Từ Đàm

17 Tháng Tư 201504:02(Xem: 7497)

TỪ ĐÀM

Cao Huy Thuần

chua tu dam
Chùa Từ Đàm 2010

Từ Đàm là ngôi chùa cổ mà không cổ. Chùa cổ, nếu tính theo năm sinh, khoảng 1690. Khi chùa khai sinh, Trịnh Nguyễn hãy còn phân tranh, mỗi mái chùa dựng lên ở phương Nam là mỗi bước chân mở đường Nam tiến sống chết của dân tộc. Lúc đó, chùa chỉ là tranh và nứa với tên gọi là Ấn Tôn. Đến đời Thiệu Trị, năm 1841, chùa được trùng tu và đổi tên là Từ Đàm. Khang trang hẳn, nhưng chùa vẫn phải xây thêm lần nữa, mở rộng ra cùng với phong trào chấn hưng Phật giáo năm 1935. Bởi vậy chùa không cổ. Kiến trúc 1935 không phải là kiến trúc cổ, nhưng hợp với nhu cầu cảu một chùa hội trong thời thế mới. Một ngôi chùa được làm trụ sở cho Hội Phật giáo của cả xứ Trung kỳ trong vận hội chấn hưng Phật giáo Bắc Trung Nam. Từ đó đến nay, chức năng của Từ Đàm vẫn thế, vẫn là chùa hội, vẫn là nơi hội họp của đông đảo quần chúng, nhưng không gian của kiến trúc thuở chấn hưng đã trở thành chật đối với lượng Phật tử ngày càng đông của thời phát triển. Nhân dịp tu sửa vì dột nát, năm nay chùa mở rộng tầm vóc thêm một lần nữa, nhưng vẫn giữ nguyên xưa trong khung cảnh cũ.

chua tu dam 1975
Chùa Từ Đàm 1975

Từ Đàm là mây lành. Đức Phật như mây lành, đem bóng mát đến cho thế gian. Trên bước đường Nam tiến của dân tộc, hãy tưởng tượng đến những người đầu tiên chọn đất dựng chùa. Trước mắt là đất mới, trên đâu là trời xanh. Có lẽ người đặt tên chùa đã tưởng tượng như vậy. Trên bầu trời xanh của nắng mới phương Nam, có bóng mây lành tỏa bóng im xuống mặt đất. Đây rồi, nơi bóng im này, ta sẽ dựng chùa. Đây rồi nơi bóng im này, tiếng lành của Đức Phật sẽ âm vang trên đất mới. Từ Đàm là nghe được tiếng lành của mây. Mây chọn đất cho người dựng chùa. Hãy tưởng tượng nổi vui của người vừa chọn được đất. Người đó chắp tay nhìn chỗ bóng mây in dấu khi nãy, thầm cám ơn, bỗng thấy bóng của hai bàn tay mình chấp lại như hai tháp chuông của một ngôi chùa sẽ dựng. Từ Đàm mai đây sẽ có hai tháp chuông như thế. Ai nghe tiếng chuông Từ Đàm sẽ thấy trong tiếng chuông có mây, mây bay theo tiếng chuông, ngân nga trong không trung  tiếng lành từ thuở dựng chùa.

Trong đời sống bình dị như thế của Từ Đàm, bỗng nhiên lịch sử chọn nơi này làm khởi điểm cho một phong trào quật khởi, chống kỳ thị tôn giáo .1963 ! Lịch sử thế giới bùng lên ngọn đuốc Việt Nam. Và Từ Đàm là đóm lửa xuất phát 1963, để lại cho Phật tử một bài học lớn: khi uất ức của Phật giáo cũng là uất ức của quần chúng. khi tiếng nói của Phật giáo vang lên tiếng nói từ mọi trái tim .khi đó Phật giáo mới thật là xứng đáng  với lịch sử. Ba trăm năm trước mây Từ Đàm để lại bóng im, ba trăm năm sau, trăng tròn Phật Đản hiện ra trên mái chùa. Trăng nói gì ? Hãy hành động, hãy dũng cảm nhưng đừng quên dũng cảm là một với từ bi. Cho nên bất bạo động là thái độ duy nhất đúng. Bởi vậy hãy đọc lại những biểu ngữ trương ra trên sân chùa năm ấy, hãy nghe lại lời hiệu triệu rắn rỏi của người chỉ huy : trong quấc thước của quyết tâm, lời nói vẫn là lời nói lành, vì phương châm vẫn là bất bạo động. Cho nên “lửa từ bi”đã đi vào văn thơ Việt Nam, đã làm thế giới bàng hoàng sực tỉnh. Suốt mùa tranh đấu, Từ Đàm nằm trong dây kẽm gai, nhưng tuyệt thực trong chùa vẫn làm xôn xao bát cơm của người dân trong thành phố. Trong tiếng chuông của Từ Đàm hôm nay, có mây bay qua, có trăng hiện ra, cả mây và trăng đều nói lên lời lành, trong bình thường của cuộc sống, cũng như trong bất thường của biến động. Nơi đây vẫn lưu dấu hai vầng nhật nguyệt của sử sách Từ Đàm : Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Trí Quang.

Chùa không phải là cổ tự, kiến trúc không phải là nét độc đáo của Từ Đàm so với các ngôi chùa lớn khác ở Huế. Đặc điểm của Từ Đàm, lạ thay, chính là cái sân chùa và cây bồ đề giữa sân. Sân chùa là nơi hàng ngàn quần chúng đã tụ họp trong ngày Phật đản 1963 để bắt đầu viết một trang sử lớn. Cây bồ đề cổ thụ, to bằng cả 4 ,5 vòng tay tỏa bóng mát xuống sân, vững hơn cột đồng Mã Viện, tượng trưng cho sức sống của Phật giáo giữa lòng dân tộc. Từ Đàm là hai biểu tượng đó phải giữ để kỷ niệm 1963 không phai với thời gian. Cùng với hai biểu tượng đó , một phòng lưu niệm đã được thiết kế trong kiền trúc mới , có chức năng của một viện bào tàng , để gìn giữ và trưng bày tất cả những kỷ vật , dù lớn hay nhỏ , dù chỉ là một bài báo , một hình ảnh , một bài nhạc , một trái lựu đạn , một băng tang , tất cả những  gì có liên quan đến một thời đứng dậy. Từ Đàm là như vậy, mà tinh thần 1963 phải giữ, không phải chỉ là tường vách ngày xưa.

Từ Đàm là như vậy. Du khách đến viếng Từ Đàm sẽ thấy Huế của 1963, nhỏ nhắn, hiền lành, nhưng khi quật khởi thi cả cái đèo Hải Vân cũng chỉ là chiếc cầu rửa chân của một cô công chúa. Ai nghe trong tiếng chuông Từ Đàm sẽ thấy mây bay ba trăm năm trước, trăng tròn Phật đản ba trăm năm sau, và tiếng gió đong đưa trong lá cây bồ đề trước sân, như gieo tiếng an vui vào mọi lòng người. Từ Đàm thay đổi đổi để Từ Đàm còn mãi. (TC. Văn Hóa Phật Giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn