Kiều Sám (Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm) [1] Hồng trang cổ tích Duyên đưa bước lại tìm qua Xe lăn hằn vết phù sa Tiền Đường Kiều nhìn nước ẩn mây hường Bãi sông thẳng tắp một đường sóng xanh. Đá rêu dựng lối vòng quanh Nước đêm ngày vỗ về ghành núi xa Chốn này thuở bước chân ra Sóng tung hoa trắng, lệ sa hàng hàng Tiền Đường mấy nhịp đoạn tràng Kiều nhìn bãi cát in vàng dấu chân Bước ai mấy nẻo phù vân Qua đây ghé lại một lần bến sông Chân đi bước dõi theo lòng Lòng ai có biết cái vòng quẫn quanh Ngày buông thân giữa dòng xanh Nước thay quan quách cuốn nhanh hình hài Giờ qua lại bến sông này Sương rơi lấm tấm, khói xây mờ mờ Mây trời cuộn lọn như tơ Nước xuôi khe khẽ gió đưa hoa ngàn. (20) Kiều nhìn mây nước mơ màng Thân ta đã mấy lần sang đất này Theo dòng dịch hóa vần xoay Áo thưa gió hạ, vai gầy tuyết đông Nghĩa ân nặng gánh tình thâm Lòng theo mệnh nước, thân dầm tuyết băng Biên cương tím ngắt mây giăng Tỳ bà vọng tiếng ải quan lạnh lùng Mắt thu chan chứa giọt hồng Vời trông non nước mịt mùng trời mây (30) Mang mang còn một khúc này Cỏ khô mộ nấm, trăng cài đêm sương Hán Hung tàn bãi chiến trường Xưa đem một thiếp mở đường quân cơ Biên quan day dứt gió đưa Ai về còn nhớ nắng mưa chốn nào. Trai tuấn kiệt, gái anh hào Dường như chưa dứt đường vào tử sinh Đẩy đưa kiếp kiếp nặng tình Bệ rồng hoa nở trên cành mẫu đơn Duyên trời đẹp ý quân vương Hài tiên khép nép hoa nhường dáng ai Thanh cung ngọn nước Bồng Lai Dặt dìu sáo trúc âm giai hợp hòa Xa đưa thoăn thoắt tay ngà Đàn tranh quyện tiếng tỳ bà vấn vương Nghê thường một khúc tiên nương Hoa cài áo, cổ đeo hương duyên hài Điểm trang mắt phượng mày ngài Vô tình, hữu ý, cứu bầy trẻ thơ Trọng nam khinh nữ bấy giờ Dân gian thay đổi, chẳng chờ nam nhi Mong sao vào bậc hoàng phi Lòng người thôi ác cũng vì đỉnh chung Giai nhân sánh với anh hùng Đầm đìa huyết lệ ghi cùng thiên thu. Xe lăn bánh cuộn bụi mù Lều tranh lúp xúp dãi dầu nắng mưa Kiều nhìn dãi đất lơ thơ Vài nương rau diếp cạnh bờ cỏ rêu Gió lùa cuốn chiếc khăn thêu Kìều quàng trên cổ bay theo nắng chiều. (62) [2] Bồi hồi rừng thu Thu un khói tím đồi xanh Ung dung áo lụa quấn vành khăn tơ Giỏ tre hoa trái bút thơ Kiều mang dép cỏ leo bờ dốc nghiêng Chùa tranh ai dựng bên triền Xưa kia chẳng mấy người tìm đến tên Rừng sâu núi dốc chênh vênh Một chàng cầu đạo trèo lên đỉnh này Chung quanh những nước cùng mây Bốn bề lặng ngắt cỏ cây um tùm Đường đi giục giã tưởng gần Mà sao hun hút nắng dần dần phai Lối ra chắng chịt cây gai Nhìn quanh nhà cửa chẳng ai chốn này Thì thôi cũng hết một ngày Ngả mình xuống đám cỏ may bên hồ Đêm buông mệt lã nằm co Nắm cơm đỡ dạ mai dò lối ra Mơ màng một giấc mộng hoa Dáng người thánh nữ trải tòa tinh khôi Khoan thai bước xuống chân đồi Lối quanh sỏi nhỏ, một đôi bậc thềm Vội vàng theo dấu chân im Thưa rằng: “Lạc bước hỏi tìm lối ra”. Cười rằng: “Cũng chẳng đâu xa Xưa kia dường đã lại qua chốn này. Pháp âm tươi cúc, hồng mai Hồng chung trầm bỗng đêm ngày chẳng lơi. Vả chăng tâm chẳng như lời Nay đà lạc bước chân đời đến đây Dù rằng dấu hạc chân mây Trong vòng pháp giới cũng xoay bước tìm” Nói rồi rão bước chân êm Đồi hoa khuất dạng rừng im lặng rừng. Tỉnh ra vạt nắng chưa hồng Nhìn quanh chỉ thấy cỏ bồng phất phơ Theo đường hoa dại lơ thơ Lại qua khoảng đất một bờ xanh rêu Không xa suối nước như reo Dưới tàng lá đỏ như treo hoa cười Dọc theo lối cỏ đơm tươi Bên triền đá dựng tượng người trong mơ Nếp khăn thô vấn hững hờ Thả ngang suối tóc choàng bờ vai thon Dừng chân trước tượng bàng hoàng Mộng đây, người đó, một hàng nến trong. (108) Quẳng đôi dép cỏ đồi hồng Lội ngang suối cạn ngược dòng nước xuôi Kiều nhìn tượng đá bên đồi Nét cười chạm khắc vẻ người đơn sơ Mắt nhìn như đã từng chờ Trên tay tượng quyển kinh thơ ố màu Đồi cao bãng lãng lá thu Lá tung tăng gió, lá nhu mì cài Tay Kiều chạm chuỗi ngọc trai Mẹ đeo vào cổ những ngày còn thơ Châu như ngấn lệ ngàn xưa Giờ còn vang vọng tiếng tơ đêm rằm Lần khuy tháo chuỗi khấn thầm Mang vào tay tượng một vòng ngọc xưa Mai sau dù nắng dù mưa Nguyện rằng bước bước chân đưa theo Thầy. Lần theo suối lá dặm dài Cây nghiêng tàng đổ lá bay đỏ trời Xa trông thấp thoáng bóng người Tay cầm chổi quét ngọn đồi lá phong Áo nâu phơ phất thân còm Bóng chênh vênh núi một vòm trán cao Quần lam ống trước ống sau Chổi quơ bốn hướng như vào cõi không Tung bay sóng lá chập chùng Lơ thơ gió điểm vài bông hoa ngàn Mở ra đường dốc thênh thang Chổi như quét cả mây vàng xuống khe Đường lên xanh ngát trúc che Mặt trời lấp ló muốn khoe nắng hồng. (138) [3] Một khúc Triêu Dương Mây xa lồng ngọn thu phong Bóng in vách núi khói vòng hơi sương Nhớ ngày trên đỉnh Triêu Dương Dãy Tiên Hà Lĩnh hồi chuông ngân đều Non xanh sóng biển dập dìu Ngư dân phơi lưới mỗi chiều về ngang Kẻ xuôi người ngược rộn ràng Sau ngày vất vả vội vàng lên non Chùa trên Phật Lũng chon von Núi như sen úp cánh son nhụy vàng Kinh hoa mực thấm lòng trang Tay Kiều nắn nót hàng hàng như thêu Khi theo mẹ tụng kinh chiều Khi thì đi vét cỏ rêu trên cồn Kết làm một tấm bồ đoàn Dâng thầy khuya sớm quỳ hoàn thời kinh Những khi lòng được an bình Tưởng năm mười bốn trọn tình xuất gia Nhưng rồi ngày tháng lại qua Bắc Kinh mười sáu theo cha trở về Tiểu khê sóng gợn câu thề Nghiệp duyên, duyên nghiệp lưới mê buộc ràng Mới hay nhân quả tự làm Có ai đem sổ đoạn tràng trao tay Tiếc khi bé bõng thơ ngây Tuổi vừa lên bảy nghe thầy giảng kinh Phổ Môn phẩm, diệu thánh linh In trong trí nhớ hiện hình Quán Âm Tưởng là dứt lối mê trầm Tưởng là vạn nẻo lạc lầm chẳng nghe Nhớ lời thệ nguyện xưa kia Nhớ khi kinh sớm kệ khuya bao mùa Nhớ khi đẻo tượng sân chùa Đốn nhành cây Gió hương đưa ý tình Lời Thầy: “Hoa Đảnh uy linh Là đệ nhất nghĩa tượng hình đài sen Cánh ngoài chẳng lấm bùn đen Đài gương thanh khiết hương chen nhụy vàng Ví như đốn giáo rỡ ràng Vượt qua thứ đệ vào hàng viên dung”. Lời Thầy như đại hồng chung Kiều đem ghi khắc vào lòng dám quên Những khi nằm dõi màn đêm Ứa hai hàng lệ mong đền ân sâu Những khi thân trải bể dâu Lời Thầy văng vẵng thêm đau đớn lòng Liên hoa thơm ngát hương nồng Quyển kinh diệu pháp Kiều lồng trang thơ Triêu Dương còn có bao giờ Trở về Hoa Đảnh nằm chờ trăng thanh Lời Thầy: “Một lá trầu xanh Trầu không vôi trắng nhai thành đỏ tươi”. Đến nay mới hiểu ý người Chân không diệu dụng vì đời sinh thân Sá chi không, có, phù vân Ai buồn ngồi đếm mấy lần lá bay. (194) Kiều nhìn vạt nắng dần phai Chợt nghe như tiếng lá cây xạc xào Nghiêng đầu nhàn nhã cúi chào Thì ra người quét lá vào tận đây Áo sờn bụi bám đầy tay Bạc phơ tóc chấm xương vai khô gầy Mặt nghiêm lộ nét uy nghi Trên hai hốc mắt hai vì sao đêm Kiều thưa: “Theo lối cỏ êm Chẳng ngờ lạc bước rừng thiền nào hay Nếu như xao động chốn này Cầu xin lượng thứ một ngày lại đi” Cười rằng: “Thiên tải nhất thì Cơ duyên hội ngộ dễ gì vào tay Cứ trông theo dấu bèo mây Biết đâu nhiều kiếp chốn này đã qua Rừng xanh đá dựng thành nhà Chẳng từ chối khách mới là rừng xanh Nếu như chẳng ngại điển kinh Duyên đưa ghé lại mái đình một phen.” Nói rồi xoay bước đi lên Khuất sau bóng trúc in trên nắng tà. (216) [4] Kinh chiều Chiều ra xem lại vườn sau Cỏ thu vàng úa, lách lau chen hàng Mướp hương lá úng, lá vàng Mồng tơi trên giậu đâm ngang, mọc bừa Dưới giàn hoa lý thớt thưa Kiều ngồi nhịp võng đong đưa chân ngà Nghĩ mai ươm lại cội hoa Đến mùa trổ nụ mang qua cúng chùa Thơm hương cũng đã mấy mùa Ướp trong trang sách kinh thơ của thầy Mai sau trên đỉnh đồi mây Phiêu bồng muôn hướng về đây một ngày Từ khi dõi bước chân thầy Nhiều lần tựa cửa trông mây phương nào Mây chiều như tấm vân bào Trải ra một khoảnh trời cao nhuộm vàng Vui chơi gió lại tìm sang Mây lồng trong gió như hàng phướn bay Trách lòng những tháng năm dài Chân in bãi cát tìm hoài dấu chân Bốn mùa thu hạ đông xuân Ngùi trông cố quận tưởng chừng chưa xa Nhớ ngày tìm đến đồi hoa Đỉnh cao Nam Nhạc trải tòa quy y Bây giờ vọng tiếng từ quy Nước non nghìn dặm lối đi nghìn trùng Đêm thanh lý trí tương phùng Mảnh gương chen giữa hai vòng thủy chung Đạo đời có có không không Soi qua chiếu lại một dòng uyên nguyên Tỳ bà hòa khúc đàn tiên Tơ rơi trên gối tơ riêng cõi nào Kiều ngồi bó gối u sầu Trang kinh chép dỡ đậm màu mực tươi Chiều nay xem lại bồi hồi Trang kinh ẩn hiện lời lời thiết tha Trách mình chuông mỏ dần dà Mãi mê rão bước rừng già cuối thu Đèn hoa khi tỏ, khi lu Trăng nghiêng cồn gió sương mù mịt bay Bỗng nghe chuông vọng rừng cây Tiếng ngân thanh thoát tỉnh bầy chim khuyên Bay lên như kết lọng huyền Vòng ngang góc núi bay liền về nam Tiếng kinh chiều tự chùa lam Sáng trong như ngọc kim cang kết tòa Tiếng lơi, tiếng nhặt hợp hòa Như sương mưa sớm rưới tà chuối cau Kiều ngồi yên lặng cúi đầu Xa xăm còn nhớ hoa ngâu rụng vàng Xưa theo mẹ đến chùa làng Vòng tay kính cẩn dưới làn trầm bay Lời kinh đồng vọng bấy nay Âm vang day dứt tháng ngày nổi trôi Dù mai góc bể chân trời Trang kinh ngày cũ chẳng vơi tấc lòng Nhớ ngày chạy giỡn ngoài đồng Chùa thầy cách một bãi sông cuối làng Kiều, Vân áo mới xênh xang Tóc xanh mẹ quấn một tràng hoa tươi Vào ngày lễ hội tháng mười Áo nâu, Kiều đóng vai người xuất gia Vân làm lão lái đò già Đưa người mến đạo về qua chùa này Trước sân sụp lạy cầu thầy Tràng hoa trên tóc rơi ngay bên hè Thầy cười tháo chuỗi bồ đề Choàng ngay vào cổ đem về thay hoa Mười lăm năm, một cành thoa Chuỗi xưa dấu kín dưới tà áo lơi (286) [5] Phóng lên trang giấy cõi bờ vô biên Sáng nay qua lại rừng tùng Mái đình cong vút rêu phong bám đầy Gió ru bãi cỏ xanh rì Hàng thông sừng sững đón mây viếng rừng Đi quanh hồ nước ngập ngừng Nghe như thoang thoảng một vùng trầm hương Leo lên bậc đá đẫm sương Kiều vào dưới mái tranh vờn khói bay Giò lan cọng lá vươn dài Mấy bông ngọc điệp cánh hây hây hồng Quanh phòng thơm ngát hương tùng Bức tranh thủy mặc đậm dòng thơ ghi Bên trong nhẹ bước chân đi Tiếng chào sau cánh cửa mây khép hờ Kiều thưa: “Chờ dứt cơn mưa Dần dà mới thấy sương mờ buổi mai” Cười rằng: “Lá lại rơi đầy Mới hôm nào quét mà nay đỏ hồng” Ung dung mời khách vào trong Chung trà tỏa khói từ lòng tay trao Phất phơ dòng tóc trắng phau Nụ cười cương nghị, mắt màu sao đêm Đong đưa ống trúc lay rèm Lung linh ngọn nến nhỏ thêm sáp hồng Kiều thưa: “Nét bút mấy dòng Khác chi những sợi khói lồng trên tranh Đề thơ hẳn bậc tài danh Ý lời sâu kín tung hoành như chơi.” Đáp rằng: “Thơ chẳng phải lời Đề thơ cũng chỉ vì người ngày nay Ý tình chẳng dỡ, chẳng hay Khác nào sợi khói vờn bay vừa rồi. Nếu như ý chỉ như lời Hóa ra thơ bút không ngoài hữu vi”. Kiều nghe lòng tựa hoa quỳ Hướng dương theo với ngày đi, đêm về Trang kinh chép dỡ dang kia Não nề nét mực tái tê từng dòng Mối sầu dấu tự đáy lòng Khoác lên trang giấy thấm hồng trái tim Dù không mây núi, trăng thềm Thoát vòng tình ái như quên hình hài Nhưng trong giấc quế hồn mai Dường như đâu đó sợi dây buộc ràng Khi như lãng đãng mộng vàng Khi thì tụ lại, khi tan tác lìa. Kiều thưa: “Trăm mối bộn bề Đọc thơ chẳng giống người đề câu thơ Dường như nét bút thờ ơ Phóng lên trang giấy cõi bờ vô biên” Cười rằng: “Chẳng xứng lời khen Đôi câu ghi vội như quen thói nhà Mái tranh chẳng mấy ai qua Cùng vui chung nước, chén trà bấy lâu Một lời đủ tạ lòng nhau Có không như giấc chiêm bao giữa ngày”. Kiều nhìn bóng lá lung lay Ngoài hiên ánh nắng buổi mai rực hồng Vi vu gió hát bên rừng Đôi con chim sẻ nhảy từng nhánh cây Cáo từ Kiều chắp hai tay Bậc thềm đưa tiển một ngày sắp qua. (348) [6] Hạnh nguyện dưới trăng Chiều nay mang xuống đàn xưa Treo trên vách trúc bục trơ dây chùng Từ khi dứt tiếng tơ đồng Cung thương ngày cũ tưởng chừng như xa Ngày nào lệ quyện giang hà Ngày nào sương núi đẫm tà áo bay Ngày nào thơ thẩn trông mây Mười lăm năm, tiếng thở dài theo chân Đến chừng hồn vỡ cùng thân Mới hay một áng phù vân, sá gì Khổ đau hằn tháng năm dài Chẳng ngờ lòng ấy, thân này cũng không Từ ngày khép kín phòng không Tơ đàn im tiếng, tơ chùng, phiếm lơi Hôm nay nhìn lại bồi hồi Cây đàn như muốn góp lời cùng ai Tơ buông đàn ngẩn ngơ dây Tiếng tươi hoa suối, tiếng ngây ngất rừng Reo vui tiếng chậm tiếng dừng Tiếng ngân lảnh lót nở bừng nụ mai Thơm hương mười ngón tay ai Tựu thành cung bậc âm giai bồng bềnh Tiếng rơi cuối thác đầu ghềnh Tiếng mưa tí tách đập phên cửa cài Chợt nghe ai động mái ngoài Bóng Kim vừa bước lên đài vọng tiên Dừng tay Kiều ngẫng đầu nhìn Bâng khuâng sóng mắt, xanh xanh mây trời Kiều thưa: “Thời tiết đổi dời Sương đà thấm ướt áo người có hay Không ngờ chàng ghé gác mây Chậm pha trà ướp hồng mai cuối mùa” Kim rằng: “Đàn khác hẳn xưa Nghe như gió cuốn mây đưa chốn nào Dư âm bàng bạc ngàn sao Tiếng ngân vút tận đỉnh cao không lời”. Kiều rời bục gỗ mĩm cười Nụ lan vừa mới trổ tươi sáng này Chung trà un khói hồng mai Nước thơm sóng sánh trên tay ai cầm Kiều thưa: “Đàn cũng như lòng Mở ra một cõi sắc không diệu vời Bao năm dõi dấu chân người Chắt chiu muốn giữ chặng đời đã qua Cánh tàn mà mãi tìm hoa Hương xưa đâu thể vẫn là hương xưa Hỏi lòng hẳn có bao giờ Đất thiêng và cõi đang mơ nối liền." Tay Kiều như nhánh thủy tiên Ngón tay vờn sóng lá hiền đong đưa Thong dong như chẳng đợi chờ Phiêu diêu vô tận bến bờ tự nhiên Kim nghe trong tiếng u huyền Mở ra ngàn nhánh tay tiên một lần Tay nào dìu dắt, bế bồng Tay nào kéo lại trời gần đất xa Tay nào đơm nhụy trăm hoa Tay nào kết lại một tòa thiên chân Tay nào lần hạt bảo trân Tay nào kiếm báu tuệ tâm sáng ngời Tay nào ôm ấp cõi đời Tay nào trầm lắng một hồi chuông ngân Tay nào ấn xuống mê tâm Tay nào vun xới hạt mầm héo khô Tay nào sen nở bên hồ Tay nào lần quyển kinh thơ lệ nhòa Tay nào trổi tiếng pháp loa Tay nào chống trượng lại qua cõi này. (416) [7] Trơ vơ trăng lạnh một Kiều với trăng Kiều lên tận đỉnh đồi xanh Áo tơ phơ phất dưới cành thông tươi Loanh quanh hoa dại chào mời Xa xa thẳng tắp nước dời chân mây Đồi thông sừng sững hàng cây Hương thông quyện gió dễ say lòng người Nhớ thời bé bõng lên mười Kiều, Vân trốn mẹ rong chơi chốn này Quả thông khô nhặt bày quầy Nhánh làm đòn gánh quảy vai bán hàng Bao năm xuôi ngược ngỗn ngang Tuổi thơ về lại xóa ngàn nghĩ suy Trắng trong như một anh nhi Theo lòng dâu bể người đi, kẻ về Trang kinh như vạn câu thề Chép đi chép lại chẳng hề lãng xao Sợ rằng gió dạt mưa dào Ngại đời muôn ngã thấp cao mặc người Khi lên tận đỉnh mây dời Khi thì bèo dạt rong trôi dập dìu Lá hoa đón gió muôn chiều Trơ vơ trăng lạnh một Kiều với trăng Quên chân tình rõ chân tâm Cái vòng có có không không diệu vời (440) Lối quanh dẫn xuống chân đồi Dưới tàng cây lớn ai ngồi lặng yên Áo lam phảng phất hương thiền Tầm nhìn khép lại một miền cỏ hoa Đến gần rõ dáng ni cô Sau lưng đá dựng một tòa uy nghi Dừng chân Kiều chắp hai tay Mĩm cười đáp lại dáng mai gầy gầy Dung quang rực rỡ lạ kỳ Khăn lam che nửa nét mày thanh thanh Mắt nhìn gói trọn biển xanh Môi cười chớm nở tinh anh nụ hồng Chung quanh cọ vẽ, bút lông Đôi ba quyển sách, vải lồng trên khung Tay đưa thư thả thong dong Chảy trên vải trắng một dòng thiên thu Kiều thưa: "Nét cọ trầm hùng Khéo chen màu sắc lạ lùng như in” Cười rằng: "Cảnh đẹp trong tranh Mai sau bên suối tịnh thanh tâm này Xuân tươi vốn tự nguyên lai Cõi xa nghìn dặm ai hay trở về Tay tiên trổ nhánh bồ đề Người qua kẻ lại, tỉnh, mê, hài hòa. Lòng đà ra khỏi cung ma Phổ truyền thánh pháp thôn xa, xóm gần Chờ duyên mới độ, phàm nhân Tạo duyên mà độ, một vầng thanh lương Dòng kinh tuệ ngát trầm hương Ngọn cờ phất phới mười phương thái hòa Lòng một đạo, trí bao la Thông minh sáng suốt tìm ra con đường Chốn khó khăn phải đãm đương Oan ương nhận chịu đạo dường chẳng xa Biết rằng duyên nghiệp do ta Duyên từ ta đến nghiệp từ ta đi Hỏi rằng tu được pháp gì Tâm đồng chư Phật vậy thì pháp môn”. (478) [8] Tận hư không biến pháp giới Kiều ngồi lật quyển kinh thơ Mực in lòng giấy, tay đưa từng hàng Nhớ ngày còn ở quê làng Thường theo thuyền trúc chèo sang bên chùa Đồi cao lấm tấm sao thưa Khe sâu mấy dịp ngập mùa lá bay Thầy ngồi, xâu chuỗi trên tay Trước hiên trầm mấy nhánh mai sớm vàng Nón rơm gậy trúc thênh thang Áo bay các cõi như hàng cờ hoa Có khi lên tận non xa Có khi về với trăng ngà nghiêng nghiêng Cùng hoa cùng lá kết duyên Đến đi chẳng để mối phiền cho ai Chẳng nam bắc, chẳng đông tây Quá khứ, hiện tại, vị lai chẳng nề Giúp người bận rộn trăm bề Chỉ e chậm gót đi, về với ai Trường Sơn một nét cong dài Lí sự vô ngại, hình hài cũng không Mong sao thế giới đại đồng Người người hòa hợp không phân giống nòi Còn chi là của riêng tôi Mê tâm cuồng vọng theo đời đến đi Mắt nhìn thấu suốt huyền vi Chúng sinh chủng chủng phân ly được nào Đưa tay dìu thoát hố hào Bước chân thần biến ra vào từng khi Nắng mưa một mảnh pháp y Kinh quyền thần hóa hợp ly diệu vời Dạy dân, cứu bệnh cho người Bàn tay hoán chuyển đổi dời mệnh căn Hóa duyên, xin chúng sinh tâm Não phiền cho lão thì lòng được an Độc hành khắp cõi ứng thân Chẳng màng tên tuổi, hèn sang mặc tình Dương cung dưới bóng trăng thanh Mũi tên cắm giữa cung đình ma quân Ngựa như bay khỏi núi rừng Vạt tăng bào phất nửa chừng không gian. Bản kinh bát nhã mạ vàng Công thầy chăm chú hàng hàng thiên kim Cất trong hộp đá giữ gìn Bấy nhiêu năm hẳn thất truyền hay chăng Bóng thầy biền biệt thu xuân Mở trang kinh cũ rưng rưng lệ tràn Lí, Hành một cõi rỗng rang Đỉnh cao gió hú mở mang cơ đồ Pháp âm tràn ngọn Đại Tô Đức cao như núi, một vò tịnh minh Thần thông khế hợp lời kinh Phô bày hiển giáo song hành vô ngôn Vô tướng hạnh, vô tướng tông Vượt trên thứ đệ vào trong liên đài (532) [9] Nguyện như sợi khói vào trong luân hồi Tụng thời kinh buổi sáng nay Pháp âm còn đọng hàng cây liễu gầy Lơ thơ trước ngõ lá bay Mặt trời hé mở trên mây tươi cười Tay Kiều buông tiếng chuông lơi Âm ba vang vọng tầng trời thiên thanh Tiếng rơi trên lá trên cành Tiếng êm ả gọi, dỗ dành bấy lâu Tiếng như thúc giục đâu đâu Tiếng ngân vô tận bể dâu bời bời Chuông đưa mấy cõi sầu đời Chuông vào địa ngục rao mời thánh tâm Tay Kiều khơi thỏi hương trầm Nguyện như sợi khói vào trong luân hồi Như từ vô tận trùng khơi Hiện thân trên áng mây xuôi chốn nào Bay theo gió thoảng vườn đào Bay vào nôi ấm hỏi chào ứng thân Theo làn sương mỏng quây quần Bay lên đỉnh tuyết xuất thần hiện ra Hoặc khi khoác mảnh ca sa Hoặc khi hiện dáng trẻ già nơi nơi Hoặc khi khăn áo tả tơi Hoặc khi ngự chốn đài ngôi nghìn trùng Vào đời phá vỡ tà tông Hiển dương chánh giáo có không hợp hòa Viên dung Tiểu Đại một nhà Thời thời giáo giáo chẳng qua thế tình Chấp kinh, chấp kệ, chấp mình Pháp môn, chuông mỏ rập rình tuôn ra Tưởng gần mà lại hóa xa Giữ chùa, giữ miễu tâm ta chẳng gìn Dưới thềm Kiều cúi rạp mình Hai tay chắp lại như hình đóa sen Nguyện này xin gởi tam thiên Đại thiên thế giới một miền gió trăng Gối vừa chạm xuống thiền sàn Toàn thân thanh thoát như làn trầm hương Hiện ra ánh sáng dị thường Kết thành chuỗi ngọc trông dường nguyệt quang Phất phơ trước mắt rõ ràng Tựu thành một bảng kinh vàng gió lay Tận trong vô tận sương mây Vào trong vạn hữu đó đây hợp hòa Áo Kiều chợt hóa ca sa Sắc vàng óng ánh một tòa thiên chân Ngoài hiên bốn vị thiên nhân Tay cầm đàn nguyệt tán dương cội nguồn Tiếng như suối cuộn mây tuôn Tiếng như lất phất hạt sương đầu ngày Dư âm như tự thiên đài Vọng về chấn động muôn loài chúng sinh Mang mang một khúc vô thanh Nghe như mưa pháp trên ghành núi xa Hoa trời theo gió đưa qua Rơi trên vai áo cài hoa tóc Kiều. (588) [10] Một bức hoa tiên Bãi Tiên một buổi trời chiều Song song đôi ngựa Kim Kiều dạo chơi Vốn xưa bãi cát vắng người Sóng tung bông trắng điểm đồi dương xanh Lâu ngày ngư phủ về quanh Đốn cây dương lợp mái tranh dần dà Văn nhân, mặc khách lại qua Theo lòng tơ tưởng gọi là Bãi Tiên Kim Kiều thong thả xuống yên Dưới thông buộc ngựa dò triền núi xanh Cheo leo dốc núi gập ghềnh Leo qua phiến đá như lên thạch bàn Thoáng nhìn thấy một dị nhân Ngồi trên bệ đá như đang định thần Khoan thai Kim chậm bước chân Kiều hai tay chắp mở khăn cúi chào Một người dáng vẻ thanh tao Áo thô vải trắng ố màu thời gian Mắt nhìn thanh tịnh khinh an Nụ cười xa vắng hòa tan cơ huyền Kiều thưa: "Mây nước thanh yên Vui chân quá bước làm phiền lão sư" Đáp rằng: "Chẳng luống công dư Đến đây đã có ý từ bao năm Duyên xưa đưa đẩy một lần Gặp người nhớ cảnh chẳng lầm trước sau Nếu như chẳng ngại đôi câu Ghé qua lão kể duyên đầu kiếp xưa". Thúy Kiều vội chắp tay thưa: "Cơ duyên cũng lạ, bất ngờ gặp đây Lắng lòng nghe được lời hay Biết đâu thanh thản nước mây mặc tình" Dứt lời ngồi xuống bậc thềm Kim khoanh tay đứng lặng im mĩm cười. Rằng: "Xưa cũng thuận cơ trời Sinh thân vào khoảng cuối đời nhà Nguyên Cha là tể tướng uy quyền Mẹ là lá ngọc đẹp duyên hồng trần Hạ sinh một gái đoan trang Mặt như sen nở là nàng Liên Hoa Xuân xanh tuổi mới mười ba Tin ong sứ điệp cũng là lắm nơi Tướng công một chút hiếm hoi Tìm trong lệnh tộc chọn người tài hoa Thế là ngày tháng trôi qua Cũng là nợ trước duyên xa bời bời Đông thiên gặp lúc thảnh thơi Xui lòng quân tử xa khơi nghìn trùng Khấu đầu làm lễ ngoài sân Rằng: "Tôi hàn sĩ một lần đến đây" Liên Hoa nghe nói thương thay Mở năm lần cửa ra ngay trông chàng Cao xanh khéo tạo lỡ làng Bước lên hoa tự ngỡ ngàng xiết bao Hoa tiên tay thảo đôi câu Khuyên chàng trì chí, bể dâu đổi dời Truyền mang khăn gói tặng người Tờ hoa tiên đó, một lời đinh ninh Tạ từ cất bước lênh đênh Mở ra khăn gói, hãi kinh tấc lòng Nào là áo lụa khăn hồng Vàng thoi bạc nén gói trong duyên đầu Nghĩ mình số phận đớn đau Bạc vàng châu báu để đâu bây giờ Ra đi lòng những dặn lòng Bát cơm Phiếu Mẫu trả xong có lần Ba đông khăn gói dời chân Thờ ơ hoa nguyệt ân cần văn chương Mây trời vừa lộ sắc hồng Bình minh tỏ rạng anh hùng nên danh Bốn năm héo hắt chiến chinh Băng ngàn dẹp loạn thái bình vẻ vang Nhân khi nguyệt lặn sao tàn Đưa hồn về chốn lầu vàng thở than Liên Hoa vằng vặc biên quan Theo cha đăng đẳng canh tàn héo hon Nhân đêm thiên địa tuần hoàn Hồn còn thiêm thiếp giấc vàng nơi đâu Bỗng nhiên thấy tấm lụa đào Bay ngang trước mặt sa vào tận tay Tướng công nghe kể mới hay Lụa đào phận mỏng là ngày quy thiên. Thế là nhân chửa theo duyên Tâm mơ hình tướng đão điên bụi hồng Đêm đêm lén bước phong trần Nhìn xuống hạ giới mơ gần, tưởng xa Sầu đời héo mũ kết hoa Cánh đào theo gió cuốn xa bềnh bồng Thiên cung một thuở hai lòng Đăm đăm mắt dõi theo dòng hương bay Cõi hồng chếnh choáng men say Chia lòng tiên tục gió lay hoa tàn Rời cung ngọc lệ hai hàng Cá nằm nép xuống ao vàng thảm thay Bụi hồng ủ rủ chim bay Hàng Châu thơ thẩn hồ Tây lạnh lùng Làm thân nô lệ trong vùng Mười năm thui thủi sống cùng dân đen. (686) [11] Đôi tay nhân ái hòa ca một bài Lá rơi lác đác hàng cây Sương thu un khói đồi mây chập chùng Kiều ngồi nhịp võng đong đưa Dưới giàn hoa giấy nắng chưa kịp hồng Trời thu vừa chớm sang đông Gió ru lành lạnh hàng thông tần ngần Đêm qua giấc mộng lạ lùng Kiều trên chiếc ghế lưng chừng không gian Giữa ngàn kinh sách ngỗn ngang Hai tay sắp xếp từng trang từng tờ Lời thầy vang vọng trong mơ "Quyển kinh đã học bây giờ mang ra Thân đồng như cỏ như hoa Đôi tay nhân ái hòa ca một bài Đến đi tùy thuận lòng người Đôi dòng kinh cũ đôi lời huyết âm Đã đành tức thủy tức chung Bản mạt cứu cánh cùng trong nghĩa này Trí người sâu cạn, vơi đầy Kinh quyền thứ lớp đổi thay không chừng Như từng dị giải nhất âm Viết trang ly tướng chẳng lầm tướng sinh Mái hiên sáng kệ, chiều kinh Cành dương giọt ngọc tịnh minh kiếp này Báu trì ngự chốn liên đài Giờ như ly tướng sau này tướng ly" Lời thầy văng vẳng trong mây Gió mai nhè nhẹ rừng cây xạc xào Cánh chim bỗng tự phương nào Bay quanh đồi lá bay vào rừng sim Bay ra đão lại kiếm tìm Sức như gió cuốn, Kiều im lặng nhìn Lông chim rực rỡ đỏ xanh Vàng chen đôi cánh lượn quanh một vòng Hốt nhiên bay thẳng vào lòng Nhả trên vạt áo Kiều mồng hạt khô Nhả rồi như chẳng đợi chờ Bay vào rừng vắng biết bờ bến nao Hạt cầm tay, lạ lùng sao Ngậm ngùi Kiều cất hạt vào hộp hương Mai sau trên vạn nẻo đường Nguyện gieo hạt giống mười phương bồ đề (728) [12] Mấy nhịp cầu sương Ba lần hiển hiện trong mơ Cây cầu sương khói lững lơ giữa trời Vút cao ngun ngút chơi vơi Không đầu không cuối không nơi tựa vào Cây cầu như giải lụa đào Kiều như lọn khói bay vào trời xanh Nấc thang dốc ngược uốn quanh Khi đưa lên bậc hóa thành khoảng không Trên cao mấy nấc bềnh bồng Nhìn xuống bên dưới thấy không bến bờ Chân Kiều nhẹ hõng như tơ Bước lên mỗi bước hững hờ gió bay Không gian vời vợi đường mây Lối lên thăm thẳm hương bay lạ lùng Mờ mờ một cõi không trung Không nhật không nguyệt không trong không ngoài Một lần lại hiện giữa vời Lần này Kiều nắm tay mời Thúy Vân Bước lên mấy bậc khó khăn Giữa chừng chợt thấy nấc thang biến hình Hóa ra hố thẳm chênh vênh Giữa trời hun hút hai bên hẹp dần Thúy Vân bủn rủn chùn chân Kiều cầm tay dỗ: "Dần dần bước ra" Áo tơ trắng dịu nắng tà Vờn bay theo bước Kiều qua hố hầm Thúy Vân nhìn chị an lòng E dè khép nép bước vòng đi qua Kiều cười rạng rỡ nét hoa Lòng như vô tận chan hòa không trung. Một lần cũng cảnh mông lung Hai cây cầu hiện song song giữa trời Giữa cầu một bé trai ngồi Hai tay chao đão như bơi giữa dòng Cầu kia, Kiều đứng lắng lòng Đưa tay giữ lại rồi bồng lấy em Đặt em ngồi xuống cạnh bên Chiếc cầu sương khói có thêm một người Kiều nhìn lòng rộn rã vui Giật mình tỉnh giấc bồi hồi tình thâm. (768) [13] Bích câu Kiều ngồi mở lại trang thơ Chuyện ngàn năm trước bây giờ là đây Ai lồng gió cuộn trong mây Trăm năm sự thế vần xoay rã rời Bút hoa viết xuống mấy lời Mà sao sông nước bời bời tình xưa Tấm lòng theo với mây đưa Bích câu phân nhánh cho vừa tiểu khê Mua tranh cầu trúc mang về Treo lên ghi tạc câu thề ngàn năm Giáng Kiều thay bóng cố nhân Theo dòng ảo hóa hiện thân cõi này Hai Kiều một giấc mộng say Tựu thành hư ảnh đọa đầy lẫn nhau Chẳng như mây bạc trên đầu Đâu màng dừng lại bên cầu nước xuôi Chẳng như gió lộng phương trời Ai người thấy biết gió nơi chốn nào Ai người vẽ lại chiêm bao Mà trong mộng mị ba đào một thân Ước gì hóa áng mây gần Thênh thang phiêu bạt mấy tầng sóng xanh Có không một cõi phù sinh Đến như hoa nở trên ghềnh đá lam Đi như một thoáng hương tan Ai người cột trói được làn khói bay Rồi mai như cỏ như cây Xanh xanh mặt đất một vài cuộc vui Dỡ hay gởi lại tiếng cười Chẳng ai còn nhớ có người đã qua Dư âm còn lại đồi hoa Cánh sen hồng tím hóa ra áo Kiều. (800) [14] Lưới tung, sợi sợi buộc ràng Trời đông một dải sông mây Trên triền đá trắng một vài ngư dân Buộc thuyền phơi lưới trước sân Người người lầm lũi, áo quần tả tơi Kiều nhìn mạng lưới trải dài Thấy trăm nghìn kiếp đạo đời bủa giăng Lưới tung, sợi sợi buộc ràng Lưới tung, rộng thoát muôn thân lần này Mở ra, cột lại một tay Đã buộc tức biết mở ngay chỗ nào Kiều nhìn đợt sóng dâng trào Vài con nhạn lẽ bay cao ngọn triều Đi qua đồi lá tiêu điều Thoáng nhìn thấy một gã tiều phu say Gã ôm bầu rượu trong tay Áo quần tơi tả, mặt say đỏ hồng Kiều nhìn lòng chợt lạ lùng Đến gần mới biết đã từng gặp qua Kẻ từng vu họa hại cha Kẻ làm tan cửa nát nhà ngày xưa Không lầm, chính gã bán tơ Con đường tơ lụa bán mua lẫy lừng Tráo qua trở lại khó lường Vương ông nghiêm trị, oán hờn chẳng quên Dặn lòng nguyền trả thù riêng Mua lòng quan lại, dùng tiền vu oan Giờ đây gặp lại giữa đàng Bước chân vất vưỡng, nhìn nàng chẳng quen Thúy Kiều nhìn gã, lặng thinh Tìm đâu ra dáng ngông nghênh ngày nào Chiếc thân gầy guộc lao chao Bậm môi, trợn mắt, tay quào, miệng la Lòng Kiều trăm ngã xót xa Nửa như đứng lại, nửa đà bước đi Dường quên mà lại gặp đây Dòng đời lên xuống như mây qua đèo Cuối ghềnh đá dựng cheo leo Kiều ngồi yên lặng, hắt hiu lòng buồn Mười lăm năm, một vỡ tuồng Nhân nào tựu quả đau thương dường này. Kiều nhìn mặt nước chen mây Bỗng dưng thấy rõ dáng Thầy hiện ra Đỏ hồng vạt áo ca sa Thầy đưa tay chỉ hướng nhà gã say Kiều nhìn thấy gã sóng xoài Ngả lăn trên mặt tuyết dày trắng phau Vội vàng Kiều rão bước mau Đến bên cạnh gã nâng đầu, kéo tay Vào nhà dìu xuống ghế mây Quyển kinh mở sẳn đặt ngay trên bàn Gã say thảng thốt kêu than: "Làm sao đọc được, mênh mang thế này!" Cúi người gần mặt gã say Kiều nhìn trang sách phô bày tự nhiên Hàng hàng chữ chữ thâm huyền Nét trên, vạch dưới uyên nguyên từng dòng Tay Kiều lấy tấm kính trong Đặt trên trang sách, kính lồng câu kinh Gã say giờ mới kêu lên: "Cũng nhờ tấm kính biết tên, đọc lời ! " Kiều nhìn muôn dặm trùng khơi Thầy như sợi khói diệu vời thoáng tan. Gió vờn dòng tóc mơn mang Giật mình tỉnh mộng trời vàng hiu hiu Nhìn sang đồi lá tiêu điều Một vài người khách cuốn lều loay hoay Một người cười với gã say Loài chim biển trắng từng bầy bay ngang. (868) [15] Thường, vô thường, cũng tự mình Búp hoa vừa chớm nụ xuân Tay Kiều tỉa nhánh lá non đầu mùa Vườn nhà mấy độ nắng mưa Rêu phong xanh lối, phên thưa gió lùa Kiều nhìn luống đất trơ vơ Cỏ hoang đan kín không chừa lối qua Đôi ba hồng dại đơm hoa Điểm vài chấm trắng nhạt nhòa lơ thơ Kiều dừng tay thoáng ngẫn ngơ Lòng đây đất đó có chờ đợi đâu Vườn nhà hoang phế chưa lâu Mà nay nhìn lại dãi dầu cỏ hoa Khác chi tự đáy lòng ta Đã từng mấy thuở phong ba bời bời Vui buồn theo cảnh đổi dời Trời Đông lại tiếc cúc tươi úa vàng Hoang tàn lại nối hoang tàn Vòng vòng sinh diệt, hàng hàng nhân duyên Nhân nhân quả quả nối liền Lòng như hạt sỏi trên triền núi lăn Tưởng rằng thực quả thực nhân Đâu hay từ một chuỗi tâm loạn cuồng Cõi nào suối đổ thác tuôn Cõi nào thắp đuốc nối nguồn pháp âm Cõi nào làm giống thú cầm Cõi nào hóa kiếp sống gần pháp vương Lòng theo gió bão muôn phương Cam tâm mà nhận đoạn trường làm riêng Biết đâu tâm tạo vạn duyên Biết đâu tâm khiến ngữa nghiêng phận mình Tưởng rằng sanh tử tử sanh Theo dòng trôi nổi thì đành nổi trôi Vô thường như ngọn nước xuôi Cuốn phăng thân xác dập vùi chốn nao Đâu hay căn tánh vời cao Đôi tay thần lực lật nhào tử sinh Thường, vô thường, cũng tự mình Ai đem xiềng xích, gọng kềm trói thân Tâm này định phận, định căn Tâm này tháo cũi, mở lồng như không Kiều cầm hạt giống ươm mầm Một tay xới luống đất hồng ướt mưa Hoa ngâu vàng vốn tính ưa Gieo vào sớ đất để chờ đơm cây Năm kia hạt lép, mộng dày Mầm cây mới lú chẳng tày nắng mưa Năm nay đến độ giao mùa Lại đem ít hạt gieo chờ cuối xuân. Dừng tay lòng thoáng bâng khuâng Tay ta gieo xuống hạt nhân luân hồi Bốn mùa xoay chuyển đổi dời Cái vòng ảo hóa chẳng thôi hiện hình Chấp sinh, chấp diệt, chấp mình Phá đi, dựng lại, rập rình ngựa xe Giật mình chưa tỉnh cơn mê Niên niên mộng mộng lê thê dặm trường Tay gieo hạt giống vô thường Lại chờ hái quả miên trường được đâu Nhân từ bãi bể, nương dâu Hẳn là quả đậm một màu trần ai Hoa ngâu vàng thoảng giấc mai Hương thơm dòng tóc một vài ngày xuân (930) [16] Đoạn trường cũng cảnh này thôi Thân Kiều khoác áo tràng lam Vải thô theo với thời gian ố màu Cheo leo một đỉnh đồi cao Vài gian nhà gỗ vòng bao sân chùa Tăng nhân tụng niệm bốn mùa Tiếng chuông vọng vách núi lùa gió đêm Từ khi tạm ẩn cửa thiền Chép lời Phật thuyết, giải huyền nghĩa kinh Lập lời thệ nguyện thiêng liêng Bảo trì chánh pháp trên triền núi Đông Non cao uốn khúc như rồng Viền quanh eo biển đường vòng xanh xanh Nhìn qua phong cảnh hữu tình Kiều băng thung lũng một mình lên non Dò theo mấy chặng đường mòn Núi như sen úp, tám hòn tám khe Người tiên một thuở đi, về Chọn nơi thanh vắng hoa kề nước mây Bao mùa nhật nguyệt vần xoay Người xưa tìm đến núi này dựng am Lâu dần lại hóa đạo tràng Bốn mùa chuông vọng đồi lan chập chùng Trải bao xuân hạ thu đông Huy quang rực rỡ, tông phong tựu thành Kiều nhìn lớp lớp đồi xanh Thiên nhiên, đại đạo, một vành trăng tươi Còn gì lưu lại cho đời Cây che kín lối, đất bồi thấp cao Xưa kinh chép dưới trăng sao Như muôn vạn trái tim trao tặng người Không gian rung động bồi hồi Máu căn mạch pháp thuyết lời diệu minh. Đại Tô sương núi xây thành Lạy thầy vâng lệnh Nam Kinh hóa hoằng Dần dà mấy độ thu xuân Hoàng cung thuyết giảng rạng ân cửu trùng Bổng đâu náo động một vùng Lẫy lừng binh tướng oai hùng ngựa xe Đón mời, nhắn nhủ, răn đe Thương đời rủ áo quay về rừng thu Chạnh lòng nhớ đức ân sâu Từ khi xuống núi thấy đâu bóng thầy Thân con lần lữa tháng ngày Chốn xưa hẳn có đổi thay ít nhiều Đêm trên Hoa Đảnh trăng treo Định thiền cảm ứng đưa theo cơ huyền Đại Bi Bát Nhã bản nguyên Là đệ nhất nghĩa nối truyền pháp đăng Một mình lặng lẻ dưới trăng Chợt nhìn giữa ngực một vầng sen thơm Nở ra một đóa dị thường Trong hoa đồng tử đọc chương kinh thần Đưa tay đỡ cánh sen hồng Đặt trên mặt đất ngùi trông núi rừng Mưa như vần vũ không trung Nhìn chân núi thấy người cùng nước dâng Bùn lầy ngập đến ngang lưng Đứng trong gió bão trơ thân cơ hàn Ngước nhìn lên đỉnh già lam Người mong người đợi người cam phận người Đoạn trường cũng cảnh này thôi Phải đâu tan tác chỉ mười lăm năm. Kiều nghe như tiếng khóc thầm Trong mưa u uất thanh âm cõi nào Hạt mưa ướt vạt pháp bào Mưa rơi trên mặt lạnh màu núi xanh. (996) Hết
|
Gửi ý kiến của bạn