho họ nền móng vững chắc để thực hiện đúng lời Phật dạy, biết cách phân biệt chánh tà, đúng sai, tốt xấu.

Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày mới mong trở thành người Phật tử chân chính. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh vật chất dưới sự tiếp cận của khoa học hiện đại, do đó cần phải truyền bá Phật giáo thích hợp với căn cơ, trình độ của mọi người mà vẫn giữ được bản chất giác ngộ, giải thoát.

Mục đích của đạo Phật là tìm ra lẽ thật của thân tâm và hoàn cảnh. Chúng ta phải nói ra những gì chân thật để mọi người hiểu đúng Phật giáo mà không còn nghi ngờ điều gì. Phá bỏ những tập tục mê tín của các truyền thuyết khác xen vào làm mờ tối đạo Phật là việc cần thiết tối quan trọng nhằm giúp mọi người tin sâu nhân quả theo nguyên lý duyên sinh, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau.

Ai làm người cũng muốn mình là người tốt để làm tròn bổn phận đối với gia đình, người thân và đóng góp lợi ích cho xã hội; tiến xa hơn nữa là thành tựu công đức viên mãn bằng cách giữ ý nghĩ trong sạch, không làm các việc ác, siêng làm các việc lành mà cùng nhau chia vui sớt khổ bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Một con người muốn quy hướng về Phật giáo trước hết phải tìm hiểu ý nghĩa và mục đích của đạo Phật. Đầu tiên, chúng ta phải hiểu rõ những lời Phật dạy về đạo làm người, sống như thế nào cho đúng trong đối nhân xử thế mà không làm tổn hại người khác.

Chúng ta muốn làm việc gì phải hiểu rõ mục đích của việc ấy. Mục đích của đạo Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tức là phước huệ song tu hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành Phật viên mãn mới thôi. Khi chúng ta đã thật hiểu rồi mới phát lòng tin sâu đối với Phật pháp và quyết tâm thực hành tránh dữ làm lành để đem lại an vui, hạnh phúc cho chính mình, gia đình, người thân và phục vụ tốt cho xã hội.

Phật pháp trước tiên dạy chúng ta không làm các việc ác, siêng làm các việc lành, giữ ba nghiệp thân-miệng-ý được trong sạch. Như thế nào là ác? Là những ý nghĩ, lời nói và hành động làm tổn hại người khác trong hiện tại và mai sau. Như thế nào là thiện? Là những ý nghĩ, lời nói và việc làm có lợi ích cho mình và người trong hiện tại và mai sau. Như thế nào là ý nghĩ trong sạch? Là ý nghĩ hợp với lẽ phải, không tham lam ích kỷ, không sân giận si mê, không ganh ghét tật đố, không gây hậu quả khổ đau cho mình và người khác. Ý nghĩ trong sạch được biểu hiện qua lời nói thì lời nói hiền hòa, khi biểu hiện ra nơi hành động thì hành động chân chính làm cho mình và mọi người đều an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Chúng ta muốn thực hiện ba nguyên tắc trên cho được trọn vẹn thì trong hiện tại phải bắt đầu từ đâu? Trước tiên, chúng ta sẽ phát khởi lòng tin chân chính đối với Tam Bảo. Như thế nào là lòng tin chân chính? Là tin những lời Phật dạy có lợi ích thiết thực cho tất cả mọi người, như chúng ta tin gieo nhân tốt sẽ hưởng quả tốt, gieo nhân xấu sẽ lãnh quả xấu.

Nhân quả tốt xấu sẽ theo ta như bóng với hình dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi đủ duyên quả báo đến tức thì. Ngược lại, chúng ta không tin những điều mơ hồ, viễn vông có tính cách suy đoán, mơ tưởng không phù hợp đạo lý nhân quả. Như chúng ta không tin có một vị thần linh thượng đế ban phước giáng họa là đúng lời Phật dạy, vì nhân quả ai làm nấy chịu, không ai có thể thay thế cho ai được.

Khi một người biết đi chùa, thờ Phật, lễ Phật, tụng kinh, sám hối, làm phước, cúng dường, nghe Tăng Ni thuyết pháp hoặc tham dự các khóa lễ, khóa tu có nghĩa là người đó đã xác nhận mình là Phật tử. Nhưng để trở thành người Phật tử chân chính chúng ta cần phải biết rõ mục đích cốt lõi của đạo Phật là gì.

Đạo Phật không bắt buộc người Phật tử phải thực hành những điều họ chưa thể làm được, nhưng chúng ta phải cố gắng áp dụng những điều căn bản bằng cách tránh dữ làm lành để không làm tổn hại cho mình và người khác.

Có những người đi chùa nguyện cho tai qua nạn khỏi, cầu cho gia đình khỏe mạnh bình yên, cuộc sống ngày càng thêm tốt đẹp. Nguyện cầu như thế không có gì là sai nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Lại có nhiều người nữ nghĩ mình tội chướng ràng buộc, trong một kiếp này dễ gì giác ngộ, giải thoát sinh tử nên đi chùa cầu cho kiếp sau chuyển nữ thành nam, xuất gia tu hành làm bậc đạo cao đức trọng. Họ không hiểu rằng muốn thân nữ chuyển thành thân nam thì phải từ bỏ nghiệp luyến ái chấp thân.

Có những người do hoàn cảnh đời sống gặp nhiều phiền muộn, khổ đau bởi chướng duyên nghịch cảnh nên đến chùa cầu mong hiện tại và mai sau không còn gặp cảnh bất như ý nữa. Cầu như vậy cố nhiên vẫn tốt nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Có những người cảm thấy cuộc sống trần gian không có gì bền chắc, lâu dài, dù giàu có hay quyền cao chức trọng vẫn phải lo lắng và khổ cả thân tâm. Họ mong mỏi, hy vọng đến chùa để kiếp sau được sanh lên các cõi trời hưởng thú vui vật chất lâu dài. Cầu như thế cũng là điều tốt nhưng không hợp với mục đích cuối cùng của đạo Phật.

Khi chúng ta đã tự vạch cho mình một lối đi đúng đắn thì ta cần phải tập làm quen dần với con đường mình đã vạch ra. Bất cứ người nào lần đầu tiên đến chùa cũng cảm thấy xa lạ và bỡ ngỡ. Từ cách xưng hô đến những hình thức, lễ nghi trong chùa đều làm chúng ta ngỡ ngàng, áy náy.

Có người từ nhỏ tới lớn chưa một lần bước chân đến chùa, nay bỗng dưng tới chùa quy hướng về Tam bảo rồi làm lễ quy y tự mình xác định làm đệ tử Phật. Người có chút hiểu biết khi muốn làm việc gì họ đều tìm hiểu và tham khảo trước rồi sau đó mới quyết định.

Đạo Phật là đạo giác ngộ, là đạo của con người, là đạo của tình thương, vì con người mà đạo Phật đem lại niềm an vui, hạnh phúc cho những ai có đầy đủ nhân duyên. Muốn có được niềm an vui, hạnh phúc thật sự người Phật tử cần phải có chí hướng thượng và cầu tiến bộ trong sự quyết tâm cao độ.

“Để trở thành Phật tử chân chính” là quyển sách được chia ra làm nhiều tập với đầy đủ nội dung về đạo làm người, tuy xúc tích và ngắn ngọn, đơn giản và thiết thực nhưng có thể giúp cho tha nhân phân biệt được chánh tà, phải quấy, tốt xấu, đúng sai để từng bước hoàn thiện chính mình mà sống bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Kính ghi

Thích Đạt Ma Phổ Giác

BÀI 12- CHÁNH TÍN NHÂN QUẢ PHÁ TRỪ MÊ TÍN

Đạo Phật chủ trương lấy nhân quả làm nền tảng của sự sống để phản ảnh mọi lẽ thật hư trong cuộc đời này bằng ánh sáng trí tuệ nhằm thấu suốt nguyên lý thế gian. Mọi lẽ thật giả đều hiện bày sau khi có sự chiêm nghiệm và suy xét bởi ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi lòng tin là "chánh tín". Ngược lại, tin mà không hiểu rõ cội nguồn của mọi lý lẽ là tin càn tin bướng, người tin như thế là "mê tín". Chính vì thế, người học đạo cần phải có lòng tin, song lòng tin ấy đã trải nghiệm qua sự quán chiếu, suy xét và có chọn lọc kỹ càng.

Mê tín là lòng tin mù quáng không thấy đúng lẽ thật, không thấy đúng chân lý vì mê muội. Như tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành tháng dữ, tin số mạng sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao giải hạn, tin có một người ban phước giáng họa… Những lối tin này không có logic, không đủ bằng chứng, không có lợi ích nên gọi là mê tín vì đi ngược lại với giáo lý nhân quả. Mê tín có hai loại:

Mê tín do tâm mong cầu quá đáng – Con người khi mong cầu một điều gì mà quá khả năng thì dễ sinh mê tín. Ví như một người muốn vay một số vốn lớn làm ăn nhưng không biết kết quả tốt hay xấu, lòng họ thấy băn khoăn, lo lắng mà không biết hỏi ai, tin ai. Họ nghe nói có một ông thầy biết được quá khứ vị lai, đoán trúng được vận mệnh của mọi người thì liền tìm đến cầu thầy chỉ dạy. Tiền quẻ chỉ tốn có năm bảy trăm hoặc vài ba triệu là biết việc làm thành công hay thất bại thì ai mà không ham, chính vì lòng tham và sự mong cầu quá đáng mà dẫn con người ta đến mê tín dị đoan.

Mê tín do tâm lo lắng sợ hãi – Con người ta hay lo lắng sợ hãi, suy nghĩ vu vơ là gốc sinh ra mọi điều mê tín. Có những người bị tai nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, con trai thi rớt, con gái bị bệnh… nên mất bình tĩnh, nghe đồn ông thầy đó coi tay xem tướng rất giỏi và có thể trừ được tà ma, yêu tinh quỷ mị thì liền tìm đến. Hoặc có người sợ vận sui hạn xấu nên đầu năm đến chùa cúng sao giải hạn cầu cho tròn năm cuộc sống được hanh thông, gia đình được an vui may mắn. Hoặc có người vì thương cha mẹ quá cố có thể đọa vào địa ngục chịu đói khổ nhọc nhằn nên bèn nhờ thầy cúng dán lầu kho, xe cộ cùng giấy tiền vàng bạc đốt xuống để cha mẹ được an hưởng nơi âm ty. Mọi sợ hãi đều bắt đầu từ sự mê tín.

Đã làm người ai cũng có ước mơ hay mong cầu một điều gì đó, vì mong cầu rồi sợ bất như ý nên lo lắng, sợ hãi. Chính vì chưa thấu rõ hết nguyên lý nhân-duyên-quả trong bầu vũ trụ bao la với thiên nhiên huyền bí nên con người dễ dàng rơi vào mê tín dị đoan. Dù là người học cao hiểu rộng mà trong tâm vẫn có niệm mong cầu và sợ hãi, hoặc quá tham lam cũng sẽ bị mê tín dị đoan chi phối.

Vì sao gọi là mê tín?

Mê tín là lối tin mù quáng khiến con người mất hết khả năng suy đoán và phán xét của mình. Một số người chủ trương mê tín làm mê hoặc thế gian để hưởng lợi cho riêng mình. Một cuộc sống ấm no và bền vững có được bởi con người văn minh, bởi một dân tộc có hiểu biểu chân chính khi đã thông suốt mọi lý lẽ, không cho phép sự mê tín len lỏi trong cộng đồng xã hội.

Tập tục cúng sao giải hạn

Ngày hôm nay, khoa học hiện đại trên đà tiến bộ giúp cho con người nhận ra lẽ chân thực của cuộc đời nên những tập tục cúng sao giải hạn trong các chùa chiền cần phải nên chấm dứt. Chúng ta quá lạc hậu và lỗi thời vì các ngôi sao là những hành tinh cách xa chúng ta tận bao nhiêu ngàn cây số.

Tập tục cúng sao giải hạn có nguồn gốc từ Lão giáo - Trung Hoa, không phải của đạo Phật. Có những tập tục đem lại lợi ích thiết thực giúp ích cho con người và cũng có những tập tục làm cho con người mất hết năng lực làm chủ bản thân. Tập tục cúng sao giải hạn vào những ngày đầu năm tuy có nguồn gốc từ Lão giáo nhưng ngày hôm nay hầu hết các chùa chiền đều lấy đó làm nghi lễ quan trọng đầu năm.

Mong muốn có một năm mới tốt đẹp, bình an, hạnh phúc là những ước nguyện thông thường của một con người đối với gia đình, người thân và xã hội. Tập tục cúng sao giải hạn đầu năm thực chất cũng như một phương tiện dẫn dụ con người đến với đạo Phật nhanh nhất. Tuy nhiên, khi họ đã đến với Chánh pháp rồi thì những người hướng dẫn phải chỉ dạy cho họ về Chánh tín nhân quả.

Có nhiều người đi cúng sao giải hạn đầu năm trên tay cầm theo hàng xấp giấy in ghi rõ tên tuổi để đến mỗi chùa tìm cách dán trên chiếc chuông, chiếc trống. Nhà chùa không cho dán bên ngoài chuông thì họ dán bên trong. Thử hỏi làm sao chiếc chuông có thể giải được cái hạn khi nó đã chín mùi và quả xấu đã trổ.

Mỗi năm vào ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch, hàng vạn người đội sớ trên đầu cầu xin được bình an, mong những điều xấu không đến với bản thân và gia đình. Có chùa chỉ việc ngồi đọc các tên và tuổi để cúng sao giải hạn mà cũng không hết, các thầy phải thay nhau đọc đến khản cả cổ mà danh sách vẫn còn hàng xấp.

Những người Phật tử chân chính đến chùa mong tụng một thời kinh cầu an đầu năm chờ mãi không được đành ngao ngán quay về. Có người lại lập luận rằng cúng sao giải hạn chẳng có gì xấu, cần phải cúng sao giải hạn mới thu hút được mọi người đến chùa, nếu không thì không ai tới. Ý kiến này chỉ đúng khi ngôi chùa đó chẳng bao giờ thuyết pháp, sống dựa vào những tập tục tín ngưỡng dân gian nên trong chùa thờ phượng đa sắc thái, không truyền tải được tinh thần đạo Phật chân chính với tất cả mọi người.

Như chúng ta đã biết, tất cả mọi người học Phật ai cũng hiểu giáo lý nhà Phật đều dựa trên nền tảng của nhân quả, nói cho đủ là nhân duyên quả.

Nhân là nguyên nhân, là hạt giống; quả là kết quả do gieo nhân mà được và nhờ duyên  thời tiết, chăm sóc, kỹ thuật… , nên một đời sống cá nhân hay một cộng đồng đều do nhân quả mà ra. Chính vì vậy, khi một người gieo nhân dù tốt hay xấu thì nhất định người đó phải nhận lấy kết quả tốt hoặc xấu mà mình đã gieo chỉ sớm hay muộn mà thôi. Nếu muốn hóa giải nghiệp xấu ác thì chúng ta phải nỗ lực tu tập, trì chay, giữ giới, làm nhiều việc thiện ích.

Ví dụ, khi chúng ta lỡ gieo tạo nhân sát sinh hại vật thì ta biết chắc hậu quả của nó trong nay mai là bệnh tật triền miên hoặc chếu yểu, hay thường gặp những tai nạn bất ngờ. Khi biết được thế chúng ta quyết tâm nỗ lực sám hối, bố thí cúng dường, phóng sinh… thì quả có thể trổ theo hướng khác nhẹ hơn hoặc bị triệt tiêu. Trong đời sống hằng ngày chúng ta thọ nhận những việc tốt xấu đều do chính mình tạo nhân nên khi quả tốt đến thì vui vẻ, hạnh phúc, ngược lại đành phải chấp nhận và tìm cách hóa giải nó.  

Tập tục cúng sao giải hạn là đi ngược lại lời Phật dạy trong các kinh điển, nhưng tại sao nó vẫn còn tồn tại ở các chùa chiền? Một giả định khác, nhiều người cứ đinh ninh rằng nếu đem tiền vào chùa cúng sao giải hạn thì tật bệnh sẽ được tiêu trừ và tai qua nạn khỏi. Chính đức Phật cũng từng khẳng định: Ta không có khả năng ban phước hay giáng họa cho bất kỳ ai, ta chỉ là người thầy dẫn đường, còn làm được việc tốt hay xấu là do tất cả mọi người”.

Nếu ai cũng tin sâu nhân quả thì mọi việc nên hư, tốt xấu, thành công, thất bại đều do con người tạo ra. Chúng ta cứ tạo nhân tốt thật đầy đủ thì quả tốt nhất định sẽ đến, không phải chúng ta cầu xin mà nó đến, cũng chẳng phải ta xua đuổi mà nó đi, một khi nhân đã thành quả thì phải chịu.

Song, nhân quả không phải đơn thuần mà rất đa dạng và phức tạp, chẳng phải chỉ do nhân trực tiếp ở đời hiện tại mà còn do nhân gián tiếp của nhiều đời, chỉ khi nào chúng ta tạo nhiều nhân lành thì quả xấu đến sẽ nhẹ đi hay giảm bớt đôi phần.

Tập tục đốt giấy tiền vàng mã

Trong đạo Phật không có kinh điển nào dạy đốt giấy tiền vàng mã để cúng người quá cố hoặc rải giấy tiền vàng bạc khi đưa tiễn người mất về nơi an nghỉ cuối cùng. Nhưng từ lâu, việc đốt vàng mã với Phật tử nói riêng và những người có tín ngưỡng dân gian sâu đậm nói chung vẫn tiếp tục duy trì tập tục này.

Chúng ta cần phải nói rõ, theo quan điểm của đạo Phật thì tập tục đốt giấy tiền vàng mã là một việc làm lãng phí, tốn kém, không có tác dụng lợi ích thiết thực. Thay vì bỏ tiền ra mua giấy tiền vàng mã thì tại sao chúng ta không làm những việc lợi ích khác cụ thể và thiết thực hơn như bố thí cúng dường, giúp đỡ sẻ chia cho những mảnh đời bất hạnh.

Theo chỗ chúng tôi được biết, đây là một tập tục có từ lâu đời trong dân gian do ảnh hưởng văn hóa từ thời cổ đại trong xã hội Trung Hoa. Ngày xưa, người ta quan niệm cõi này là cõi tạm, cõi âm mới là cõi lâu dài nên khi chết phải chôn theo tài sản và của cải. Những nhu cầu tiêu xài khi còn sống như thế nào thì khi chết cũng sẽ như thế đó. Do tin tưởng một cách cuồng tín như vậy nên thân nhân của người chết sẽ chôn theo những vật dụng cần thiết, kể cả tiền bạc để người chết tiêu xài. Đây là sự biểu lộ mối thâm tình sâu đậm của con người đối với gia đình, người thân và người có công trạng giúp ích cho đất nước, nhưng về sau họ cân nhắc lại và thấy việc chôn theo các vật dụng và tiền bạc thật quá lãng phí. Tập tục làm đồ giả chôn theo người chết được hình thành từ đó bởi sự tính toán của những nhà kinh doanh sống trên sự mê tín của người khác. Họ triết lý rằng nếu không làm vậy thì sẽ bị thần linh quở phạt. 

Phật dạy con người sau khi chết tùy theo nghiệp tốt xấu đã gieo trong hiện tại mà được tái sinh vào những cảnh giới thiện-ác khác nhau trong 3 cõi 6 đường. Vì chúng sinh tạo nghiệp bất đồng nên tái sinh vào nhiều cảnh giới khác nhau nên đương nhiên việc thọ hưởng vật dụng của mỗi loài cũng khác nhau. Nếu chúng sinh đó hiện đời biết gìn giữ 5 Giới và biết quý kính Tam bảo thì đương nhiên sẽ được tái sinh trở lại làm người và có thể thần thức người đó đang nằm trong bào thai mẹ. Nếu trong hiện đời người đó tạo nghiệp ngu si, mê muội thì sẽ bị đọa vào loài súc sinh tùy theo mức độ nặng nhẹ mà có quả báo tương xứng. 

Chính trên trần gian này đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận thì huống hồ tiền nhân gian in nhưng lại xài dưới âm phủ, chưa kể đến những vật dụng bằng giấy như quần áo, nhà lầu, xe hơi được đốt xuống âm ty cho người chết dùng thật lãng phí và tốn kém vô ích.

Những Phật tử vì chưa thông hiểu giáo lý Phật dạy và chưa có được niềm tin nhân quả thấu đáo nên đôi khi cũng đốt giấy tiền vàng mã cho người chết. Thay vì bỏ tiền ra mua giấy tiền vàng mã để đốt thì tại sao chúng ta không làm những việc lợi ích, thiết thực hơn như bố thí cúng dường, giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh bị bệnh hoạn, tàn tật, nghèo đói… rồi đem những công đức này hồi hướng cho hương linh người chết. Đây mới là việc làm Chánh tín nhân quả “âm dương lưỡng lợi” đúng theo quan điểm từ bi và trí tuệ của đạo Phật. Là người Phật tử chân chính chúng ta nên nghe theo lời Phật dạy mà tránh những việc làm mê tín vô ích có tính cách làm tổn hại cho mình và người.

Tập tục đồng cốt

Đồng cốt là hiện tượng mê hoặc khủng khiếp, hiện tượng ông lên bà xuống này đều là những người sống trong trạng thái bất bình thường, tâm hay mong cầu quá đáng. Những người này không làm chủ được bản thân, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi những ma lực ấy dựa vào họ thì liền lạm dụng các danh hiệu xưa người đời hay tôn sùng, gọi là bậc thánh để lừa bịp người nhẹ dạ cả tin.

Phật dạy không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục để giáo hóa chúng sinh, vì các ngài khi tu chứng đều có thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là do những loài yêu tinh ma mị của quỉ thần gá vào. Chúng vì sợ người đời không tin nên mạo xưng những danh hiệu như Tề Thiên Đại Thánh hoặc Thánh mẫu Quan Âm chẳng hạn để tạo uy tín. Chúng ta là người Phật tử chân chính biết rõ tính cách ma mị của đồng cốt nên cần phải tránh xa.

Tập tục coi tay xem tướng

Coi tay, xem tướng cũng có khi trúng, khi trật vì còn tùy thuộc nghiệp báo, phước đức của người đó. Chính vì vậy, ông thầy luôn nói câu thòng “tay hay tướng của ông có biểu hiện điều xấu, có thể đến tháng đó ông sẽ bị mắc nạn, nếu ông ngay bây giờ biết tu tâm sửa tánh, làm lành lánh dữ thì mọi tai nạn có thể qua khỏi”. Nếu đến tháng đó người ấy mắc nạn thì khen ông thầy xem trúng quá, bằng không mắc nạn thì ông thầy nói do mình biết tích phước làm lành. Như thế, đứng về mặt nhân quả tốt hay xấu ông thầy cũng đoán trúng hết. Nhưng chúng ta thử suy nghĩ lại xem, coi tay xem đoán vận mạng tốn một số tiền nhưng khi mắc nạn chúng ta cũng phải tự chịu, lại còn mắc thêm bệnh lo vì nghĩ về chuyện chưa chắc sẽ xảy ra. Ngược lại, nếu mình tai qua nạn khỏi là do mình có phước nên chuyển hóa được nghiệp xấu thì hóa ra ông thầy đâu giúp gì cho mình. Như vậy, chúng ta đi coi bói làm chi cho uổng tiền mà mắc bệnh thêm lo nữa rồi bất an, sợ hãi vì cứ nhớ nghĩ đến nó hoài.

Nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả, tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc thì ta chỉ cần phát tâm làm việc tốt có lợi ích cho mình và người thì điều tốt sẽ đến. Người quá tham lam hay mong cầu những điều thiện lành đến với mình thì chỉ việc gieo nhân quả tốt, còn quả đến sớm hay muộn là do duyên phụ thuộc. Thế mà chúng ta không ứng dụng ngay cội gốc mà lại chạy theo ngọn ngành để hao phí tiền bạc một cách vô ích. Đó gọi là mê tín.

Xin xăm bói quẻ

Xin xăm bói quẻ là một việc làm cầu may do lòng tham lam của con người. Vận mạng chúng ta chỉ ứng quẻ trong 100 cây xăm do người đời đặt ra có tốt có xấu, có may có rủi. Chúng ta phó thác vận mạng của mình vào chỗ không có duyên cớ, không có lẽ thật rồi tin vào đó để tiền mất mà lại thêm lo. Thánh, Thần nào có rảnh đâu mà ngồi sẵn nơi đó để ứng hiện phán xét trong quẻ xăm cho quí vị. Con người gặp lúc phước đến thì lắc quẻ nào ra cũng đều tốt hết, nếu thật sự gặp họa thì lại rút nhằm lá xăm xấu. Chính chúng ta là chủ nhân ông của bao điều họa phúc, mình làm lành được phước, mình làm ác gặp họa khổ đau. Thế là tốt xấu do mình, không phải tại xăm quẻ mà có tốt xấu. Chúng ta cứ tu tâm dưỡng tánh, thận trọng từng ý nghĩ cho đến lời nói để khi làm việc gì cũng không tổn hại cho ai. Như vậy chúng ta đi xin xăm bói quẻ để làm gì? Xin xăm bói quẻ khiến chúng ta thêm bất an, lo lắng, sợ hãi khi gặp quẻ xấu và sẽ ỷ lại khi gặp quẻ tốt. Chúng ta làm một việc không có lợi ích mà lại hao tốn tiền của, mang lo vào lòng thì như vậy không phải mê tín là gì?

Ứng dụng nhân quả để phá trừ mê tín

Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trong bầu vũ trụ bao la này được hình thành không một vật nào nằm ngoài nhân quả. Khi cái này có thì cái kia có, khi cái này không thì cái kia không. Nhân quả, quả nhân xoay vần không dứt. Thấy rõ lý nhân quả chúng ta chuyển xấu thành tốt, chuyển dở thành hay, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thấu rõ lý nhân quả chúng ta sẽ biết cách làm chủ bản thân mà sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha. Chúng ta tin sâu và ứng dụng lý nhân quả vào trong đời sống hằng ngày thì việc gì cũng sẽ tốt đẹp.

Đứng về mặt không gian, vạn vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hợp thành. Không một vật nào do một đơn vị làm nên mà phải nhiều đơn vị hợp lại mới thành hình. Chính vì thế, lý nhân duyên quả thích ứng với tinh thần phân tích của khoa học hiện nay. Nếu sự vật do một đơn vị làm nên thì còn gì cần phân tích. Bởi nhiều đơn vị hợp thành một vật thể nên người ta mới phân tích chia ra nhiều đơn vị, nhiều loại. Nhỏ nhất như một nguyên tử mà người ta phân tích trong đó vẫn có nhiều phần hợp thành, huống là những vật thể to tát.

Đạo Phật là đạo của giác ngộ, là đạo của từ bi và trí tuệ nên lấy nhân duyên, nhân quả làm nền tảng. Nếu chúng ta thấy trong chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín thì đây chính là những oan tình của đạo Phật, chẳng qua một số người vì thiếu hiểu biết, vì chạy theo tín ngưỡng, tập tục của thế gian nên làm ảnh hưởng đến Phật pháp chân chính.

Lý nhân duyên quả nhà Phật nói là một lẽ thật đúng với tinh thần khoa học hiện thời, hiểu được lý nhân duyên quả chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian có sự liên quan chằng chịt với nhau. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài tập thể, một cá nhân đứng ngoài nhân loại. Đây là lý do khiến dẹp được quan niệm cá nhân ích kỷ. Chúng ta tích cực xây dựng nên hạnh phúc chung cho nhân loại chứ không riêng của một cá nhân. Chúng ta tin lý nhân duyên quả là tin bằng trí tuệ, là thấy biết đúng như thật nên gọi là chánh tín.

Thế mà hiện nay có nhiều Tăng sĩ trụ trì khi nghe Phật tử than làm ăn sa sút liền bảo đến chùa thầy cầu phúc cho; nghe con cháu Phật tử sắp thi cử thì bảo ghi tên để thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tử than gia đình xảy ra tai nạn thì bảo đến chùa thầy cúng sao giải hạn cho… Đó là chúng ta đang truyền đèn nối đuốc Như Lai hay làm lu mờ Chánh pháp? Chúng ta là những người hướng dẫn, kế thừa sự nghiệp của Như Lai. Bước đầu vì phương tiện thiện xảo để giúp người đến với Phật pháp, sau đó chúng ta phải lấy lời Phật dạy chân chính là nền tảng nhân quả mà hướng dẫn cho quý Phật tử. Làm được như vậy chúng ta mới xứng đáng là con nhà Thích tử truyền trao mạng mạch của Như Lai để mọi người thấm nhuần Phập pháp.

Như chúng ta đã biết, nghề tử vi bói toán là một khoa giải đoán tương lai về vận mạng của một con người qua tình duyên, học hành, thi cử, chọn hướng nhà cửa phong thủy thích hợp, chọn ngày giờ tốt khai trương, cưới hỏi, tang ma, giải hạn dựa theo ngày tháng, năm sinh, tuổi tác.

Có nhiều hình thức bói toán, nhưng có 4 loại phổ thông đối với người Việt Nam chúng ta. Đó là bói bài, xem lá số tử vi, bói ngày tháng năm sinh-tuổi tác, xem chỉ tay-coi tướng và lên đồng nhập cốt.

Bói bài là dựa vào việc giải đoán những dấu hiệu cũng do con người vẽ ra nơi những con bài nên chỉ phỏng đoán chung chung, không có cơ sở chính xác. Việc coi lá số tử vi là dựa trên sự tương tác của các ngôi sao vào lúc người đó chào đời, những ngôi sao này mang một số đặc tính nhất định được biểu trưng qua sự sắp xếp của thần linh, nhưng tất cả đều do con người đặt ra, do đó mức độ chính xác tối đa khoảng 70% là cùng. Còn việc xem chỉ tay coi tướng cũng do con người sắp đặt, chỉ tay có thể thay đổi trong thời gian từ 3 tháng đến 6 tháng, tướng trạng con người cũng thay đổi theo thời gian tùy theo việc làm tốt xấu. Việc bói qua hình thức lên đồng là có một vong linh người chết nào đó nhập vào rồi tự xưng mình là thánh này thần nọ khuyên người phải cúng bái quỷ thần để cầu khẩn, van xin điều gì đó. Việc làm này có khi linh hiển có khi không.

Ngay cả việc coi ngày tốt xấu cho việc khai trương, khánh thành, xây cất nhà cửa, coi ngày giờ tốt xấu cũng không rõ ràng và chính xác nên dễ dẫn đến những hậu quả tiêu cực làm cho con người ta bất an và sợ hãi. Việc định ngày giờ tốt xấu ghi trên lịch sách hoàn toàn không có cơ sở chân chính mà chỉ dựa theo tín ngưỡng dân gian do kinh nghiệm của một số người. Vì mưu cầu lợi ích kinh doanh trong việc sinh sống mà các nhà làm lịch sách in thêm phần coi ngày giờ tốt xấu, họ tự đặt ra ngày này tốt ngày kia xấu để áp đặt cho một số người nhẹ dạ cả tin chấp nhận có một đấng thần linh ban phước giáng họa. Ai theo truyền thống này chỉ tin tưởng và làm theo chứ không có quyền suy xét, tìm tòi lẽ đúng sai. Thật ra, mọi việc tốt xấu là do con người làm ra theo nguyên lý duyên sinh, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau.

Trong cuộc sống, con người vì mưu cầu hạnh phúc và vì lòng tham muốn quá đáng nên luôn lo lắng cho vận mạng của mình trong tương lai tốt xấu như thế nào nên việc xem tử vi bói toán ngày càng phổ biến. Người giàu nhiều của cải, có địa vị, danh vọng nếu không hiểu biết Phật pháp, tin sâu nhân quả thì lại càng bói toán, xem phong thủy nhiều hơn, mục đích để làm sao không bị thất thoát. Kẻ nghèo vì muốn đổi đời nên hy vọng bói toán để xem vận mạng có được tốt hay không, nhất là những ngày đầu năm mới. Nhiều người từ việc mua nhà, đi xa, khai trương, dựng vợ gả chồng, cho đến việc tang ma… nhất nhất đều tìm đến những người coi bói toán để được sự hướng dẫn làm đúng theo ngày giờ tốt xấu. Tử vi, bói toán, coi tay xem tướng, hiện tượng đồng cốt đang lan rộng ra khắp cả ba miền Nam, Trung, Bắc. Nhiều người, nhiều giới và nhiều nơi đang bị sự mê tín này chi phối quá lớn.

Người phương Tây không cần coi ngày giờ tốt xấu khai trương cửa hàng nhưng họ vẫn giàu có hơn các nước có nhiều người mê tín. Họ không có thờ thần tài, thờ ông địa nhưng vẫn làm ăn buôn bán, phát triển công nghệ khoa học kỹ thuật cao, mau chống làm giàu nhờ tích cực tự nguyện đóng góp lợi ích cho đất nước. Họ chỉ tính toán ngày giờ theo dự án, theo kế hoạch làm việc. Họ siêng năng, cần mẫn làm theo khả năng chuyên môn nghề nghiệp của mình một cách có ý thức.

Mê tín đem lại rất nhiều tai hại không thể lường trước được. Nó có thể làm tổn thương, thiệt hại nặng nề về sự văn minh tiến bộ của con người. Nó có thể làm tan nhà nát cửa, gia đình ly tán, con cái chia lìa và có thể làm ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Cho nên, ca dao Việt Nam có câu: “Tay cầm tiền của bo bo. Đi coi thầy bói mang lo vào người.”

Người hay đi xem bói toán tử vi, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, coi ngày giờ tốt xấu là người không tự tin chính mình, không tin sâu nhân quả, không đủ khả năng làm chủ bản thân vì lòng tham muốn quá đáng và nỗi sợ hãi về mọi phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Tóm lại, mê tín là một tệ nạn xã hội, nó làm cho con người ngày càng trở nên yếu hèn, mất tự tin chính mình vì si mê, mờ mịt. Chúng ta là chủ của bao điều họa phúc, mình gieo nhân xấu sẽ kết thành quả xấu, mình gieo nhân tốt sẽ kết thành quả tốt. Con người ta thường hay mâu thuẫn, muốn cầu mong quả tốt mà không chịu gieo nhân tốt, sợ hãi quả xấu mà không chịu dừng nghiệp xấu. Chúng ta muốn sống trong một xã hội văn minh, lành mạnh, bền vững và lâu dài thì mọi người cần phải tin sâu nhân quả, tin mình có đủ khả năng làm chủ bản thân, mọi việc tốt xấu, nên hư, thành bại đều do ta tạo lấy.

Song, nhân quả không phải đơn thuần mà đa dạng và phức tạp, có nhân mình vừa gieo liền thọ quả, có nhân phải chờ một thời gian, có nhân phải trải qua nhiều đời và có khi gieo nhân mà không có kết quả vì không đủ duyên. Biết rõ nhân quả tốt xấu do mình tạo ra nên chúng ta phải can đảm nhận chịu và tìm cách chuyển hóa không chút sợ hãi, buồn phiền. Mình làm chủ tạo nhân và chính mình làm chủ thọ quả thì còn cầu khẩn van xin làm gì. Chúng ta tin chắc lý nhân quả như thế thì mọi sự mê tín sẽ không có chỗ để xen vào làm phá hủy Chánh tín nhân quả.

BÀI 13- CÁCH THỨC THỜ PHẬT, LẠY PHẬT, CÚNG PHẬT

Sau khi quý Phật tử đã quy y Tam bảo rồi thì cần biết cách thức thờ Phật như thế nào cho đúng. Tục ngữ có câu: “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây”. Lòng biết ơn là một đức tính quí báu, người Phật tử chân chính lúc nào cũng khắc cốt ghi tâm để tìm cách trả ơn.

Một xã hội mà có nhiều phần tử xấu thường quên ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát thì không thể tồn tại lâu dài. Sự không biết ơn và đền ơn sẽ làm băng hoại đạo đức và làm ảnh hưởng xấu đến nhiều người khác. Chính vì vậy, để tôn vinh lòng biết ơn, để soi sáng lại chính mình chúng ta cần phải thờ Phật, lạy Phật và cúng Phật đúng cách thức như sau: 

1- Thờ Phật

Phật là bậc phước đức và trí tuệ vẹn toàn, có đầy đủ phẩm chất, đức hạnh cao quý. Chư Phật đã dùng đức từ-bi-hỷ-xả nhằm dẫn dắt chúng sinh ra ngoài biển khổ sông mê để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời. Phật có đủ 3 đức tính quý báu là Bi-Trí-Dũng, 3 đức tính căn bản mà một con người muốn được tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn không thể thiếu được.

Chúng ta thờ Phật để tỏ lòng biết ơn đối với Phật - bậc đã có đầy đủ đức tính từ bi và trí tuệ rộng lớn. Chúng ta thờ Phật để được học hạnh cao quý của Ngài và cố gắng bắt chước phước huệ song tu hành Bồ tát đạo cho đến khi nào thành tựu viên mãn.

Chúng ta phải thờ đức Phật nào mới đúng? Đức Phật nào cũng từ-bi-hỷ-xả và có vô lượng ánh sáng trí tuệ nên gọi là vô lượng quang, cùng với tuổi thọ không giới hạn nên gọi là vô lượng thọ.

Phật tử thờ Phật trong nhà nếu có đủ điều kiện và nhà cửa rộng rãi thì nên thờ Tam thế Phật chung một bàn, tượng đức Phật Thích-ca Mâu-ni đặt ở giữa, hoặc đặt tượng Phật ở giữa hai vị Bồ tát, nếu không đủ điều kiện thì thờ một tượng Phật Thích-ca Mâu-ni vì Ngài là người khai sáng ra đạo Phật, chúng ta phải nhớ rõ chỗ này.

Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở phía dưới hoặc bên hông nếu có chỗ rộng rãi. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác ngoài bình bông, lư hương, chân đèn và dĩa trái cây. Mỗi ngày chúng ta đều chăm sóc, lau quét, dọn dẹp sạch sẽ.

Lần đầu tiên thỉnh tượng Phật người Phật tử phải làm lễ an vị Phật có thỉnh chư Tăng đến. Nếu không có điều kiện thì gia đình tự làm lễ thỉnh tượng cũng không sao. Lễ này không bắt buộc phải tổ chức linh đình, chỉ nên làm một cách đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm và tinh khiết.

Khi thiết lễ an vị Phật người trong gia đình phải dọn mình sạch sẽ, ăn chay, giữ giới. Tất cả mọi người kể từ ngày làm lễ an vị Phật phải luôn nhớ nghĩ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà cố gắng bắt chước, học hỏi và tu sửa, nguyện dứt ác làm lành để thân tâm ngày càng được trong sạch.

2- Ý nghĩa lạy Phật 

Khi Đức Phật còn tại thế, các đệ tử từ vua quan cho đến dân chúng mỗi lần được gặp Phật đều cúi xuống ôm chân Ngài và đặt trán mình lên chân Phật để tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính. Cử chỉ và thái độ ấy là sự khiêm tốn thấp mình, cung kính tôn trọng đối với một người thầy. Ngày hôm nay Phật không còn tại thế, chúng ta chỉ lễ lạy hình tượng Phật và người tu hành chân chính.

3- Lạy Phật như thế nào mới đúng nghĩa 

Trước khi lạy Phật ta phải dọn mình sạch sẽ, rửa mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng, sau đó mới đốt hương ra trước bàn Phật đứng ngay thẳng, hai tay chắp hình búp sen để trước ngực, mắt nhìn tượng Phật, miệng tỏ bày nguyện vọng chân chính của mình rồi sau đó mới lạy ba lạy.

Lạy thứ nhất chúng ta nguyện suốt đời nương tựa Phật, lạy thứ hai chúng ta nguyện suốt đời nương tựa Chánh pháp, lạy thứ ba chúng ta nguyện suốt đời nương tựa Tăng đoàn để sống an vui. Lễ Phật như thế mới đúng pháp, trong kinh gọi là “thân tâm cung kính lễ”.

Trái lại, chúng ta lễ Phật với lòng không cung kính hay còn gọi là ngã mạng lễ là khi lạy Phật mà trong tâm còn ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc đầu-hai tay-hai chân không sát đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện.

Cầu danh lễ là khi thấy có đông người thì miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ý để cho mọi người khen ngợi. Trái lại, khi không có người thì ta lại biếng nhác, giải đãi, không muốn lễ lạy gì cả. Hai cách lễ bái trên rất giả dối, người Phật tử chân chính phải nhận thức rõ điều này để khi lễ lạy thân tâm được trong sạch.

Cách lạy thân tâm cung kính lễ là hai tay chắp trước ngực hình búp sen không so le rồi đưa lên trước trán và từ từ hạ xuống, đầu cúi xuống theo, hai tay úp xuống chạm đất cách đầu khoảng 35 đến 40 cm là vừa, đầu và hai đầu gối đều chạm đất. Và cứ như thế hai tay bật lên trước theo thế đàn hồi, năm vóc nhất như trở về tư thế ban đầu.

4- Cúng Phật 

Ý nghĩa về cúng Phật

Cúng Phật nói cho đủ nghĩa là cúng dường Phật. Ngày xưa khi Phật còn tại thế, các đệ tử cùng đàn na thí chủ đã cúng dường Ngài đầy đủ tứ sự, nay chúng ta vẫn tiếp tục nối tiếp truyền thống như thế vì lòng biến ơn vô hạn. Sự cúng dường này làm cho chúng ta gieo được thiện duyên với Tam bảo về lâu về dài.

Do việc thờ phụng, đọc kinh, lễ bái, cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, hình dung rõ cuộc đời của Ngài để quyết tâm noi theo công hạnh không thể nghĩ bàn bằng tất cả tấm lòng từ-bi-hỷ-xả với tinh thần vô ngã, vị tha.

Cúng Phật với những gì trong thực tế  

Chúng ta cúng dường Phật để tỏ lòng cung kính về sự biết ơn và đền ơn, nhưng nếu mỗi khi cúng Phật ta lại bày biện đủ thức ăn uống, yến tiệc cỗ bàn linh đình thì thật là phí của, phí công mà lại còn làm sai lạc ý nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật đúng ý nghĩa thì chúng ta chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong sạch là đủ.

Năm món diệu hương để cúng Phật

Cúng Phật có hai loại hình tướng, hình tướng bên ngoài gọi là “sự” và hình tướng bên trong gọi là “lý”. Hình tướng bên trong cúng Phật là dùng 5 món diệu hương để cúng Phật như sau:

Hương giới

“Hương giới” nghĩa là oai nghi, là hình tướng của người tu theo đạo Phật, từ cư sĩ cho đến người xuất gia tùy theo khả năng mà phát nguyện giữ gìn giới phẩm thanh tịnh.

Hương giới được thể hiện qua hình tướng từ cách đi, đứng, nằm, ngồi, ăn nói sao cho hợp với oai nghi, giới luật. Người muốn cho tâm an, tinh thần vững chải trước phải có hình tướng điềm đạm, trang nghiêm. Nếu hình tướng còn lăng xăng thì tâm rất khó bề yên định một chỗ nên được gọi là hương giới nhằm để kềm chế cho hình tướng được trang nghiêm, thanh tịnh.

Chính vì vậy, giới luật trong đạo Phật không cho Tỳ-kheo vừa đi vừa nhảy, không cho vừa đi vừa ngó bên này liếc bên kia. Đi đứng phải nghiêm trang, từng bước an lạc, thảnh thơi, vững chải, mắt lúc nào cùng hướng về phía trước nhìn ngay ngó thẳng. Nhờ giữ giới thanh tịnh nên tâm ta ít loạn động.

Hương định

“Định” nghĩa là chẳng loạn vì tâm đối cảnh mà không dính mắc ta-người-chúng sinh. Nghe nói “định” chúng ta cứ tưởng có cái gì lạ, nhưng thật ra khi tâm ta hòa nhập với câu niệm Phật-Bồ tát, hay hơi thở, hoặc là không dấy niệm, không khởi nghĩ thì đó là định. Chúng ta nên nhớ chừng nào tâm không loạn là được định, đó là lẽ thật.

Hương tuệ

Hương tuệ là do sự quán chiếu mà được nên chúng ta có nhận thức đúng đắn, thấy biết đúng như thật. Thấy biết đúng như thật gọi là hương tuệ phát sáng.

Nhờ giữ giới trọn vẹn thì các pháp ác không xâm nhập nỗi. Nhờ giữ giới nên chúng ta dần hồi giảm bớt tham lam, sân hận và si mê. Từ đó, chúng ta phát sinh định lực nên ta biết hổ thẹn khi lỡ làm điều gì sai trái và không ganh ghét, tật đố đối với mọi người. Ta biết mở lòng giúp đỡ người khác khi cần thiết.

Khi hương tuệ phát sinh ta sẽ thấy biết đúng như thật nên các kiến chấp về phiền não lần hồi rơi rụng hết, cho đến những kiến chấp về ta-người-chúng sinh-thọ giả cũng tan biến trong tâm ta. Nhờ vậy, tâm ta thanh tịnh, sáng suốt, tròn sáng mà không còn nghi ngờ gì nữa.

Hương tuệ cúng Phật là mỗi hành giả phải biết văn-tư-tu. “Văn huệ” là chúng ta biết lắng nghe lời chỉ giải quý báu của chư Phật và các bậc hiền Thánh Tăng. “Tư huệ” là đem những lời quý báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm để biết thế nào là phải quấy, đúng sai, thật giả. “Tu huệ” là buông xả hết phiền não tham-sân-si và các kiến chấp.

Hương giải thoát

Cúng Phật là chúng ta phá trừ được ngã chấp nên giải thoát bao mê lầm của luân hồi sinh tử khổ đau. Hầu như mọi người trên thế gian này đều cho thân xác này là thực, cái hay suy tư nghĩ tưởng này là ta, là của ta. Nhưng thực ra, thân xác tứ đại này do đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại mà thành, không có gì thật ngã bởi vì ai cũng phải sinh-già-bệnh-chết theo thời gian. Nếu ngày nào chúng ta không bồi dưỡng cho tấm thân những chất từ đất sinh ra như cơm gạo, những chất như nước sữa, những chất như không khí, những chất tạo hơi ấm thì thân này tan hoại. Còn cái hay suy tư nghĩ tưởng này của chúng ta thay đổi liên miên từ sáng sớm đến chiều tối, từ ngày này qua tháng nọ. Cái hay suy nghĩ này luôn thay đổi liên tục, mới vừa thương yêu đó nhưng bây giờ lại ghét bỏ. Trong đạo Phật, chấp thân tứ đại là mình, chấp tâm vô thường là mình gọi là "chấp thân tâm này làm ngã". Chính cái ảo tưởng này là nguyên nhân gây ra bao phiền não và khổ đau trong cuộc đời.

Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngã, không nhận thấy thân này là mình, là tôi, là ta, cũng không nhìn cái ý thức phân biệt là mình để chúng ta hoàn toàn giải thoát khỏi vòng luân hồi sống chết.

Hương giải thoát tri kiến

Con người thường cho rằng mọi việc trên đời đều tồn tại vĩnh viễn, chính vì vậy khi chúc tụng nhau ai cũng đều chúc hạnh phúc trăm năm, tình bạn muôn năm, tình yêu bất diệt. Tất cả chỉ là niềm mơ ước, mong muốn mà thôi, không phải là sự thực. Con người khi đạt được một địa vị nào đó trong xã hội, có được một sự nghiệp nào đó trên đời thì thường nghĩ rằng, mong rằng những thứ đó là thường còn, là lâu dài. Con người cứ nghĩ rằng cái gì của mình là vĩnh viễn giữ được lâu dài.

Sự thực, tất cả mọi hiện tượng sự vật trên thế gian này từ vật chất cho đến tinh thần đều biến chuyển đổi thay, sinh diệt không bao giờ ngưng nghỉ. Nhất là những thứ có hình tướng đều trải qua 4 giai đoạn "sinh, trụ, dị, diệt". Nghĩa là mọi vật được sinh ra bằng cách nào đó, trụ thế được một thời gian nào đó rồi cũng đến lúc biến dị và cuối cùng là hoại diệt. Trong đạo Phật gọi đó là "vô thường biến đổi". 

Trong kinh Kim Cang Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là cái gì ở trên đời có hình thức, tướng mạo, có thể nhìn thấy bằng cặp mắt thường đều là hư vọng, là giả tạm, không tồn tại vĩnh viễn, kể cả thân xác của chúng ta hiện có. Đây là hiện tượng chấp pháp theo lối thông thường.

Còn vi tế hơn nữa, hành giả tuy đã phá được ngã chấp về thân nhưng vẫn còn dính mắc ở pháp tu mình là thật, sự thấy biết của mình là đúng. Người có công phu gần như viên mãn, tự tại trước sự sống chết nhưng vẫn còn dính mắc vào sự thấy biết của mình. Thế nên, người tu muốn viên tròn quả mãn thì phải vượt qua sự thấy biết của mình, ai làm được như vậy là giải thoát tri kiến.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thành tựu viên mãn 5 phần pháp thân hương. Đó là hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến. Cho nên, quý Phật tử phải làm sao thể nhập được 5 phần pháp thân hương này thì sự cúng Phật của ta mới thành tựu viên mãn.

Cúng dường pháp bảo

Pháp bảo là lời của Phật đã giảng dạy để quý Phật tử y theo đó mà học hỏi và tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo trước hết chúng ta phải học Kinh, Luật, Luận và nghiên cứu giáo lý để nhận định thế nào là Pháp bảo chân chính. Nếu có thực học thì phải làm sao dịch thuật Tam Tạng kinh điển ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác, chú giải Kinh Luật, Luận để mỗi người thông suốt rõ ràng thêm nghĩa lý. Nếu chúng ta có khả năng về tài chánh thì nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ rộng ra khắp tất cả cho mọi người nghiên cứu đọc tụng và tu học.

Cúng dường Tăng bảo

Nếu chúng ta đã thành tâm thờ cúng Phật thì tất nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đoàn thể sống an vui, hòa hợp, vừa học, vừa tu, vừa hướng dẫn cho tất cả mọi người để truyền bá giáo lý của Phật. Để tỏ lòng biết ơn và hỗ trợ cho việc tu học của chư Tăng, chúng ta nên tùy hỷ phát tâm cúng dường tùy theo khả năng của mình. Khi cúng dường chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào hay tôn phái nào. Vị Tăng nào có đầy đủ giới đức trang nghiêm thì chúng ta sẵn sàng phát tâm hoan hỷ cúng dường Tăng bảo.

Lợi ích của thờ, lạy và cúng Phật

Sự thờ, lạy và cúng Phật nếu chúng ta biết thực hành một cách thành tâm, có thiện chí và đúng ý nghĩa thì sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực là ngày càng giảm bớt phiền não tham-sân-si trong hiện tại và mai sau.

Trong hiện tại, mỗi một người Phật tử chân chính và gia đình, người thân luôn sống bằng tình yêu thương đoàn kết giúp đỡ san sẻ cho nhau, biết kính trên nhường dưới, sống vui vẻ thuận thảo với nhau. Trong một gia đình, nếu muốn có an vui hạnh phúc trong hiện tại, muốn có một đời sống tốt đẹp, muốn con em mình có hiểu biết chân chính, tin sâu nhân quả, biết làm lành tránh dữ thì mỗi nhà hãy nên thiết lập bàn thờ Phật để hằng ngày đọc kinh, lễ lạy, sám hối và cúng dường Phật.

Nói tóm lại, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do lòng biết ơn sâu xa đối với bậc đã thanh tịnh, sáng suốt, giác ngộ giải thoát hoàn toàn. Ngài đã vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà vô số kiếp hành Bồ tát đạo để cứu mọi người còn chìm đắm trong biển khổ, sông mê mà vươn lên làm mới lại chính mình với tinh thần vô ngã, vị tha.

BÀI- 14 TỘI PHƯỚC THEO TA NHƯ BÓNG VỚI HÌNH

Người Phật tử chân chính cần phải biết rõ tội phước để tìm cách tránh dữ làm lành. Nếu tu hành mà không biết rõ tội phước thì chúng ta khó bề thăng tiến, có khi còn gây thêm nhiều tội lỗi. Mọi sự hạnh phúc hay khổ đau gốc từ tội phước sinh ra. Chính vì thế, người Phật tử chân chính trước tiên cần phải thấu hiểu rõ ràng về tội phước.

Chúng ta muốn sự tu tập được kết quả tốt đẹp thì cần phải biết về tội và phước. Chúng ta tu tập là để diệt trừ tội lỗi và tạo dựng phước đức trong hiện tại và mai sau. Tội và phước không phải là cái gì viễn vong, huyễn hóa mà là những kết quả đích thực do chính chúng ta tạo nên. Không có một vị thần linh hay một đấng sáng tạo nào ban phước hay giáng tội cho chúng ta cả. Chính chúng ta tạo ra tội hay phước, rồi tội hay phước đó trở lại quyết định số phận của chúng ta.

Người Phật tử chân chính phải biết làm phước, bố thí, cúng dường để buông xả tâm phiền não tham-sân-si làm hại đời chúng ta. Người cư sĩ tại gia ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân và xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên, trọng trách của người Phật Tử tại gia rất quan trọng và thật lớn lao bởi họ vừa phải lo làm lụng nuôi sống bản thân, gia đình, cha mẹ, anh em, vợ con vừa phải lo đóng góp cho xã hội, lại còn thêm trách nhiệm hộ trì Tam bảo, giúp đỡ chư Tăng Ni có điều kiện, thời gian học hỏi, tu hành.

Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật tử chân chính phải lo cơm áo gạo tiền, gánh vác việc gia đình, đóng góp cho xã hội với bổn phận người công dân, lại phải làm hậu cần cho Tam Bảo. Đây không phải là chuyện dễ làm mà ai cũng có thể làm được. Muốn làm được điều này đòi hỏi người Phật tử chân chính phải có Bồ-đề tâm kiên cố, có nguyện lực cao cả để dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi, nhàm chán với tinh thần vô ngã, vị tha bằng trái tim hiểu biết.

Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bỗng dưng khi không mà có. Đó là kết quả việc tu nhân, tích đức của họ vì đã hành Bồ tát đạo vô số kiếp về trước. Trên đời này không thể có một người nào đủ khả năng ban phước giáng họa như các truyền thuyết xa xưa đã từng tuyên bố mà kết quả tốt hay xấu là do ta tạo ra.

Chúng ta muốn được giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng, được mọi người yêu mến và kính nể thì ngay bây giờ ta phải biết làm phước, bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính phải ý thức được điều này, muốn được giàu sang sung sướng, có nhiều của cải thì hiện thời ta phải biết dấn thân đóng góp, giúp đỡ người khác để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Người Phật tử chân chính biết làm phước, bố thí, cúng dường hay giúp đỡ, sẻ chia để đem đến an vui, hạnh phúc cho tất cả mọi người là đang từng bước hoàn thiện chính mình. Phật dạy người Phật tử chân chính phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, nhỏ nhoi và sẵn sàng hy sinh bản thân mình để làm cho người khác được vui bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.

Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại với quan niệm ai cũng là người thân, người thương nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha bằng tình người trong cuộc sống và không thấy ai là kẻ thù.

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào tách rời sự sống mà có thể tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy có người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ; người lại nghèo hèn, khốn khổ, thiếu thốn, đói rách, lang thang; kẻ sang người hèn, kẻ xấu người đẹp, kẻ ngu người trí, kẻ chết yểu người sống thọ, người an vui hạnh phúc, kẻ bất hạnh khổ đau… Do đó, làm phước là điều kiện cần thiết để ta có cơ hội dấn thân đóng góp mà vẫn biết cách buông xả để hoàn thiện chính mình. Cho nên,

Người đủ ăn đủ mặc

Là người có phước đức

Vì thế nên ít lo

Nhờ vậy mà dễ tu.

Vậy thế nào là người có phước đức?

Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon mặc ấm; lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính lễ phép với người trên, thương yêu đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải; biết tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành, sống trong tình thương yêu giúp đỡ đồng loại.

Nếu bây giờ chúng ta không làm phước mà muốn được phước trong tương lai thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước thì bây giờ làm gì có phước để mà hưởng và giúp đỡ người khác. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước tất được quả vật chất sung mãn trong hiện tại và mai sau. Biết rõ điều này nên người Phật tử chân chính phải cố gắng gieo trồng phước đức, người có tiền thì đóng góp vật chất, người không tiền thì xả thân giúp đỡ người khác khi có nhân duyên. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn khó khăn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, chửi mắng làm khổ đau cho nhau là vì kém phước đức.

Phước là những hành động đem lại sự an vui, hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và mai sau. Người làm phước cũng gọi là người hiền, người tốt, người có tấm lòng nhân ái. Chính sự làm phước này mà chúng ta được nhiều người quí mến, tôn trọng bằng tình người trong cuộc sống, khi gặp nhau vui vẻ và sẵn sàng san sẻ giúp đỡ nhau khi cần thiết. Nhờ làm phước chúng ta được mọi người quý mến, ưa thích gần gũi. Nhờ sự gần gũi đó mà mọi người dễ dàng thông cảm, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống.

Thế nào là phước?

Đã làm người ai cũng ước mơ, mong muốn làm sao mình được an vui, hạnh phúc. Người Phật tử chân chính không mơ ước, mong mỏi suông mà phải thực tế gầy dựng hạnh phúc cho mình và gia đình, người thân. Hạnh phúc không thể tự nhiên đến với chúng ta mà do ta biết tích công bồi đức, một mặt biết vun trồng phước báo, một mặt biết buông xả phiền não khổ đau. Một ý nghĩ chân chính luôn muốn giúp người cứu vật mới phát sinh ra lời nói tốt đẹp để ta hành động đem lại an vui, hạnh phúc cho mình và người.

Trái với tội, phước là những hành động làm cho mình và người được an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Thông thường khi mình làm cho người khác được an vui, hạnh phúc thì họ sẽ quý mến mình, biết ơn mình và muốn đền đáp công ơn của mình. Tuy nhiên, không phải ai được mình giúp đỡ cũng đều trở lại đối xử tốt với mình mà có thể vô ơn bạc nghĩa với mình. Chính vì vậy, người đời thường than “làm ơn mắc oán”, nhưng với việc thiện mình đã gieo thì mình sẽ hưởng được phước quả chứ không bao giờ vô ích cả. Thường thì không phải người đã chịu ơn mình trực tiếp đền đáp lại mà mình sẽ nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ một người khác trong chuỗi nhân quả đan xen chằng chịt theo nguyên lý cái này có thì cái kia có.

Trong cuộc sống với muôn vàn sự khổ đau và hạnh phúc, người biết buông xả lại là người được nhiều nhất. Ngược lại, người cố giữ gìn, nắm níu lại là người mất mát, đau thương nhiều nhất. Chúng ta đang tạo dựng hạnh phúc cho mình bằng cách biết chia sẻ, dấn thân đóng góp cho người khác khi cần thiết thì ngay lúc đó mình và người được an vui, hạnh phúc. Chúng ta làm phước không biết bao nhiêu cho đủ, làm mãi suốt cả cuộc đời cũng chưa xong vì thế gian này người hiểu biết chân chính thì ít mà người sống không có ý thức thì lại quá nhiều.

Thời Phật còn tại thế, người đệ tử A-na-luật là anh em chú bác ruột với Ngài. Do quyết chí tu hành nên A-na-luật bị mù cả hai mắt, bù lại, Ngài chứng được Thiên nhãn thông.

Một hôm, đức Phật thuyết giảng trong một pháp hội lớn, tất cả đại chúng đều say mê chăm chú lắng nghe, riêng Ngài A-na-luật thì ngủ gà ngủ gật. Thấy thế, đức Phật gọi dậy và phương tiện độ người đệ tử: “Này A-na-luật, có ai bắt buộc ông đi tu không? Hay vì ông thiếu nợ nhiều quá phải làm thuê, làm mướn vất vả nên trốn vào đây tu?”

A-na-luật thưa: “Bạch Thế Tôn, không phải như thế! Con là một hoàng tử nên đâu cần làm thuê, làm mướn và cũng không thiếu nợ ai. Con đi tu vì cảm kích công hạnh của Thế Tôn không thể nghĩ bàn. Con tu là để cầu giác ngộ giải thoát, nhưng vì tập khí xa xưa của con còn quá nhiều, nó che chướng làm con mê mờ trong lúc nghe Thế Tôn chỉ dạy.”

Đức Phật bảo: “Ông tu vì muốn giác ngộ và giải thoát sinh tử cho chính mình và cứu giúp chúng sanh. Tại sao lại mê ngủ như vậy?”

Nghe những lời cảnh tỉnh của Thế Tôn, Ngài ăn năn hổ thẹn, xin sám hối chừa bỏ tật ngủ gật và phát nguyện lớn: “Nếu đời này không thành đạo thì tôi không nhắm mắt.” Do quyết chí tu hành, ban ngày Ngài học hỏi làm việc, ban đêm siêng năng hành trì đến nỗi đôi mắt bị đỏ lên và sưng vù. Các thầy thuốc bảo Ngài chỉ cần ngủ lại bình thường thì mắt sẽ hết bệnh, nhưng Ngài vẫn cương quyết một lòng tu tập không ngủ nghỉ.

Đức Phật nghe chuyện đã thân hành đến thăm và khuyên Ngài nên ngủ lại bình thường như trước nhưng Ngài vẫn không chịu ngủ, cuối cùng đôi mắt của Ngài bị mù hẳn khi chưa chứng đạo. Tuy vậy, Ngài vẫn quyết tâm tinh tấn tu hành. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài đã chứng đắc Thiên nhãn thông với lực dụng không thể nghĩ bàn. Ngài có thể thấy suốt vũ trụ bao la như nhìn một trái xoài trong lòng bàn tay không bị chướng ngại của vật cản nào.

Một hôm, chiếc y của Ngài bị rách và Ngài muốn tự tay khâu lại. Nhưng ngặt nỗi, Ngài không thấy đường xỏ chỉ vào kim, Ngài lên tiếng nói: “Có ai xỏ kim dùm tôi không?” Vừa lúc ấy, đức Phật đi ngang nghe được liền đến xỏ kim giúp Ngài. Chúng ta thấy, một việc làm lành dù nhỏ nhoi nhưng đức Phật cũng không từ nan, chúng ta học chuyện xưa để mỗi người bắt chước công hạnh của Ngài.

Việc làm của Đức Phật khiến chúng ta phải cảm phục, quý kính bởi Ngài là bậc toàn giác, bậc thầy vĩ đại mà vẫn không bỏ qua việc làm phước nhỏ.

Qua đó, chúng ta thấy người giác ngộ không từ chối bất cứ việc lành nào cho dù rất nhỏ khi đủ nhân duyên. Như vậy chứng tỏ rằng, sự có mặt của đạo Phật luôn đem đến lợi ích thiết thực cho con người vì không gây tổn hại cho ai dù là rất nhỏ.

Chúng ta phải biết làm việc thiện dù lớn hay nhỏ, phải cố gắng vun trồng, cóp nhặt để như giọt nước lâu ngày đầy lu. Ngược lại, việc ác dù nhỏ mấy ta cũng phải tránh không làm. Muốn gieo trồng phước đức ta phải xa rời nghiệp ác và phát triển nghiệp lành.

Học hạnh xưa của Thế Tôn để ngày nay chúng ta cố gắng bắt chước gieo trồng phước đức. Một ngày làm việc thiện thì bao việc ác không thể có mặt. Như vậy, gieo trồng phước đức có lợi cho ta rất nhiều, còn tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ, tâm địa nhỏ nhoi thì lúc nào cũng chịu nhiều đau khổ, thiệt thòi.

Ta làm việc ác nhỏ lâu ngày sẽ tạo nên nghiệp ác lớn, ví như lỗ thủng nhỏ rỉ nước vào thuyền, nếu không chặn lại ngay từ đầu thì đến một lúc nào đó nó sẽ nhấn chìm cả chiếc thuyền.

Bởi chưng kiếp trước khéo tu,

Kiếp này con cháu võng dù xênh xang.

Dân gian có câu: “Có phước làm quan.” Làm quan thì có điều kiện giúp đỡ gia đình, người thân, đó là lẽ đương nhiên trong cuộc đời. Theo quan niệm dân gian Việt Nam, “một người làm quan cả họ được nhờ” là thế. Để thấy lời Phật dạy không sai, mỗi người chúng ta phải cố gắng gieo trồng phước đức. Do phước nghiệp không đồng nên con người có thân tướng, lời nói, vóc dáng khác nhau, không ai giống ai cả. Người giàu sang, kẻ nghèo khổ, người sống thọ, kẻ chết yểu, người thông minh, kẻ ngu dốt cũng từ đó mà ra.

Trên thế gian này người được giàu sang, phú quý, hiển vinh, công thành danh toại là nhờ biết tu nhân tích phước từ nhiều đời trước. Trên đời này không có việc gì ngẫu nhiên, đương nhiên, tự nhiên mà thành. Muốn được như vậy ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình.

Công hạnh cao cả không thể nghĩ bàn của Như Lai Thế Tôn như nói ở trên thật đáng để loài người và chư thiên tôn kính, Ngài xứng đáng là bậc thầy trong ba cõi vì không từ bỏ bất cứ một việc thiện nào dù lớn hay nhỏ khi đủ nhân duyên.

Phước có hai loại: phước hữu lậu và phước vô lậu.

Phước hữu lậu hay con gọi là phước vật chất

Phước hữu lậu là niềm an vui, hạnh phúc mà người tạo phước hưởng được nhưng chỉ là an vui, hạnh phúc tạm thời, không bền vững vì phước đó chưa đưa người tạo phước thoát ra khỏi vòng sanh tử luân hồi. Sở dĩ như thế là vì khi tạo phước người làm phước còn có tâm niệm đối đãi, còn có phân biệt ta là người ban ơn, người khác là người thọ ơn; ta là người hướng dẫn, san sẻ, còn họ là người được hướng dẫn, được san sẻ và còn thấy vật thí cho kẻ khác.

Phật giáo hiện nay vẫn còn quan niệm độ người có duyên, ai cần đến đạo thì đến chùa hoặc tự tìm hiểu, như vậy là thụ động trong việc truyền bá đạo pháp rộng rãi đến với mọi người. Nói như vậy chúng ta có thể hiểu lầm lời Phật dạy và cách thức hoằng hóa độ sinh.

Đức Phật ngày xưa mỗi ngày đi khất thực là để tạo thiện duyên trực tiếp cho tất cả mọi người. Ai đến cúng dường và thưa hỏi đạo lý thì Phật tùy theo căn cơ, trình độ mà nói Pháp độ sinh thích hợp. Ngày nay, do chính sách và luật pháp không cho phép tu sĩ đi khất thực để hóa duyên nhưng giáo hội, chùa chiền các nơi vẫn phát triển đội ngũ hoằng pháp, từ thiện bằng nhiều hình thức để độ sinh.  

Chúng ta nên nhớ rằng, không phải khi có tiền mới làm phước được, quan niệm như vậy là chúng ta tự phủ nhận khả năng làm phước của mình. Người có tiền thì bố thí vật chất giúp đỡ người khác, kẻ không tiền thì bố thí bằng tấm lòng, bằng lời nói và bằng hành động thiết thực.

Tạo phước vật chất là chúng ta biết bố thí cúng dường cho các bậc Sa môn, Bà la môn và biết hiếu dưỡng đối với ông bà cha mẹ, biết bố thí giúp đỡ, sẻ chia vật chất cho người bất hạnh hoặc nghèo khổ, thiếu thốn, khó khăn. Phật dạy: “Này tất cả thiện nam tín nữ,  trong đời này ai có tâm vui vẻ, hoan hỷ xả tài sản, của cải vật chất để cúng dường người tu hành chân chính thì sau khi qua đời sẽ được sinh về các cõi trời. Nếu người đó được sinh trở lại cõi người thì người đó sẽ có nhiều tài sản, của cải, vật chất.”

Chúng ta có một thân tướng xinh đẹp, một thân thể khoẻ mạnh không bị bệnh tật, được nhiều người thương mến kính trọng, sống bình yên hạnh phúc là nhờ có phước đức. Do đó, có phước đức là điều rất cần thiết đối với người Phật tử chân chính.

Chúng ta có thể gieo trồng phước đức bằng cách an trú trong chánh niệm tỉnh giác như có lòng tin đối với Tam bảo, giữ tròn 5 giới cấm, phát nguyện tu hành dứt ác làm lành, giữ tâm ý thanh tịnh, sẵn sàng hết lòng cứu giúp khi thấy người gặp tai nạn tùy theo khả năng của mình. Mạng sống đối với con người là tối thượng, việc giải cứu người thoát chết làm cho người mừng rỡ và biết ơn vô kể.

Kế đến, chúng ta sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia khi gặp người thiếu thốn, khó khăn. Chúng ta đừng quá tham lam, bỏn sẻn mà cứ mãi ôm giữ lấy tài sản, cần phải ban bố cho những người đang thiết tha cần nó. Hạnh phúc không phải đến riêng với ta mà hạnh phúc là sự thù đáp từ hạnh phúc của mọi người. Những cái vô thường mà ta cứ giữ lấy thì có ngày gánh lấy khổ đau khi nó không còn trong tầm tay mình nữa.

Phước vô lậu

Tu phước vô lậu là chúng ta nhắm đến sự giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi sinh tử. Chúng ta giúp đỡ người mà không thấy mình giúp, không thấy vật bố thí và kẻ được thí. Cứ thế, chúng ta dấn thân đóng góp không biết mệt mỏi, nhàm chán cho đến bao giờ viên mãn mới thôi. Chúng ta làm như vậy và chỉ dạy người làm như vậy là tu phước vô lậu.

Phước vô lậu là loại phước báo khiến cho người tạo phước được tự tại, giải thoát, không còn bị trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Người tạo phước vô lậu cũng làm các việc lành như trên nhưng với tâm niệm không chấp thủ, không phân biệt và đều hồi hướng về sự giải thoát, giác ngộ. Dù chỉ là việc lành nhỏ họ đều hồi hướng phước đức ấy cho tất cả chúng sinh chứ không phải chỉ dành riêng cho họ hay quyến thuộc của họ. Chính vì vậy mà phước đó đã trợ duyên cho người làm phước được dễ dàng đạt đến quả vị giác ngộ, giải thoát khỏi tất cả mọi hệ lụy, triền phược trong cuộc đời.

Khi chúng ta có đầy đủ phước vô lậu thì đời sống tuy hơi thiếu thốn một chút, hơi nghèo một chút nhưng chúng ta vẫn có được tình cảm gia đình yên ấm, hạnh phúc. Tuy cuộc sống vật chất không được sung túc, đủ đầy như nhiều người khác nhưng bù lại chúng ta có được thân tướng dễ nhìn, khoẻ mạnh, không bị bệnh hoạn ốm đau, như vậy chúng ta quá ư là hạnh phúc.

Đức Phật nhờ phát tâm hành Bồ-tát đạo từ vô số kiếp nên Ngài đã làm được những việc khó làm, nhẫn được những điều khó nhẫn, giúp vô số chúng sinh được an lạc-giác ngộ-giải thoát, tùy theo tâm nguyện chúng sanh mà bố thí, nhờ vậy Ngài mới thành Phật.

Tạo phước vô lậu hay còn gọi là bố thí Ba-la-mật, là đem cho vật chất hay tinh thần, hoặc ngay thân này phải chết để giúp đỡ cho người thoát khổ mà tâm vẫn hoan hỷ, không dính mắc, không hối hận, không tiếc nuối hay mong cầu một điều gì khác.

Muốn vậy, khi thực hành bố thí ta không phân biệt thân hay thù mà chỉ tùy duyên, tùy thời cho phù hợp. Muốn đạt đến sự trọn vẹn của Bố thí Ba-la-mật chúng ta phải bố thí với lòng thành kính và biết ơn mọi người.

Người Phật tử chân chính bố thí Ba-la-mật luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu cần thiết của chúng sanh, không phân biệt thân hay thù bằng nhiều cách như tài thí (thí các loại tiền bạc, của cải vật chất), nội thí (cho những gì đang có trong thân thể này), Pháp thí (dùng lời nói chỉ cho chúng sanh hiểu thấu được lý nhân quả, nghiệp báo để tin mình là chủ nhân ông của bao điều họa phúc mà tránh xa những điều xấu ác, lại hay làm các việc thiện lành tốt đẹp).

Người Phật tử chân chính sẵn sàng bố thí tất cả, không bao giờ có sự hối tiếc hay phiền muộn dù phải chịu khổ, chịu chết thay cho chúng sanh. Bố thí như thế mới gọi là bố thí Ba-la-mật.

Tại sao chúng ta phải thực hành bố thí Ba-la-mật?

Bồ-tát là người đang trên đường tiến tới giác ngộ Phật quả nên mỗi khi làm việc gì có lợi cho chúng sanh Bồ-tát đều phát nguyện và hồi hướng, nhờ thế tâm từ bi của Bồ-tát càng thêm tăng trưởng. Trong hạnh bố thí chỉ có bố thí Ba-la-mật là phước quả cao hơn tất cả.

Bồ-tát là người phát tâm cầu thành Phật quả để hóa độ chúng sanh thoát khỏi khổ đau, sanh tử luân hồi. Vì vậy, trong suốt quá trình dấn thân, tu học, hành đạo, Bồ-tát luôn phát Bồ-đề tâm cho đến lúc thành Phật.

Phát nguyện là để giữ vững ý chí, lập trường của mình khi gặp trở ngại, khó khăn. Phát là phát cái tâm làm các việc thiện lành tốt đẹp, còn nguyện giống như một lời thề nguyền để ta ghi nhớ mà quyết tâm phấn đấu khi gặp chướng duyên hay trở ngại. Mỗi khi làm được việc lợi ích gì ta đều hồi hướng hết cho tất cả mọi loài chung hưởng thì phước báu của ta ngày càng được tăng trưởng.

Chính vì vậy, phát nguyện và hồi hướng công đức là việc làm rất quan trọng của người Phật tử chân chính để hướng đến bố thí Ba-la-mật và thành tựu Phật quả.

Tóm lại, tạo phước vô lậu hay còn gọi là bố thí Ba-la-mật là bố thí bình đẳng, không phân biệt thân sơ, giàu nghèo, không bao giờ hối tiếc hay phiền muộn trong cả 3 điều kiện tài thí, nội thí và Pháp thí.

Như thế nào là tội?

Tội là hành động làm cho mình và người đau khổ trong hiện tại và mai sau. Người làm tội cũng gọi là người dữ, người xấu, người ác. Xét về tội ta có tội ngoài đời và tội trong đạo.

Tội ngoài đời là những kẻ vi phạm luật pháp nhà nước, bị tù đày và hành hạ khổ đau. Ở đời, người ta cho rằng những người vi phạm pháp luật của nhà nước, vi phạm quy tắc, điều lệ của cộng đồng là người gây nên tội và phải bị xử phạt tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ. Nói chung, chuẩn tắc để đánh giá một người có tội hay không là dựa vào những hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ bên ngoài của người đó chứ ít xem xét đến tâm ý bên trong. Người nào gây tội mà bị phát hiện thì sẽ bị luật pháp trừng phạt.

Tội trong đạo có hai loại: tội do hứa nguyện gìn giữ mà không giữ được và tội làm đau khổ người và vật. Như trước đây chúng ta phát nguyện giữ 5 giới hoặc 10 giới để thúc liễm thân tâm, dứt ác làm lành. Đối trước Tam Bảo chúng ta nguyện trọn đời giữ Giới nhưng sau này do lơ là việc tu học nên bị tập khí chi phối khiến ta không giữ được trọn vẹn, đây gọi là tội phạm giới.

Tại sao người Phật tử khi phạm giới gọi là tội? Ví dụ như người Phật tử phát nguyện hứa giữ gìn giới luật của Phật dạy nhưng lại không giữ, hứa giữ gìn 5 giới cấm mà lại phạm vào giới trộm cắp. Khi trộm cắp như thế thì chính mình cũng phập phòng lo sợ, người bị mất của thì chắc chắn buồn khổ lắm. Như thế, khi ta vừa trộm cắp là mình đã lo âu, khổ sở rồi chứ chưa kể đến bị pháp luật trừng trị và theo nhân quả thì trong tương lai mình sẽ bị người khác lấy cắp hoặc bị hao tổn của cải một cách đột nhiên, không đáng. Hay khi chúng ta phát nguyện giữ giới không sát sinh nhưng lại phạm tội sát sinh mà đánh mất lòng từ bi của mình. Bất cứ một hành động nào chúng ta làm khổ cho người trong hiện tại và mai sau đều là tội, tội thì có tội nặng và tội nhẹ.

Tội nhẹ

Những điều chúng ta làm đau khổ cho người và vật mà không có sự tác ý, ta chỉ vô tình mà không có ý chủ động. Chúng ta phạm tội không phải do cố ý nên họ sẽ bớt thù hận và có thể thông cảm, tha thứ cho ta. Như chúng ta đang đi đường mà lỡ ai đó cầm hòn đất ném chơi lại vô tình trúng vào ta, chúng ta biết người đó không có ý ném mình thì tuy hơi đau một chút nhưng ta không đến nỗi giận người đó. Thế cho nên, từ lời nói cho đến hành động làm đau khổ người khác mà không có cố ý là tội nhẹ, chúng ta có thể xin lỗi hoặc sám hối sẽ hết tội. Những việc làm đau khổ người khác chút ít cũng là tội nhẹ.

Tội nặng

Tội nặng là những điều làm đau khổ người khác do thân-miệng-ý cố tình gây ra. Vì việc làm ấy có ý thức bằng sự cố tâm làm khiến cho người oán giận, thù hằn nên tìm cách trả đũa. Như có ai đó cố tình chửi mắng rồi kiếm chuyện đánh chúng ta, tuy nhiên việc đánh ấy bị nhiều người cản trở nên người đó không thực hiện được. Song, ta biết kẻ ấy cố tình đánh mình nên cũng sẽ oán giận người đó và tìm cách trả thù. Chính vì thế, hành động có cố tâm, cố ý là hành vi quan trọng để tạo thành tội nặng.

Như chúng ta đã biết, tội phát xuất từ ba nghiệp thân-miệng-ý; nơi ý nghĩ có tâm tham lam, sân hận, si mê và tà kiến; nơi miệng phát ra lời nói dối để hại người hoặc che dấu lỗi mình, nói lời mắng chửi hằn học khó nghe, nói lời mê hoặc để dụ dỗ người, nói lời đòn xóc hai đầu làm cho hai người hiểu lầm nhau hoặc thù ghét nhau; nơi thân thì có thể giết người, trộm cướp, tà dâm. Chúng ta làm việc gì mà có sự hợp tác chặt chẽ của ba nghiệp thân-miệng-ý là tội nặng.

Người đã quy y Tam bảo và người chưa quy y Tam bảo khi lỡ tạo tội thì tội cũng như nhau, đều bị căn cứ theo luật pháp để xử lý. Tuy nhiên, người Phật tử khi lỡ làm tội thì ý thức rằng mình là đệ tử Phật nhưng do tập khí, thói quen nhiều đời sai sử khiến mình phạm tội nên cố gắng ăn năn sám hối, hứa nguyện chừa bỏ, do đó tội lỗi dần hồi được chuyển hóa và được tiêu trừ. Điểm đặc biệt là người Phật tử chân chính không bao giờ phạm tội nặng mà chỉ phạm tội nhẹ vì đã có ý thức đúng đắn về tội và phước.

Người Phật tử chân chính cần tránh tội và biết làm phước

Ý thức được sự khổ đau của người khác khi bị mất mát đau thương, chúng ta cố gắng tránh đừng gây nên tội lỗi. Vì cuộc đời đã quá nhiều khổ đau do con người gây ra, chúng ta là những người Phật tử chân chính phải quyết dứt ác làm lành để ngày càng hoàn thiện chính mình.

Dù là một tội nhỏ nhưng nếu chúng ta tránh được thì cũng phải cố gắng đừng để vi phạm. Người biết sợ tội mà hay làm phước để giúp người cứu vật là người Phật tử chân chính. Chỉ có những ai thiếu hiểu biết mới bất chấp luân thường đạo lý mà xem thường tội lỗi, do đó tội ngày càng nặng thêm.

Cho nên, tránh tội làm phước là điều mỗi con người chúng ta phải ứng dụng. Người Phật tử chân chính cần phải biết rõ tội phước để thăng tiến trên con đường tu học. Trong cuộc sống, ai cũng muốn mình được an vui, hạnh phúc chứ không ai muốn mình bị khổ đau, dằn vặt. Cũng lại như thế, nếu chúng ta muốn không bị khổ đau thì đừng gieo mầm đau khổ cho ai, tức là phải tránh xa những điều tội lỗi.

Đức Phật ví người làm tội thì dễ dàng giống như trái banh lăn trên sườn núi xuống vì nó đã trở thành thói quen nhiều đời của con người. Việc làm phước giống như trái banh lăn lên núi, nếu sơ ý hoặc lơ là một chút thì trái banh sẽ lăn xuống trở lại. Phật vô số kiếp đã từng làm phước, bố thí không biết mệt mỏi, nhàm chán từ vật chất cho đến tinh thần nên khi phước huệ tròn đủ Ngài được thành Phật.

Chúng ta là người Phật tử chân chính cũng phải học theo gương sáng của Ngài là phước huệ song tu, làm phước mà không thấy mình làm, không thấy vật để cho và người được cho.

BÀI 15- ỨNG DỤNG NHÂN QUẢ ĐỂ CHUYỂN HÓA SỐ PHẬN

Ai tin theo số phận sẽ đánh mất chính mình

Theo quan niệm của một số người thời xa xưa, họ cho rằng đời sống con người là do đấng tạo hóa hay thần linh thượng đế, hoặc do ông trời tạo ra và sắp đặt. Ai tin theo truyền thống này thì được hưởng ân sủng tối cao. Ngược lại, ai không tin, không làm theo thì sẽ bị đọa vào chỗ khốn cùng. Họ cho rằng con người sinh ra đều có số mệnh định sẵn hay đã được an bài, con người khó có khả năng vươn lên vượt qua số phận tối tăm để làm mới lại chính mình.

Nếu ai cũng nghĩ sống trên đời này giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu, nên hư, thành bại đều do số mệnh đã định sẵn thì con người đành bất lực, xuôi tay và phải chấp nhận sống theo mệnh lệnh của đấng tối cao. Thực tế có phải vậy không?

Trong khi đó, thế giới hỗn loạn với chiến tranh binh đao, con người đối xử độc ác với nhau, lại thêm nạn thiên tai, lũ lụt, sóng thần, động đất, nghèo đói, dịch bệnh, chết chóc đau thương hàng loạt. Chẳng lẽ đấng tối cao cũng tạo ra những điều đau khổ ấy hay sao?

Nếu con người và muôn loài đều do một đấng thần linh thượng đế quyền năng tạo ra, tại sao lại có sự sai biệt quá lớn trong thế gian nhiều đến như vậy? Kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ trắng người đen, kẻ cao người thấp, kẻ sống lâu người chết yểu, kẻ thông minh người dốt nát… Chẳng lẽ đấng tối cao muốn tạo ra nhiều nỗi bất công lớn lao và sai biệt như thế ?

Ngày xưa có ông thầy tướng số rất giỏi bói đâu trúng đó, gần nhà ông có người nông dân nghèo nhưng chất phát, thật thà, hiền hậu. Một hôm, trên đường đi làm ruộng về thì trời đổ mưa, anh vô tình đi ngang qua nhà ông nên ghé vào trú mưa. Ông nhìn anh kỹ càng từ khuôn mặt cho đến vóc dáng, tướng đi rồi lắc đầu nói: “Số chú nghèo ba đời”.

Rồi thời gian trôi qua, anh nông dân mỗi ngày vẫn đi làm ruộng siêng năng cần mẫn nhưng đời sống chẳng có gì khấm khá hơn trước.

Một hôm, trên đường đi về nhà, anh thấy sợi dây chuyền vàng của ai đánh rơi bên vệ đường. Anh nhặt lên rồi suy nghĩ, “người bị mất chắc sẽ phải khổ đau vì mất của.” Do suy nghĩ như vậy và tội nghiệp cho người bị mất nên thay vì đi về nhà dùng cơm trưa anh ngồi lại ngay chỗ đó để chờ người mất của đến tìm mà trả lại.

Anh ngồi suốt từ trưa tới chiều quên cả đói bụng chỉ vì hy vọng gặp được người đánh mất. Đến lúc trời chập choạng tối, anh thấy một cô gái vừa đi vừa nhìn xuống đất như tìm kiếm vật gì, lại vừa đi vừa khóc sướt mướt. Anh bèn kêu lại hỏi thăm xem cớ sự ra sao. Cô nói trong nức nở: “Dạ thưa chú, con vừa được chồng sắp cưới tặng cho đôi bông tai và một sợi dây chuyền vàng, chẳng may trên đường đi về nhà sợi dây chuyền bị đứt rơi mất lúc nào con không hay. Nếu không tìm lại được nó chắc con phải tự tử chết quá chú ơi để khỏi bị bên chồng nghi ngờ con đem tặng cho người khác.”

Nghe xong, anh nông dân mới hỏi cô gái về hình dáng của sợi dây chuyền, cô gái mô tả đúng như sợi dây mà anh đã nhặt được. Anh liền trao lại sợi dây cho cô và vui vẻ đi về nhà, nhờ tấm lòng tốt của anh cướu cô gái thoát chết và sống hạnh phúc bên chồng.

Anh nông dân tuy là người nghèo khổ, thiếu thốn nhưng khi lượm được của rơi anh không sanh lòng tham đắm vì anh nghĩ người mất của sẽ rất đau khổ. Vì anh là một Phật tử thuần thành luôn sống theo lời Phật dạy nhờ hiểu thấu được lý nhân quả nên anh không quản ngại hay tiếc công chờ đợi mặc dù bụng đã đói meo.

Đây cũng là một nghĩa cử cao thượng với những ai đã có lòng tin nhân quả sâu sắc, hành động tốt đẹp đó nói lên tinh thần cứu khổ ban vui của người tu theo đạo Phật không bao giờ làm tổn hại đến người khác dù chỉ trong tâm tưởng.

Thời gian thấm thoát trôi qua, anh nông dân vẫn miệt mài với công việc đồng áng với thân phận nghèo thiếu. Một hôm, anh ghé qua nhà thăm ông thầy tướng số. Vừa trông thấy anh, ông ngạc nhiên nói: “Tướng chú sắp làm quan rồi.” Anh nông dân nói:” Thưa bác, con là một nông dân thuần túy, đâu có tri thức, chữ nghĩa gì nhiều mà làm quan. Người làm quan thì phải học cao hiểu rộng, có năng lực lãnh đạo giúp dân giúp nước. Con thì chỉ biết cày sâu cuốc bẩm, ruộng đồng thiếu trước hụt sau thì giúp gì được cho ai.”

Nhưng ông thầy tướng số khẳng định: “Tôi từ xưa đến nay xem tướng số cho ai chưa trật bao giờ. Bây giờ tôi hỏi thiệt chú, từ ngày chú ghé nhà tôi cho đến nay chú có làm điều phước thiện nào không? Anh nông dân trả lời: “Dạ, con đâu có làm việc gì lợi ích cho ai.” Song, anh chợt nhớ lại việc lượm được sợi dây chuyền vàng và kể cho ông nghe. Ông thầy tướng cười nói: “Đó là phước của chú đấy! Chú đã thay đổi và chuyển hoá được nghiệp nhân nghèo khổ của mình rồi. Chú sắp làm quan rồi, chú hãy nhớ lời tôi nói nhé!”

Anh nông dân nghe ông thầy tướng nói sao hay vậy, anh chẳng quan tâm gì nhiều mà vẫn tiếp tục công việc ruộng nương từ bấy lâu nay. Một thời gian sau, người trong làng cần chọn người hiền đức để bầu làm xã trưởng và anh là người được chọn. Anh bây giờ mới thấy lời ông thầy tướng nói quả không sai.

Qua câu chuyện trên chúng ta thấy rõ ràng tướng số cũng không cố định mà có thể thay đổi được nếu ta biết tu nhân tích đức. Ai nói rằng cuộc sống con người là do trời định đoạt, sắp đặt và con người sẽ phải sống phụ thuộc vào đấng tối cao ấy thì người nghèo sẽ phải nghèo vĩnh viễn nhưng thực tế lại không phải như vậy. Có người thuở nhỏ sống hàn vi nghèo khổ nhưng khi lớn lên biết siêng năng chăm chỉ làm việc đã trở nên giàu có. Đó là một sự thật mà ai cũng có thể nhận thấy.

Anh nông dân kia do nhiều đời trước không biết giúp đỡ, sẻ chia nên đời này phải chịu nghèo khổ. Nhờ gặp được Phập pháp và một lòng tin sâu nhân quả nên anh sống hiền hậu, chất phát, thật thà. Phật pháp rất sâu kín và nhiệm mầu, ai có duyên lành nhiều đời mới gặp được Tam bảo sáng soi. Là một Phật tử sống tốt theo lời Phật dạy, anh nông dân dù nghèo nhưng trong sạch, nhờ tâm niệm tốt đẹp lượm được của rơi mà biết nghĩ đến người đánh mất mà anh đã thay đổi được cuộc đời.

Khi xưa Phật chưa ra đời, nhiều người không biết nên tin vào học thuyết số phận đã an bài hay tất cả do một đấng tối cao, quyền năng đã tạo ra. Ai như thế nào phải chịu như thế ấy, suốt đời không thể nào thay đổi được. Đó là cách nhìn của người thường kiến, họ lợi dụng quyền cao chức trọng để bắt buộc kẻ dưới phải phục tùng người trên và đó là cách thức bảo vệ địa vị cho họ.

Nhờ tu chứng dưới cội Bồ-đề, đức Phật đã thấy rõ mọi sự sai biệt trong cuộc đời này đều do nhiều nhân duyên hòa hợp lại mà hình thành. Trong vũ trụ bao la này không có cái gì do một nhân mà hình thành. Nếu ai nói có một chủ thể tạo ra tất cả thì ta biết họ chưa hiểu về sự vận hành của nhân quả-nghiệp báo trong bầu vũ trụ bao la với thiên hình vạn trạng vì không thể có cái gì chỉ có một nhân mà hình thành.

Nếu nói cái gì cũng do trời quyết định thì tại sao có sự bất đồng và sai biệt trên thế gian này, không ai giống ai. Nếu thượng đế có khả năng ban phước giáng họa thì tại sao không ban phước lành đến cho tất cả chúng sanh? Còn nếu nói số phận đã định sẵn từ trước thì tại sao có người thay đổi được vận mệnh như anh nông dân lượm được của rơi.

Nếu thượng đế tạo tác ra tất cả thì chính sự tạo tác của thượng đế mà con người trở nên sát hại, trộm cướp, loạn luân, giả dối, phỉ báng, thô lỗ, nhảm nhí, thèm thuồng, khao khát, hiểm độc và hiểu biết sai lầm. Nếu số mệnh đã sắp đặt sẵn thì thật là tai hại vô cùng, ai lỡ làm những việc xấu ác sẽ đổ thừa số phận họ như thế mà không cố gắng phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình.

Đạo Phật quan niệm rất thiết thực, không chấp nhận hay đổ thừa cho số phận, làm cái gì được thì nói nhờ trời, còn không được thì đổ thừa tại trời, nói như vậy thì oan cho trời quá. Người nào quan niệm như thế thì vô tình hại mình, hại gia đình và xã hội. Bởi vì người ấy sẽ không cố gắng phấn đấu để vươn lên sống có ích cho cuộc đời mà rơi vào mê tín dị đoan. Trong khi đó, mỗi con người chúng ta đều có khả năng suy luận, nhận xét, tư duy, quán chiếu, có thể vận dụng sự hiểu biết của mình mà thay đổi, chuyển hóa từ con người cho đến muôn loài vật.

Theo quan điểm của đạo Phật, “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không, cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia diệt, tất cả đều nương tựa mật thiết vào nhau, tùy theo hoàn cảnh mà có đổi thay, thay đổi vô cùng tận.”

Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn, giàu lòng từ bi, đầy đủ trí tuệ, Ngài luôn thương tưởng đến tất cả chúng sinh, mong làm sao giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, tự tin chính mình, làm lành lánh dữ, sống có ích cho tha nhân. Ai tin sâu nhân quả và luôn hướng đến chân-thiện-mỹ thì lúc nào cũng sống được bình an, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Sự ra đời của đạo Phật đã giúp cho mọi người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trị hạnh phúc thật sự cho tất cả chúng sinh. Mọi sự tốt đẹp, phải quấy, nên hư, thành bại đều do chính mình tạo lấy, không ai có quyền ban phước, giáng họa hay sắp đặt số phận con người.

Từ xa xưa, một số người lợi dụng quyền thế của mình đã tuyên truyền con người và vạn vật sinh ra trong cõi đời này đều do một đấng thần linh thượng đế tạo ra. Ai không chấp nhận tu tập theo sự hướng dẫn của họ sẽ bị đọa lạc vào chốn khốn cùng, khổ đau. Ai chịu nghe lời thần linh thượng đế thì sẽ hưởng được quả báo tốt đẹp.

Đức Phật dạy rằng, trong mỗi người chúng ta ai cũng có khả năng giác ngộ và giải thoát, chỉ vì chúng ta không chịu thừa nhận, không chịu suy xét thấu đáo nên đã tạo ra những nỗi khổ, niềm đau mà làm tổn hại cho nhau. Chính vì thế mà khi sinh ra đời ta phải chiêu cảm những quả báo xấu xa, đau đớn và khổ não.

Tuy sinh ra cùng là thân phận con người nhưng do nhân đời trước gieo tạo khác nhau mà trong đời hiện tại phải chịu quả khác nhau nên mỗi người mỗi hoàn cảnh, đời sống. Còn người mê muội, tà kiến, chấp trước, không hiểu biết đúng sự thật của cuộc đời sẽ bị rơi vào các loại súc sanh sống theo quán tính, nghiệp tập, tùy theo sự chiêu cảm mà rơi vào quả báo loài nào và phải chịu trả quả suốt đời, suốt kiếp không cưỡng lại được.

Chúng ta ai được sanh ra làm người là một diễm phúc rất lớn vì có đầy đủ phương tiện, có tư tưởng, có tư duy, có hiểu biết, có nhận định đúng sai, có tìm hiểu, học hỏi giáo lý nhân quả một cách chân chính. Ta tin tưởng rằng mình có khả năng giác ngộ, giải thoát thật sự nên cố gắng không làm các điều ác mà hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp nhờ tin sâu nhân quả. Khi chúng ta đã biết cách làm chủ bản thân thì lúc nào cũng kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động trong sáng suốt. Nhờ vậy, ta luôn sống trong bình an, hạnh phúc.

Vậy nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Tuy nhiên, nhân quả rất đa dạng và phức tạp.

Có loại nhân quả gần, tức là khi ta làm điều gì thì có kết quả liền trong hiện tại, không phải chờ đợi lâu xa. Thí dụ như trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu hay còn gọi là nhân nào quả nấy. Trường hợp thứ hai như khi ta đang đói bụng, ăn cơm vào thì ta no liền, hoặc ta đánh trống thì nghe được âm thanh của trống ngay tức khắc.

Có những nhân ta gieo trong hiện tại sau một thời gian ngắn từ năm ba tháng cho đến vài năm mới cho ra kết quả. Có những nhân ta gieo tạo nhưng trải qua một đời, hai đời hoặc vô số kiếp về sau thì quả mới trổ ra. Khi chúng ta gieo nhân mà không có kết quả là do thiếu những duyên phụ hoặc vì ta tu hành quá tinh tấn nên nhân xấu không đủ sức trổ quả.

Như trường hợp trong một lúc ta cùng gieo ba thứ hạt giống là cây lúa, cây chuối, cây mít và chăm sóc kỹ càng nhưng kết quả cho ra không cùng một thời gian. Cây lúa khi gieo xuống thì từ 3 tháng cho đến 6 tháng có kết quả, cây chuối phải từ 9 tháng đến một năm, còn cây mít ít nhất phải từ 2 năm trở lên, đó là nhân quả thuận chiều theo nhân duyên. Nhưng có những nhân mà ta đã gieo lại không có kết quả như nửa chừng cây bị chết hoặc bị trường hợp rủi ro khác.

Nhân quả rất đa dạng và phức tạp, chúng ta là những phàm phu mắt thịt nên không thể nào nhìn thấy hết tất cả tiến trình chi phối và diễn biến của luật nhân quả nghiệp báo. Là người Phật tử chân chính chúng ta phải thận trọng trong từng ý nghĩ, lời nói, cho đến hành động do mình tạo ra trong từng phút, từng giờ. Ta phải thường xuyên xem xét, quán chiếu, soi sáng lại chính mình để không vấp phải lỗi lầm.

Nhân quả có thể thay đổi được 

Nói đến nhân quả là nói đến sự tương quan, tương duyên mật thiết với nhau bằng những hành động do chúng ta làm ra. Làm lành được hưởng phước an vui hạnh phúc, làm ác phải chịu quả khổ đau vô cùng tận, đó là một sự thật công bằng. Chúng ta có thể qua mặt được pháp luật nhưng không thể chạy trốn toà án nhân quả khi hội đủ nhân duyên.

Trong Kinh A-hàm đức Phật đưa ra ví dụ rất hay. Nếu ta bỏ vào ly nước một nắm muối nhỏ thì ly nước sẽ bị mặn và ta không thể uống được. Cũng cùng một nắm muối đó nếu ta bỏ vào một lu nước lớn thì nước sẽ chỉ măn mẳn, ta có thể dùng xài hoặc giải khát tạm thời. Nhưng cùng một nắm muối đó nếu đem bỏ vào một hồ lớn thì do nước quá nhiều nên nắm muối không thể chi phối được, do đó ta có thể dùng xài bình thường.

Nhà Phật dụ cho nắm muối là nghiệp xấu ác, còn nước là nghiệp thiện lành và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy trong nhà Phật có nói rằng gieo nhân nào thì gặt quả nấy, nhưng nhân quả do hành động của mình tạo ra từ thân-miệng-ý nên chính mình có thể thay đổi, chuyển hóa được. Cũng như trước kia, lúc còn nhỏ chúng ta chưa biết hút thuốc, uống rượu, cờ bạc… Đến khi lớn lên hòa vào đời sống cộng đồng ta thấy người ta làm điều đó rồi bắt chước một vài lần, nếu ai tiếp tục huân tập một thời gian thì cũng biết hút thuốc, biết uống rượu, biết cờ bạc như ai vậy.

Rồi thời gian trôi qua theo năm tháng, chúng ta có duyên được đến chùa học hỏi, nghe pháp và biết tu tập. Ta thấy rằng đây là những nghiệp tập không tốt đẹp, hao tiền tốn của và dẫn đến bệnh tật, đau yếu làm cho vợ con, người thân trong gia đình lo âu, sợ hãi mà giảm đi niềm an vui, hạnh phúc. Khi đã biết rõ đây là những tập nghiệp xấu thì từ đó chúng ta ý thức được sự tác hại của nó mà tự từ bỏ chứ không ai ép ta bỏ được. Nếu như chúng ta không tự ý thức, không chịu từ bỏ thì dù cho đức Phật hiện tiền cũng không thể nào giúp ta bỏ được.

Nắm muối bỏ vào ly nước là đức Phật dụ cho nhân nào quả nấy để ám chỉ cho hạng người buông trôi theo số phận, chẳng chịu cố gắng làm lại cuộc đời vì nghĩ rằng số tôi như thế mà chấp nhận sống trong đau khổ lầm mê.

Nắm muối bỏ vào lu nước lớn là dụ cho người đã cố gắng thay đổi nhưng không bỏ được hoàn toàn, dù sao cũng đỡ hơn hạng người trước.

Hạng người thứ ba là hạng người hoàn toàn chuyển nghiệp xấu ác do biết tu thân, tu giới và tu tâm niệm rộng lớn nên đức Phật dụ cho nắm muối bỏ vào một hồ nước lớn.

Chúng ta hãy thường xuyên suy xét và kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ, lời nói cho đến hành động nếu có hại cho mình và người thì nhất quyết không làm. Những gì ta thấy có lợi cho mình và người thì cố gắng không bỏ qua dù cho đó là một việc rất nhỏ. Nhờ tâm phát nguyện rộng lớn như thế ta sẽ vượt qua được những chướng duyên nghịch cảnh trong cuộc đời. Vì sao? Vì theo đạo lý nhà Phật, ai sinh ra trong cõi đời này không ít thì nhiều từ lớn đến nhỏ dù không làm ác nhiều thì cũng làm ác ít. Bởi vì chúng ta chưa có sự hiểu biết chân chính, chưa có lòng tin nhân quả vững chắc nên chắc chắn ai cũng có sai lầm.

Ngày nay, chúng ta may mắn gặp được thầy lành bạn tốt, có đầy đủ phúc duyên, tuy điều kiện của chúng ta không được tốt đẹp, trọn vẹn như người khác nhưng ta không có gì phải buồn phiền, khổ đau, trách móc, đổ thừa tại bị thì là… Bởi vì chúng ta biết Phật pháp, biết thực hành những lời Phật dạy, biết rõ nhân nào dẫn đến sa đọa khổ đau, nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc.

Khi đau ta biết thân này đau vì nghiệp tập nhiều đời nhiều kiếp mình đã gieo tạo, nay ta biết được hậu quả của nó làm cho mình và người khổ đau nên ta nhất quyết không để tái phạm, đến khi hội đủ nhân duyên thì nghiệp xấu sẽ hết. Nhờ vào sự tinh cần tu tập mà ta chuyển hóa được nỗi khổ, niềm đau mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Theo định luật nhân quả có vay ắt phải có trả, hay đã gieo gió ắt sẽ gặp bão. Nếu nói một cách cứng ngắt như vậy thì vô tình chúng ta cho rằng luật nhân quả là cố định, là bất biến. Điều đó chỉ đúng một phần mà chưa hoàn toàn đúng hẳn. Vì sao? Nó chỉ đúng đối với những hạng người bèo dạt mây trôi, không đủ ý chí và nghị lực để buông xả thói quen xấu của mình. Cho nên, lý nhân quả rất tế nhị và sâu kín, nhiệm mầu.

Chúng ta thường nghe nói “nhân nào quả nấy, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu”, ai nói như vậy là chưa hiểu thấu lý nhân quả. Đạo Phật nói lý nhân quả là một chuỗi dài thời gian mang tính cách ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Khi ta gieo nhân phải trải qua một thời gian nhất định nào đó nhanh hay chậm là tùy theo những duyên phụ thuộc mới cho ra kết quả.

Nhân nào quả nấy hay còn gọi là hiện báo, gieo nhân liền gặt quả như người đói bụng ăn cơm liền no. Đó là nhân quả hiện tiền, vừa gieo nhân là có kết quả liền. Vì vậy mà người ta dễ hiểu lầm vấn đề nhân quả với số phận, nó chỉ đúng và phù hợp với hạng người bèo dạt mây trôi, không chịu cố gắng vươn lên làm lại cuộc đời. Hạng người này không cần tìm hiểu, suy xét, quán chiếu mà chỉ sống theo phong tục tập quán, ai như thế nào thì mình như thế đó.

Khi gieo nhân ta có thể phải chờ một thời gian mới cho ra kết quả. Thí dụ muốn có trái mít ăn ta phải có một hột mít trồng xuống đất rồi phải chờ đến ba bốn năm sau mới có trái, nhưng nếu thiếu sự chăm sóc hay thời tiết không phù hợp thì chưa chắc ta đã có trái mít. Do đó, chúng ta có thể thay đổi hoàn cảnh mà tạo ra kết quả sai biệt, không nhất thiết phải nhân nào quả nấy.

Như vậy, nói nhân nào quả nấy thì không đúng hẳn, tùy theo điều kiện, nhân duyên mà cho ra kết quả. Chúng ta không thể nói một chiều nhân nào quả nấy một cách cứng ngắt, nếu nói như vậy thì những người tu hành như chúng tôi có lợi ích chi đâu? Xưa kia lỡ tạo nhân ác thì ngày nay dù có tu hành vẫn chịu quả ác, vậy tu hành để làm gì?

Khi hiểu như vậy rồi chúng ta sẽ cố gắng làm mới lại chính mình bằng những việc làm thiết thực có lợi ích cho người và vật. Khi xưa ta chưa biết tu thì ta gieo nghiệp lường gạt, trộm cướp làm khổ đau cho mọi người. Nay ta biết tu rồi thì nhờ quán chiếu, xem xét ta thấy đó là nhân dẫn đến đau khổ, mê lầm, làm tổn hại cho nhau nên dứt khoát không làm nữa, do đó ngay nơi đây nhân xấu bắt đầu chấm dứt.

Như khi chúng ta đang chạy xe với tốc độ nhanh, nếu thắng gấp lại thì cái chớn của nó cũng xa hơn nếu xe chạy tốc độ chậm. Cũng vậy, ai tạo thói xấu nhiều cũng thay đổi chậm hơn người bình thường.

Người xuất gia tu hành như chúng tôi thọ dụng vật thực của đàn-na tín thí, nhờ sự giúp đỡ của Phật tử về phương tiện vật chất, tiền bạc của cải thì có phải trả món nợ nhân quả này hay không? Nếu cứ khẳng định nhân nào quả nấy, vay tiền trả tiền, vay bạc trả bạc thì chắc chắn người xuất gia không thể trả nợ được.

Người xuất gia tu hành thọ nhận sự cúng dường của đàn-na tín thí sẽ phải trả món nợ ấy bằng sự tu hành chân chánh và việc hóa độ chúng sanh, truyền bá lời dạy của đức Phật, chỉ cho mọi người biết được nhân nào dẫn đến an vui hạnh phúc, nhân nào dẫn đến sa đoạ khổ đau. Chúng tôi hướng dẫn, chỉ dạy cách sống làm người tốt và không làm tổn hại cho ai nên coi như chúng tôi đã trả được món nợ cơm áo gạo tiền, chỉ sợ những ai không chịu tu hành đàng hoàng rồi giáo hoá chúng sinh thì mới phải chịu mang lông đội sừng mà thôi.

Tiền bạc quý Phật tử giúp ăn năm ba tháng thì hết hoặc nhiều lắm được vài ba năm là cùng. Chánh pháp của Phật đà trao lại thì quý Phật tử có thể ứng dụng cả đời cũng chưa hết mà vẫn còn thừa làm hành trang mang đến sử dụng ở kiếp sau. Vì vậy, trong các bản kinh đức Phật thường hay nói: “Trong các hạnh bố thí, bố thí Chánh pháp là thù thắng hơn tất cả vì giúp cho mọi người được an vui, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau.”

Thí dụ, như người mới sanh ra bị bệnh hoạn, tàn tật suốt đời là do kiếp trước gieo nhân đánh đập hành hạ chúng sinh, cho nên ngày hôm nay phải chịu nhận hậu quả bệnh tật khổ đau như thế.

Nhân quả theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không bao giờ mất. Chúng ta có thể qua mặt được luật pháp của thế gian nhưng không thể nào trốn tránh quá trình diễn biến của nhân quả khi đủ nhân duyên. Người biết tu khi gặp quả xấu sẽ không đổ thừa tại, bị, thì, là… mà luôn biết rằng tất cả đều do nhân xấu mình tạo từ trước, nhờ vậy họ cố gắng tu hành để từ từ chuyển hóa nên quả xấu được giảm nhẹ và có thể hết sạch.

Thời xa xưa, con người cho rằng những hiện tượng như mưa gió, bão bùng, sấm sét long trời lở đất chính là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm điều xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc bất thiện, từ đó lâu dần thành ra phong tục, tập quán rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người. Họ quên đi những điều rất thực tiễn là gieo nhân nào thì gặt quả nấy.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học nên con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ. Tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này. Sự hình thành của muôn loài vật đều theo nguyên lý duyên khởi “cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không”.

Đây là nguyên lý sống do đức Phật chứng ngộ mà nói ra, không phải do suy luận vu vơ huyền hoặc. Ngài chỉ cho con người biết cách làm chủ bản thân, đem lại giá trị bình đẳng cho con người bằng việc làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Con người có quyền làm chủ chính mình, do đó nên hư, thành bại, phải quấy, tốt xấu đều do con người tạo lấy, không một đấng tối cao nào có quyền ban phước giáng họa. Đó là chân lý nhiệm mầu của đời sống con người.

Hoặc giả lúc ta chưa biết tu thì miệng hay nói lời hung dữ, ác độc, cay nghiệt làm cho người oán giận, thù hằn, phiền não, khổ đau. Nay biết tu rồi ta ý thức được đó là lời nói làm tổn hại đến người nên thường nói lời hòa nhã, chân thật, dịu dàng, dễ nghe. Đó là ta biết chuyển nhân xấu từ miệng thành nhân quả tốt.

Như vậy, nhân quả khác với số phận là ta có thể thay đổi được. Nhờ đó, con người có thể chuyển xấu thành tốt, chuyển họa thành phúc, chuyển mê thành ngộ. Thực hành được những điều đó chính là người khéo biết tu vậy.

Còn nói số phận con người là cố định, không thể thay đổi được thì người giàu sẽ ỷ lại. Họ sẽ hưởng thụ, ăn chơi sa đọa, đến khi phước hết họa đến thì họ làm sao trở tay cho kịp nên đành bó tay ngồi than thân trách phận, oán trời trách đất, đổ thừa tại bị thì là. Người nghèo thì lại nghĩ rằng dù có siêng năng, tinh cần cũng mất công vô ích nên chẳng cần phấn đấu vươn lên làm mới lại chính mình, cuối cùng đã nghèo lại càng nghèo thêm.

Chính vì vậy, hiểu và ứng dụng lý nhân quả trong đời sống hằng ngày giúp con người có thêm ý chí nghị lực, giàu lòng can đảm, không bi quan yếm thế, không oán than hay đổ thừa số phận khi gặp bế tắc. Dù gặp nhiều khó khăn, chướng ngại nhưng ta vẫn vui vẻ vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Người không tin vào nhân quả thường có thái độ yếu đuối, thấp hèn, luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, bất an. Họ hay tin vào những khả năng siêu hình hoặc tha lực, mang tư tưởng cầu nguyện, van xin, sống ỷ lại vào người khác nên dễ dẫn đến mê tín dị đoan, không tin sâu nhân quả, do đó không nhìn thấy được lẽ thật và luôn sống trong đau khổ lầm mê.

Ai hiểu và tin sâu nhân quả thì sẽ sống một đời bình yên, hạnh phúc trong trạng thái an lành, tự tại, luôn sống có trách nhiệm đối với mọi hành vi xuất phát từ thân-miệng-ý của chính mình. Người đã tin sâu nhân quả thì biết rõ ràng làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau là một quy luật tất yếu, là lẽ đương nhiên. Ai có lòng tin sâu như vậy thì sẽ sống không ỷ lại, không cầu cạnh van xin, không chạy trốn trách nhiệm, dám làm, dám chịu, không đổ thừa cho ai.

Đạo Phật là một tôn giáo có chất liệu rất thực tế trong đời sống con người. Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là để phục vụ cho lợi ích nhân loại và muôn loài. Đạo Phật luôn nêu cao tinh thần nhân quả và khả năng giác ngộ của con người. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này nếu đem ra khảo sát thật kỹ chúng ta sẽ thấy không một sự vật nào thoát ra ngoài lý nhân quả. “Thấy quả biết nhân, thấy nhân biết quả” là tinh thần thực tiễn rất khoa học, không mơ hồ, không ảo tưởng. Một số khảo cứu của các nhà khoa học đã chứng minh lời Phật dạy là chân lý.

Hiểu và ứng dụng lý nhân quả vào đời sống hằng ngày chúng ta sẽ tự tin nơi chính mình, không ỷ lại vào một đấng quyền năng nào có thể ban phước giáng họa cho con người. Trong đời sống này khổ hay vui là do mình tạo lấy mà thôi, chính con người là thượng đế tối cao của con người. Con người có quyền quyết định mọi vấn đề trong cuộc sống và có quyền làm chủ mọi hành động từ thân-miệng-ý. Trong khuôn khổ nhất định, người làm lành được hưởng phước, người làm ác phải chịu khổ đau, ta không thể đổ thừa cho ai cả.

Giáo lý nhà Phật từ thấp tới cao, từ đạo làm người cho đến đạo hiền Thánh đều dựa trên nền tảng lý nhân quả. Vì vậy, trong cuộc sống ai không thấu hiểu lý nhân quả thì sự tu hành khó mà đạt được kết quả tốt đẹp.

Người Phật tử chân chính phải tin sâu nhân quả nghiệp báo, nó là một nguyên lý giúp con người ý thức và chịu trách nhiệm về những hành vi tạo tác của mình trong đời sống hiện tại. Người tu theo đạo Phật cần phải hiểu thấu lý nhân quả một cách tường tận, lấy đó làm kim chỉ nam, làm phương châm tu hành ngay tại đây và bây giờ để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

BÀI 16 - ĐẠO PHẬT TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO CỦA CON NGƯỜI

Trong cuộc đời này có hai thứ tự do mà ai cũng có thể mong muốn: Đó là tự do thỏa mãn hưởng thụ về vật chất như tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc đẹp, ăn ngon mặc ấm, ngủ nghỉ thoải mái và tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc của phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tự do theo đúng nghĩa của nó là thật sự giải thoát khỏi các sự tham muốn hưởng thụ chứ không phải là tự do thỏa mãn dục vọng.

Các nước tân tiến văn minh, hiện đại chỉ công nhận loại tự do đầu tiên là tự do thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người và mọi người tôn thờ loại tự do ấy bằng tuyên ngôn dân chủ nhân quyền được luật pháp chấp nhận. Chính loại tự do hưởng thụ vật chất này mà thế giới con người lúc nào cũng tranh giành và tìm cách chiếm đoạt, giết hại lẫn nhau.

Loại tự do thứ hai là tự do thoát khỏi mọi sự ràng buộc về hưởng thụ vật chất nhờ biết cách làm chủ bản thân mà điều phục được thân-miệng-ý nên an nhiên, tự tại giải thoát trong mọi hoàn cảnh. Chỉ có đạo Phật là biết tôn trọng quyền tự do con người khi không ép buộc và áp đặt một ai.

Có hai vị thầy nọ được mời dự lễ cúng dường trai Tăng tại nhà một Phật tử, họ được thân chủ tiếp đãi nồng hậu trong phòng khách. Tuy nhiên, có một điều làm cho vị thầy nhỏ tuổi hơn chú ý là trong nhà có một cái bể nuôi nhiều loại cá.

Vị thầy này cảm thấy không bằng lòng với việc nuôi cá trong bể vì không hợp với giáo lý từ bi của đạo Phật. Lũ cá kia thật là tội nghiệp vì không được tự do thoải mái bơi lội trong vùng sông nước mênh mông hay ao hồ rộng lớn.

Vị thầy lớn tuổi mới giải thích cho vị thầy trẻ nghe rằng: “Quả thực là những con cá ấy không được tự do bơi lội tung tăng theo sở thích riêng của chúng, nhưng chúng sống trong bể kính thì sẽ thoát khỏi nhiều mối nguy hiểm do các loài khác xâm hại.” Rồi vị thầy lớn lại tiếp tục liệt kê những lợi ích cá trong bể có được như sau:

Chúng ta có bao giờ thấy ai đi câu cá trong một bể cá trong nhà chưa? Chắc chắn là chưa! Vậy sự tự do đầu tiên mà những con cá kia có được là không bị những người đi câu đe dọa mạng sống. Chúng ta hãy thử tưởng tượng hoàn cảnh của những con cá trong ao hồ sông suối thiên nhiên xem mạng sống của chúng thường xuyên bị đe dọa như thế nào.

Khi chúng thấy những con mồi ngon béo bở do loài người giăng bẫy, chúng có biết chắc là khi xơi tái con mồi thì tính mạng vẫn an toàn hay không? Đối với những con cá được sống trong môi trường tự nhiên, mạng sống của chúng luôn bị đe dọa theo nguyên lý lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu và việc ăn của cá chất chứa nhiều nỗi hiểm nguy trong lo sợ. Bữa ăn ngon của chúng thường dẫn đến nhiều tai họa vì những miếng mồi béo bở.

Cá trong thiên nhiên ao hồ, sông suối thường sống trong khủng hoảng bởi nỗi lo sợ chết chóc bất đắc kỳ tử. Chưa kể đến trong thời buổi hiện nay nhiều sông hồ, ao suối bị ô nhiễm nặng bởi những con người không có lương tâm đạo đức. Những con cá trong bể kính sẽ thoát khỏi mối hiểm nguy bị cá lớn ăn thịt và bị những hiểm họa khác đe dọa mạng sống.

Trong tự nhiên có những con cá không thể tìm được thức ăn, hoặc ăn nhằm con mồi do loài người giăng bẫy. Cá trong bể kính thì cứ ngày hai lần được ăn bữa ăn đầy đủ chất dinh dưỡng. Cho nên, những con cá trong bể kính không bị cái đói đe dọa.

Trong tự nhiên khi cá bị bệnh chẳng có ai săn sóc, điều trị nên đành chịu chết dần chết mòn trong đau đớn. Cá trong bể kính thì được chăm sóc thuốc men đầy đủ nên mối nguy cơ bị bệnh hoạn xâm nhập không quá đe đọa đến tánh mạng.

Nói xong, vị thầy lớn tóm tắt lại: “Làm thân cá trong bể kính được hưởng nhiều thuận lợi trong cuộc sống. Tuy chúng bị hạn chế đôi chút về không gian nên không được tự do bơi đi đây đi đó nhưng có thể thoát khỏi những mối đe dọa hiểm nguy bên ngoài.”

Cũng vậy, những người tu hành phải gìn giữ giới luật và sống trong khuôn khổ nhất định nên không được tự do theo đuổi những dục vọng thấp hèn và thỏa mãn những mong muốn này nọ. Nhưng họ sẽ từng bước thoát khỏi nhiều sự dính mắc, ràng buộc bởi tham lam, sân giận và si mê nên dễ dàng tiếp nhận được bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Đã làm người thì tất nhiên chúng ta phải có nhiều mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, nào là cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh em, bạn bè, cộng đồng xã hội… không một ai có thể tồn tại riêng lẻ, biệt lập. Khi mối tương quan này được hình thành thì con người sẽ bị ràng buộc trong luyến ái bởi sự thương ghét vì muốn chiếm hữu. Cha mẹ luôn bênh vực con cái, anh chị em bênh vực lẫn nhau, vợ phải bênh vực cho chồng… vì những người này là gia đình, người thân “của tôi”. Còn những người không nằm trong dòng máu huyết thống là kẻ xa lạ nên khi người thân sai phạm thì ta vẫn cố tình bao che, bênh vực, thậm chí còn tìm cách hại người kia để bảo vệ quyền lợi cho thân nhân mình.

Cá trong tự nhiên được ví như tất cả mọi người thích hưởng thụ vật chất đầy đủ mà không quan tâm đến phần tinh thần nên suốt cuộc đời sống trong đau khổ, lầm mê.

Cá trong bể kính được ví như những người tu theo đạo Phật nhờ có giới luật bảo hộ cùng với cung thiền định và kiếm trí tuệ nên luôn sống trong bình yên, hạnh phúc, thoát khỏi mọi sự cám dỗ bên ngoài.

Chính vì vậy, để được tự do tự tại trong cuộc sống mà vẫn góp phần làm lợi ích cho xã hội đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên quán niệm, giám sát chặt chẽ thân-miệng-ý của mình.

Đây chính là kinh nghiệm mà đức Thế Tôn đã thực chứng và chỉ dạy lại cho chúng đệ tử: “Này các vị khất sĩ! Mỗi khi nội tâm có tham dục, vị khất sĩ ấy ý thức là nội tâm có tham dục. Mỗi khi nội tâm không có tham dục, vị ấy ý thức là nội tâm không có tham dục. Mỗi khi trong tâm có sân hận, vị khất sĩ ấy ý thức là trong tâm có sân hận. Mỗi khi trong tâm không có sân hận, vị ấy ý thức là trong tâm không có sân hận. Mỗi khi tâm thức bị si mê, vị ấy ý thức là tâm thức bị si mê. Mỗi khi tâm thức không si mê, vị ấy ý thức là tâm thức không si mê.”

Để ta được tự do tự tại trong cuộc sống, không bị dính mắc bởi tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp, ngủ nghỉ thoải mái, ta chỉ cần nhận biết rõ tâm ý mình mà không cần phải chống đối, trừ khử thì tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt hiện tiền.

Chính vì lẽ đó nên đức Thế Tôn dạy rằng: “Này hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.” – “Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu?” – “Này hiền giả, khi ta đứng lại, thời ta chìm xuống; khi ta bước tới, thời ta trôi giạt. Do vậy, này hiền giả, không đứng lại, không bước tới, ta vượt khỏi bộc lưu.”

Bước tới là chạy theo sự tham muốn hưởng thụ dục lạc, còn đứng lại là nắm giữ, sở hữu cái mình ưa thích. Chính vì muốn sở hữu “cái này là của tôi” nên khi bị người khác chiếm đoạt hoặc bị mất mát thì tâm sân hận phát khởi nên lúc nào cũng oán giận, ghét bỏ mà tìm cách trả thù.

Đức Phật là người duy nhất trên thế gian này đem lại cho nhân loại quyền bình đẳng và tự do của con người. Ngài không nhân danh thần linh thượng đế hay đấng tối cao ban phước giáng họa như các truyền thống xa xưa, Ngài chỉ nhân danh con người vì con người là chủ nhân ông của bao điều họa phúc.

Con người là động vật tối thượng có suy nghĩ và nhận thức sáng suốt bởi biết tư duy, nghiệm xét, tìm tòi. Con người ai cũng thích được thong thả, tự do, nếu có sự ép buộc kiềm chế từ bên ngoài là đánh mất quyền tự do của con người. Chính vì thế, chúng ta đến với đạo Phật không có điều kiện bắt buộc gì cả, chỉ cần ta có ý thức mến đạo, thích tu vì tình người trong cuộc sống là đủ rồi.

Chúng ta sau khi trở thành người Phật tử cũng không có sự bắt buộc nào. Khi phát tâm quy y Tam bảo, nhà Phật có khuyến khích mọi người nên giữ gìn 5 giới cấm. Trước tiên là không được giết người, sau đó hạn chế tối đa giết hại các loài vật, không gian tham trộm cướp, không tà dâm mà hay sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người hoặc lường gạt, không dùng và tiêu thụ các chất độc hại như uống rượu say xỉn hoặc dùng xì ke ma túy. Đó là phương tiện nhằm đem lại sự bình an, hạnh phúc cho quý Phật tử đó thôi.

Cho đến khổ đau và an vui của con người đạo Phật có nói rõ đều do con người tự do tạo lấy theo nguyên lý nhân quả mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Đức Phật nói: “Ta không có quyền ban phước giáng họa cho con người.” Ngài chỉ là vị thầy dẫn đường hướng dẫn cho mọi người biết được điều hay lẽ phải, còn làm được hay không là do chính mình quyết định. Ta hành động tốt, hay giúp đỡ mọi người sẽ mang niềm vui đến cho mình, nếu hành động xấu sẽ tự chuốc quả khổ đau.

Tự do trong nhà Phật là kêu gọi mọi người ý thức tự giác để biết cách làm chủ bản thân qua thân-miệng-ý và thắng được mọi cám dỗ bên ngoài. Tất cả mọi thứ tiền tài, sắc đẹp, danh lợi và quyền lực không lôi cuốn được ta là ta đã tự do. Người đời miệng luôn nói tự do, đòi tự do, kêu gọi tự do mà đam mê tửu sắc, vui chơi hưởng thụ quá đáng nên dẫn đến tan nhà nát cửa thì bao giờ mới được tự do?

Tự do là chân giá trị sống của con người. Song, muốn tự do ta phải có đầy đủ giới-định-tuệ và sức mạnh nghị lực mới mong chiến thắng bọn ma mị tài, sắc, danh lợi… Không dính mắc mọi sự cám dỗ bên ngoài là ta đang được tự do và cuối cùng là dẫn đến quả giác ngộ, giải thoát.

Chúng ta giải thoát bằng cách nào? Thật sự, chúng ta không cần tìm giải thoát ở đâu xa, ngay nơi thân tâm này mình đã có đủ khả năng làm chủ bản thân qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý bằng sự bảo hộ của giới luật cùng với cung thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ.

Giới luật, thiền định và trí tuệ như cái đỉnh ba chân. Khi chúng ta phát huy và gìn giữ được ba yếu tố trên thì việc tu của chúng ta rất đơn giản, nhẹ nhàng. Giữ giới rất quan trọng vì nó là nhân dẫn đến khả năng định tâm trong thiền định, người phạm giới thì tâm niệm luôn toan tính lăng xăng.

Đối với tất cả vọng niệm ta không cần xua đuổi, khử trừ mà chỉ cần nhận diện và nhìn chúng như gió thoảng mây bay thì tất cả niệm sẽ tan hòa vào hư không. Khi đó ta thấy chỉ là thấy mọi hình ảnh sự vật mà không dính mắc vào đó nên vọng niệm không có cơ hội phát sinh, nhờ vậy ta an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chỗ này các Tổ thường dạy rằng niệm cho đến vô niệm vì vẫn thấy nghe mà thường biết rõ ràng.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn