Thập Nhị Nhân Duyên (thơ)

21 Tháng Hai 201712:14(Xem: 6432)


THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

-Lê Văn Minh Hiến-

 

Vũ trụ không thể tự sanh
Muôn vật nương tựa mà thành bởi duyên
Thần linh không có đặc quyền:
Sinh ra nhân loại ưu phiền, thảnh thơi
Nguyên nhân một vật ra đời
Trợ duyên mọi thứ nhất thời phát sanh
Vạn vật sanh khởi đành rành
Cái này duyên khởi rồi thành cái kia…
Hành tướng các Pháp phân chia
Nhân duyên  thập nhị không lìa được nhau

VÔ MINH nguồn gốc khổ đau
Tự tâm thanh tịnh không vào trong thân
Quay cuồng tâm vọng biệt phân
Vô minh nguồn gốc bao lần khổ đau

HÀNH nghiệp lực sầu đau,
Là nhân hành động biết bao sai lầm
Sai lầm cột chặt chân tâm           
Làm cho ta khổ, cũng làm quả nhân

THỨC sanh bảo thủ mạng thân
Vọng tâm phân biệt trăm phần chấp TA…
Một phần điều kiện trong ba:
“Thọ, noãn , thức” để tạo ra “ thân này”

DANH SẮC kể rõ từ đây
Hữu tình muôn loại chia hai tiểu phần
Thân xác, tâm thứctinh thần
Sắc là hình tướng, danh gần với tên
Tâm thức – tinh huyết hợp nên
Tạo thành thai tạng không quên thành người…

LỤC NHẬP cũng rõ hơn mười
Sáu trần tiếp nhận không rời sáu căn
Bào thai không uống không ăn
Sáu trần của mẹ, là phần nuôi con
Đời mẹ luôn nỗi héo hon
Truyền vào nuôi sống vuông tròn thai nhi
Xúc chạm đối đãi thời kỳ
Thai nhi còn nhỏ biết chi sáu trần
Rồi khi ta lớn lần lần
Tiếp xúc ngoại cảnh biết dần đầy vơi
Đó là THỌ lãnh ai ơi!

ÁI là yêu thích, đồng thời ham mê
Cầu mong tốt đẹp trăm bề
Chối bỏ, chán ghét đề huề yêu thương

THỦ là giữ lấy mọi phương
Tham đắm, ưa thích không nhường cho ai
Để rồi chuốt lấy ương tai
Gây bao tội lỗi chẳng tài nào sai

HỮU là có, được từ ai?
Thọ sanh thân “ lậu” lâu dài nghiệp nhân

SANH  mạng rồi lại sanh thân
Loài hữu tình sống bao lần an nguy
Sanh rồi lại phải nghĩ suy

LÃO TỬ nào biết đến khi thân mình?
Có sanh có tử phân minh
Hết dòng sanh mạng, thình lình ra đi
Dứt sanh với tử trừ khi
Nhận định sáng suốt từ bi giúp đời…
Vọng tâm không thể ra đời
Đoạn trừ nghiệp lực tuyệt vời nhân duyên
Dù người hay cả chư Thiên
Chuyên tinh quán sát nhân duyên, Niết Bàn…

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
04 Tháng Giêng 2015(Xem: 9122)
Thơ là phải chảy theo dòng sông sự sống / Thấy thực rong bèo / Lá rác cuộn về Đông / Lại có con trăng lặng lẽ chiếu trên dòng / Và thấy cả trăm bờ nhân sinh xao xác mộng /
21 Tháng Mười Một 2014(Xem: 7231)
Cõi thơ Mặc Phương Tử cũng như cõi thơ Phạm Thiên Thư hay cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh, từ bao giờ đến bây giờ vẫn trên thể điệu phiêu nhiên, vừa trữ tình chơn chất bình dị, vừa sâu sắc lặng trầm
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 9503)
Người ta hay nói về thơ thiền, bàn về thơ thiền; họ đã lý giải rất hay về cái đẹp, về thiên nhiên, về con người, về không thời gian thiền – nhưng “thiền” nằm ở chỗ nào thì thường thiếu sự dẫn chứng cho cụ thể dựa theo câu chữ của văn bản.
29 Tháng Mười 2014(Xem: 7061)
Đi thôi em, / Giọt sương mai / Ánh dương ló rạng, hình hài sương tan / Đi thôi, / Gió núi mây ngàn, Tụ duyên, mây sẽ ngập tràn mưa sa / Đi thôi, / Vạt nắng hiên nhà / Hong chưa khô áo lụa đà, đêm sang
10 Tháng Mười 2014(Xem: 9415)
Minh Đức Triều Tâm Ảnh sinh năm 1944 tại Hương Thủy, Thừa Thiên Huế là một bậc tài hoa đủ điệu : Làm thơ, viết văn, viết biên khảo, viết thư pháp, nghệ nhân tạo vườn cảnh, đồng thời là một nhà sư theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Nam tông với pháp hiệu Giới Đức. Xuất gia năm 1973 ở Vũng Tàu rồi làm du tăng khất sĩ qua nhiều xứ miền Sài Gòn, Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng… Cuối năm 1974 dừng gót lữ phong trần dưới chân đèo Hải Vân
10 Tháng Mười 2014(Xem: 7280)
Đường lên đó vẳng lời chim lảnh lót / Dọc ven sông hoa nắng trổ mây lồng / Dòng Hương khuất sau cánh rừng cây lá / Qua dốc đồi thoáng hiện bóng Huyền Không /
30 Tháng Chín 2014(Xem: 7286)
(Réo gọi, tha thiết) / Ôi! Anh em ơi! / Hãy hát cho nhau nghe / Hãy hát cho yêu thương / Mời biển đông sóng vỗ / Hãy hát cho xanh xao / Gọi nhức đau mầm lá / Hãy hát cho hoang vu / Những cuộc tình hóa gió
23 Tháng Chín 2014(Xem: 11502)
Mỗi lần ôm bát đi trì bình khất thực tôi lại tưởng nhớ đến tôn giả Mahā Kassapa (Đại Ca Diếp) và tôn giả Subhūti (Tu-bồ-đề). Vị tôn giả “đệ nhất đầu-đà” Đại Ca Diếp chỉ đi bát ở nơi xóm nhà nghèo nàn để độ cho những người cùng cực đói khổ nhất. Vị tôn giả “đệ nhất chư thiên ái kính” Tu-bồ-đề thì chỉ đi bát nơi những gia đình trung lưu hoặc giàu có. Cả hai trường hợp có vẻ “không bình đẳng” này hẵng là phải có nhân duyên chứ?