2. Bèo Dạt Mây Trôi

04 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5476)


THẢ MỘT BÈ LAU

Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán
Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản 2000


BÈO DẠT MÂY TRÔI 

SAO CHO CỐT NHỤC VẸN TOÀN 

Sau khi Kim Trọng đi rồi:

Nàng còn đứng tựa hiên tây,

Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.

Trông chừng ngói ngất song thưa,

Hoa trôi giạt thắm liễu xơ xác vàng.
 
 

Người đi cũng khổ mà người ở lại cũng khổ. ‘Hoa trôi giạt thắm liễu xơ xác vàng’ là cảnh vật xung quanh mà cũng chính là tâm trạng của Thúy Kiều.
 
 

Tần ngần dạo gót lầu trang,

Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về.
 
 

Gia đình Thúy Kiều vừa đi sinh nhật bên ngoại về. Tai nạn ập tới:
 
 

Hàn huyên chưa kịp giã giề,

Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao:57

Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.

Già giang một lão một trai,58

Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
 
 

Cha và em trai Kiều bị đóng gông và trói chung lại với nhau. Những người đàn bà được để tự do, vì trong xã hội ngày xưa, đàn ông chịu hết trách nhiệm về tất cả mọi chuyện xảy ra.
 
 

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,

Rụng rơi khung dệt tan tành gói may.

Đồ tế nhuyễn của riêng tây,

Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
 
 

Lấy cố tìm tang vật chứng cớ để cướp của. Cụ Nguyễn Du gọi loại sai nha này là ruồi xanh.
 
 

Điều đâu bay buộc ai làm,

Này ai đang giậm giật giàm bỗng dưng?59

Hỏi ra mới biết rằng:

Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
 
 

Thấy thằng bán tơ và bạn của nó có vẻ dễ thương nên ông hàng xóm nhà họ Vương cho ở lại giúp việc. Ông không biết bọn này đã từng làm ăn cướp. Chính viên ngoại, cha của Thúy Kiều, cũng đã từng ngồi uống rượu với thằng bán tơ, tưởng nó là người lương thiện. Cảnh sát tìm ra bọn cướp và họ khai cho gia đình Kiều. Bây giờ sai nha lấy cớ đi bắt người để vào ăn cướp nhà Vương viên ngoại. Cảnh này thường xảy ra ở miền quê, nếu không có thế lực thì không thể nào tránh khỏi. Tai nạn xảy ra cho gia đình Kiều chứng tỏ sự tham nhũng trong xã hội thời đó.
 
 

Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,

Tiếng oan dậy đất án ngờ lòa mây.

Hạ từ van lạy suốt ngày,

Điếc tai lân tuất phũ tay tồi tàn.
 
 

Mặc cho ba người đàn bà lạy lên lạy xuống kêu oan, bọn sai nha vẫn làm ngơ, đánh đập Vương viên ngoại và Vương Quan tàn nhẫn. Tai lân tuất là tai xót thương, những người đến bắt bớ, vơ vét nhà Kiều cũng có lỗ tai này nhưng họ đóng chặt làm như điếc. Khác với sự thực tập: ‘Con xin tập lắng nghe bằng lỗ tai xót thương; của chúng ta.
 
 

Rường cao rút ngược dây oan,

Dẫu là đá cũng nát gan lọ người!

Mặt trông đau đớn rụng rời,

Oan này còn một kêu trời nhưng xa!

Một ngày lạ thói sai nha,

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
 
 

Vì lòng tham mà họ hành hạ người ta như vậy. Kiều không thấy một giải pháp nào để cứu cha và em ngaòi giải pháp hối lộ. Bởi vì họ: ‘làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.’ Phải có tiền thì họ mới chịu tha. Thúy Kiều đi tới một quyết định lớn, thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình và đồng thời phải phụ bạc người yêu.
 
 

Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,

Trong khi ngộ biến tùng quyền biết sao?

Duyên hội ngộ đức cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?
 
 

Duyên hội ngộ là mối tình với Kim Trọng. Đức cù lao là ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ. Trong lòng Kiều có một sự xâu xé lớn. Muốn giữ vẹn lời thề với người yêu thì phải để cho cha mẹ đau khổ; còn nếu bán mình chuộc cha thì phải phụ tình người yêu mà mình vừa mới thề thốt cách đây có mấy giờ đồng hồ.
 
 

Để lời thệ hải minh sơn,

Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

Quyết tình nàng mới hạ tình:

‘Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!’
 
 

Kiều quyết định bán mình chuộc cha. Từ đây cuộc đời Thúy Kiều đi rẽ sang một hướng khác.
 
 

Họ Chung có kẻ lại già

Cũng trong nha dịc lại là từ tâm

Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,

Vì nàng nghỉ60 cũng thương tình xót vay.

Tính bài lót đó luồn đây,

Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.

Hãy về tạm phó giam ngoài,

Dặn nàng quy liệu trong đôi ba ngày.

Thương lòng con trẻ thơ ngây,

Gặp cơn vạ gió tay bay bất kỳ!

Đau lòng tử biệt sinh ly,

Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên?

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liệu đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.61
 
 
 

HOA DÙ RÃ CÁNH LÁ CÒN XANH CÂY
 
 

Sự lòng ngỏ với băng nhân,

Tin sương đồn đại xa gần xôn xao.
 
 

Tin Thúy Kiều bán mình chuộc cha được mối lái truyền đi.
 
 

Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.

Hỏi tên rằng: ‘Mã Giám Sinh.’

Hỏi quê rằng: ‘Huyện Lâm-thanh cũng gần.

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.

Trước thầy sau tớ lao xao,

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra
 
 

Đó là Mã Giám Sinh.
 
 

Tả Kim Trọng thì cụ Nguyễn Du viết:
 
 

Hài vân lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
 
 

Tả Mã Giám Sinh thì cụ viết:
 
 

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
 
 

Có sự khinh nhờn ở trong ấy.

Anh chàng đến rất ồn ào: ‘Trước Thầy sau tớ lao xao.’ Không chăm sóc chánh niệm và uy nghi gì cả. vào trong nhà rồi thì: ‘Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,’ và ‘Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.’ Thái độ của kẻ có tiền, đi mua vợ.
 
 

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.

Ngại ngùng dín gió e sương,

Nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
 
 

Đó là Thúy Kiều khi được trình bày ra như một vật để buôn bán. Người ta tới xem con heo, con bò như thế nào thì tới xem Thúy Kiều cũng vậy. Không có nhân phẩm của con người nữa.
 
 

Mối càng vén tóc bắt tay,

Nét buồn như cúc điệu gầy như ma

Đắn đo cân sắc cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ
 
 

Càng phô bày được tài sắc của mình chừng nào thì người ta càng trả nhiều tiền chừng đó. Kiều phải làm tất cả những điều bà mối bảo làm, như một cái máy.
 
 

Mặn nồng một vẻ một ưa,

Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.

Rằng: ‘Mua ngọc đến Lam-kiều,

‘Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?’

Mối rằng: ‘Đáng giá nghìn vàng,

‘Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!’
 
 

Khi đọc tới đây ai cũng thấy tức trong lòng. Nhục nhã, ê chề, mất hết nhân phẩm của một cô gái! Thúy Kiều quý quá, thanh tao, tinh khiết bao nhiêu đối với Kim Trọng thì lại càng như một món hàng không có giá trị gì cả đối với Mã Giám Sinh. Đây là điều sĩ nhục đầu tiên của Thúy Kiều. ‘Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi!’ Nhưng Thúy Kiều không phải chỉ bị sỉ nhục một lần! Cô sẽ bi sỉ nhục hàng chục lần trong đời mình.
 
 

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.

Một lời thuyền đã êm giầm,

Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm ghi.

Định ngày nạp thái vu quy,

Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!

Một lời cậy với Chung công,

Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà.
 
 

Sau khi đã ngã giá (trên bốn trăm lượng vàng), công việc bắt đầu xuôi. Hai bên đưa thiếp cho nhau, trên hình thức là so tuổi bên trai và bên gái nhưng kỳ thực đây là một loại giao kèo. Cố nhiên là phải chồng tiền. Kiều nhờ ông họ Chung dùng số tiền này để lo lót, lãnh Vương ông về. Đây là những lời than khóc của người cha:
 
 

Thương tình con trẻ cha già,

Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:

‘Nuôi con những ước về sau,

‘Trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi.

‘Trời làm chi cực bấy trời!

‘Này ai vu thác cho người hợp tan.

‘Búa rìu bao quản thân tàn,

‘Nỡ đày đọa trẻ càng oan khốc già.

‘Một lần sau trước cũng là:

‘Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!’

Theo lời càng chảy dòng châu,

Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
 
 

Người cha muốn gieo đầu vào tường tự tử để khỏi trông thấy cảnh con gái bị gả bán như vậy. Người nhà giữ ông lại khuyên giải:
 
 

Vội vàng kẻ giữ người coi,

‘Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:

‘Vẻ chi một mảnh hồng nhan,

‘Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.

‘Dâng thơ đã thẹn nàng Oanh62

‘Lại thua ả Lý bán mình hay sao?63

‘Cỗi xuân tuổi hạc càng cao,

‘Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.

‘Lượng trên liều một thân con,

‘Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây.

‘Phận sao đành vậy cũng vầy,

‘Cầm như chẳng đỗ những ngày còn xanh.

‘Cũng đừng tính quẩn lo quanh,

‘Tan nhà là một thiệt mình là hai.!
 
 

- ‘Con chỉ là một đứa con gái thôi. Chưa làm được chút gì để đền ơn sinh thành của cha mẹ. Cha ngày một lớn tuổi mà phải gánh vác cho cả gia đình. Có cha đó thì mọi người đều đứng vững. Nếu cha không chịu dứt khoát để con bán mình mà cứ liều thân thì cơn mưa gió này sẽ làm tan nát hết cả gia đình. Thà một mình con chịu, hoa có tàn nhưng trên cây lá vẫn còn xanh, mẹ và các em con vẫn được an toàn. Cứ nói như ngày xưa cha mẹ sinh ra nuôi không được, chết từ nhỏ, cho đỡ khổ. Nếu cha cứ nghĩ quanh quẩn thì nhà mình sẽ tan nát mà thân cha sẽ thiệt thòi.’
 
 

Phải lời ông cũng êm tai,

Nhìn nhau giọt ngắn giọt dài ngổn ngang.
 
 

Người cha nghe nói phải chấp nhận sự thật. Biết liều mình thì cả vợ lẫn con đều tan nát hết cho nên ông phải cố gắng.
 
 

Mái ngoài họ Mã vừa sang,

Tờ hoa đã ký cân vàng mới trao.

Trăng già độc địa làm sao?

Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên!

Họ Chung ra sức giúp vì,

Lễ tâm đã đặt tụng kỳ cũng xong.
 
 

Lễ tâm là tiền của đặt trên mâm khi tới quan. Lễ nhỏ thì vài bình trà, một chai rượu. Lễ này thì phải có ba trăm lượng vàng. Những câu này tố cáo sự tham nhũng của xã hội thời bấy giờ. Truyện Kiều không chỉ nói tới những sự thực tâm lý, tình cảm mà còn nói về sự thực của xã hội.
 
 
 

CẬY EM, EM CÓ CHỊU LỜI
 
 

Trong vài ngày, gia đình Kiều đã phải đi qua những cơn lốc lớn. Bây giờ đã đến lúc cụ Nguyễn Du tả tâm trạng Thúy Kiều. Khi quyết định bán mình chuộc cha, trình bày tài năng, sắc đẹp của mình cho người ta mua, rồi can ngăn cha già đừng tự tử, Kiều đã xử sự một cách rất xuất sắc với tư cách của người chị cả. Trong suốt thời gian đó, những đau khổ của Kiều không được nói tới. Khi công việc đã xong, mọi người đã đi ngủ thì Kiều còn thức và quay lại cuốn phim đau khổ trong lòng mình:
 
 

Việc nhà đã tạm thong dong,

Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.64

Một mình nàng ngọn đèn khuya,

Áo dầm giọt lệ tóc se mái sầu:

‘Phận dầu dầu vậy cũng dầu

‘Xót lòng đeo đẳng bây lâu một lời!

‘Công trình kể xiết mấy mươi,

‘Vì ta khắn khít cho người dở dang.
 
 

Đây là nỗi đau khổ đầu của Thúy Kiều. ‘Nếu mình chưa hứa hẹn gì hết thì đã đỡ cho chàng Kim biết mấy. Vì mình đã hứa hẹn đã thề bồi nên bây giờ chàng Kim phải dở dang.’ Kiều không nghĩ tới sự đau khổ của mình mà chỉ nghĩ đến sự đau khổ của người yêu.
 
 

Thề hoa chưa ráo chén vàng,

‘Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa!

‘Trời Liêu non nước bao xa

‘Nghĩ đâu rẽ cửa tan nhà tự tôi!
 
 

- ‘Ở Liêu Dương giờ đây anh có biết người chịu trách nhiệm làm chia rẽ, tan nát cuộc nhân duyên của hai ta là em không?’ Đây là luân lý Á Đông, khi hai bên đã chấp nhận, thề thốt rồi thì coi như hai người thuộc về nhau. Coi như đã có gia đình rồi, đã có nhà có cửa rồi. Cái nhà cái cửa đó nằm trong lòng mình.
 
 

‘Biết bao duyên nợ thề bồi,

‘Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì?

‘Tái sinh chưa dứt hương thề,

‘Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
 
 

- ‘Chuyện thề bồi kiếp này coi như không thực hiện được. Dù đến kiếp sau em cũng sẽ không quên được lời thề nguyền ở kiếp này. Sẽ xin làm con trâu, con ngựa kéo cày, chở đồ cho chàng để đền bù cái nợ mắc chàng trong kiếp này.’ Câu này có mang ảnh hưởng thuyết Luân Hồi của Phật giáo.
 
 

‘Nợ tình chưa trả cho ai,

‘Khối tình thác xuống tuyền đài chưa tan!’
 
 

Tình là một cái nợ. Chưa trả thì vẫn mắc. Khối nợ sẽ không tiêu mà phải đem theo xuống âm phủ. Như chuyện chàng Trương Chi. Đem chôn, da thịt nát hết rồi mà nội kết vẫn còn một khối.
 
 

Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
 
 

Cứ suy nghĩ quanh quẩn, băn khoan lo lắng (bàn hoàn). Lưu luyến quấn quít, không buông tư tưởng đó ra được. Chong đèn khóc cả đêm.
 
 

Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,

Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han.
 
 

Cô Thúy Vân này vô tâm lắm! Chị bán mình, sắp đi xa. Cô làm việc cả ngày nên mệt ngủ như chết. Chị khóc nức nở quá thành ra cô cũng phải thức dậy. Đây là bốn câu của cô em gái:
 
 

‘Cơ trời dâu bể đa đoan,

‘Một nhà để chị riêng oan một mình.

‘Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh

‘Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?’
 
 

Cô nàng đã đoán ra được có cái gì ẩn giấu bên trong. Thúy Kiều òa ra khóc, nói sự thật cho Thúy Vân:
 
 

Rằng: ‘Lòng đương thổn thức đầy,

‘Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.

‘Hở môi ra cũng thẹn thùng,

‘Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!
 
 

Nói ra thì mắc cở. Chuyện này là chuyện rất thiêng liêng trong trái tim. Bị buộc phải nói cho người thứ hai nghe thì rất khó chịu. Mà không nói thì rhành ra phụ bạc.
 
 

‘Cậy em em có chịu lời,

‘Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

‘Giữa đường đứt gánh tương tư,

‘Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
 
 

Keo loan (loan giao) là một thứ keo để nối dây cung lại. Người ta dùng diển tích này để nói tình xưa nghĩa cũ đã gián đoạn mà còn nối lại được. Mối tình của Thúy Kiều và Kim Trọng đã tan rồi, nhưng vẫn có cơ hội để gắn lại nếu Thúy Vân chấp nhận thay thế cho Kiều.
 
 

‘Kể từ khi gặp chàng Kim,

‘Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.

‘Sự đâu sóng gió bất kỳ,

‘Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài.

‘Xót tình máu mủ thay lời nước non.

‘Chị dầu thịt nát xương mòn,

‘Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. 
 
 

Kiều nói hết sự thật cho em gái và nhờ em thay mình làm hạnh phúc cho chàng Kim. Được như vậy thì dù phải chết, Kiều cũng có hạnh phúc. Đó là yêu cầu của Thúy Kiều. Tôi có một câu hỏi đặt ra trong đầu là: Chàng Kim có chịu không? - Kiều đưa những kỷ vật của hai người cho Thúy Vân và tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng và Thúy Vân sum họp sau này:
 
 

‘Chiếc thoa với bức tờ mây,

‘Duyên này thì giữ vật này của chung.

‘ Dù em nên vợ nên chồng,

‘Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

‘Mất người còn chút của tin,

‘Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

‘Mai sau dù có bao giờ,

‘Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

‘Trông ra ngọn cỏ lá cây,

‘Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
 
 
 
 

Tâm hồn Kiều là một tâm hồn hết sức nhạy cảm. Lời nói của cô cũng vậy.
 
 

‘Hồn còn mang nặng lời thề,

‘Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.65

‘Dạ đài66 cách mặt khuất lời,

‘Rảy xin chén nước cho người thác oan.
 
 

- ‘Khi đó chị đã chết rồi. Xin em rảy cho vài giọt nước để linh hồn chị được mát mẻ (giống như cam lồ tịnh thủy của đức Bồ Tát Quan Thế Âm.). Những câu thơ này cho thấy ảnh hưởng của Phật giáo rất sâu đậm trong tư tưởng và văn chương Việt Nam. Sau khi đã nói hết những điều phải dặn dò, Thúy Kiều khóc. Trách nhiệm đã làm xong rồi. Bây giờ chỉ khóc cho số phận mình thôi:
 
 

‘Bây giờ trâm gãy gương tan,

‘Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

‘Trăm nghìn gởi lạy tình quân,

‘Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. (12 tiếng đồng hồ.)

‘Phận sao phận bạc như vôi,

‘Đã đành nước chảy hoa trôi lở làng.

‘Ôi Kim Lang! Hởi Kim Lang!

‘Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!’
 
 

 Đó là chỗ đau khổ nhất trong lòng Thúy Kiều. Đau khổ nhất không phải là phải bán mình và đi lưu lạc; đau khổ nhất là phải phụ bạc người tình của mình.
 
 

Xét về phương diện tâm lý, đoạn thơ này rất hay. Kiều có một khả năng tưởng tượng rất lớn. Cô tưởng ra cảnh em gái thay mình thành duyên với Kim Trọng; hai người có hạnh phúc, nhớ tới mình, đốt hương, gảy lại phím đàn ngày xưa; nhìn ra ngoài thấy gió hiu hiu thổi lay động cỏ cây thì biết hồn mình đang về thăm hai người; và hai người sẽ rảy nước để làm mát mẻ linh hồn oan ức, khổ đau của mình.

Tưởng tượng xong rồi hướng về Kim Trọng mà than thở, diễn bày tâm trạng mình . Và khi kêu lên: “Ôi Kim Lang! Hởi Kim Lang, Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” thì đau khổ đã lên tới mức cao nhất. Kiều thét lên, ngã xuống bất tỉnh. Đó là diễn biến về tâm lý và sinh lý. Tâm lý và sinh lý liên hệ mật thiết với nhau. Niềm đau khổ lên đến mức tuyệt đỉnh tạo thành phản ứng trong cơ thể, biểu hiện bằng một tiếng hét. Hét lên một tiếng thì bao nhiêu tinh lực của khổ đau toát ra. Kiều không còn năng lượng nữa, ngã xuống và bất tỉnh.
 
 

Cạn lời hồn ngất máu say,

Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng.
 
 

Cô em sợ quá. Cha mẹ Kiều nghe tiếng hét, thức dậy:
 
 

Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng,

Một nhà tấp nập kẻ trong người ngoài.

Kẻ thang người thuốc bời bời,

Mới dàu cơn vựng chưa phai giọt hồng.
 
 

Người thì đi rót nước nóng, người thì đi lấy dầu cù là.
 
 

Hỏi: ‘Sao ra sự lạ lùng?’

Kiều càng nức nở nói không ra lời.
 
 

Nói được với em gái là làm tới mức tối đa rồi. Làm sao lặp lại được những điều đó cho cả nhà nghe! Thúy Vân tiết lộ niềm đau của Kiều cho mọi người:
 
 

Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:

‘Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây!’
 
 

Người cha lúc đó mới tội nghiệp. Ông nói:
 
 

‘Này cha làm lỗi duyên mày,

‘Thôi thì nỗi ấy sau này đã em!

‘Vì ai rụng cải rơi kim,

‘Để con bèo nổi mây chìm vì ai?

‘Lời con dặn lại một hai,

‘Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng!’
 
 

Tôi vẫn còn ngạc nhiên. Với trái tim của con người thế kỷ 20, mình không hiểu được tại sao họ lại chắc vào việc thành tựu nhân duyên cho Thúy Vân và Kim Trọng. Tuy là hai chị em nhưng vẫn là hai người khác nhau. Người ta yêu cô chị chứ ai yêu cô em mà lại cứ tính đem cô em thay thế cô chị! Làm như vậy có được không? Với tâm lý người ngày xưa, thì việc này có thể làm được. người ngày xưa rất trọng tình. Khi cưới một người, họ cưới luôn cả gia đình cho người đó. Thương chị thì cũng thương em được. Lấy trái tim của thế kỷ 20 để hiểu trái tim của thế kỷ 19,18, 17 cũng hơi khó.
 
 

Lạy thôi nàng mới rén chiềng:67

‘Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.

‘Sá chi thân phận tôi đòi,

‘Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu!’
 
 

Những chuyện này đã xảy ra trong mấy ngày sau khi Kim Trọng đi. Anh chàng lúc đó đâu có biết gì, cứ đi, nhớ và tưởng tượng. Đâu có biết đời là vô thường. Phải đọc gần cuối truyện ta mới thấy đoạn Kim Trọng trở về.
 
 
 

BIẾT THÂN ĐẾN NƯỚC LẠC LOÀI
 
 

Trời đã sáng. Nhà trai tới rước dâu:
 
 

Xiết bao kể nỗi thảm sầu!

Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.

Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,

Quản huyền68 đâu đã giục người sinh ly.

Đau lòng kẻ ở người đi,

Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.

Trời hôm mây kéo tối rầm,

Dàu dàu ngọn cỏ dầm dầm cành sương.
 
 

Trời dường như cũng đau thương chung với gia đình này.
 
 

Rước nàng về đến trú phường,

Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.

Ngập ngừng thẹn lục e hồng,

Nghĩ lòng lại xót xa lòng đôi phen:

‘Phẩm tiên rơi đến tay hèn,

‘Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!

‘Biết thân đến nước lạc loài,

‘Nhị đào thả bẻ cho người tình chung.

‘Vì ai ngăn đón gió dông,

‘Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi,

‘Trùng trùng dù họa có khi,

‘Thân này thôi có ra gì mà mong.

‘Đã sinh ra số long đong,

‘Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?’
 
 

Kiều là một người con gái rất thông minh. Khi thấy Mã Giám Sinh và cái bầu đoàn kia bước vào nhà, cô biết họ không phải là những người đoàng hoàng và thân mình đã rơi vào tay những người vũ phu, không ra gì. Kiều giữ gìn là giữ gìn cho chàng Kim, người Kiều đem hết lòng dạ để thương yêu; bây giờ thì Kiều đâu có chủ quyền nữa. Sau này dù được gặp lại Kim Trọng, Kiều biết thân mình cũng sẽ không còn giá trị gì. Kiều nghĩ: ‘Biết trước tình trạng thế này thì chi bằng tối hôm đó mình hiến thân cho chàng Kim cho rồi.’ Đây là những câu mà ta phải quán chiếu. Chúng ta biết Thúy Kiều đang lâm vào tình trạng tuyệt vọng cho nên dã nghĩ như vậy.

Đừng nghe cô nói mà tin liền. Trước đây cô nói: ‘Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?’ Bây giờ cô nói ngược lại: ‘Biết như vậy thì tối hôm đó mình đã trao thân cho chàng cho rồi. Giữ gìn cho lắm bây giờ cũng lọt vào tay người vũ phu.’ Chúng ta có thể quán sát để thấy: Nếu cô gái trao thân cho người yêu tối hôm đó thì cô có thể mất chàng mãi mãi. Cô không trao thân cho chàng thì hình bóng cô vẫn còn đẹp trong lòng chàng suốt đời. ‘Biết thân đến nước lạc loài, Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.’ Câu nói này rất liều, không có trí tuệ. Đó là suy nghĩ của một người đang quá đau khổ.

Nếu Kiều làm như vậy thì cũng rất hại cho Kim Trọng. Giữ được hình bóng đẹp đẽ của Thúy Kiều trong suốt cuộc đời mình là có lời cho anh chàng lắm! Còn hình bóng của một người con gái quá dễ dãi, đòi là được liền thì đâu thể nào ở lại lâu ngày vơi chàng Kim được. Ta đừng vì cảm tình với Kiều mà vừa nghe cô nói là đã vội đồng ý ngay. Lời nói trên chẳng qua là tư tưởng của một người bất đắc chí mà thôi, không phản ảnh được trí tuệ. Và ý tự tử đã chớm nơi Kiều:
 
 

Trên yên sẵn có con dao,

Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn.

Phòng khi nước đã đến chân,

Dao này thì liệu với thân sau này.

Đêm thu một khắc một chầy,

Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
 
 
 
 

XÓT NÀNG CHÚT PHẬN THUYỀN QUYÊN
 
 

Mã Giám Sinh đóng vai trò của một chàng rễ, kỳ thực Mã chỉ là một con bài. Lực lượng đứng phía sau họ Mã là một nhà chứa mà giám đốc là một người đàn bà rất ghê gớm: Tú Bà. Tú Bà mua Kiêu về làm một cô gái giang hồ, tiếp những khách giàu ‘sộp’ để lấy tiền. Đây là chân tướng của Mã Giám Sinh và Tú Bà:
 
 

Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,

Vẫn là một đứa phong tình đã quen.

Quá chơi lại gặp hồi đen,

Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa,

Lầu xanh có mụ Tú Bà,

Làng chơi đã trở về già hết duyên.

Tình cờ chẳng hẹn mà nên,

Mạt cưa mướp đắng hai bên một phường.69

Chung lưng mở một ngôi hàng,

Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.

Dạo tìm khắp chợ thì quê,

Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi.

Rủi may âu cũng sự trời,

Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
 
 

Túa Bà và Mã Giám Sinh đều xuất thân từ chỗ ăn chơi. Khi lớn tuổi họ lại tiếp tục sinh sống bằng cái nghiệp lầu xanh của mình. Tội nghiệp Thúy Kiều đã rơi vào ổ nhền nhện.
 
 

Xót nàng chút phận thuyền quyên,

Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.

Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,

Sính nghi rẻ giá nghinh hôn sẵn ngày.
 
 

Đây là tư tưởng của Mã Giám Sinh:
 
 

Mừng thầm: 'Cờ đã tới tay,

'Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.

'Đã nên quốc sắc thiên hương,

'Một cười nay hẳn nghìn vàng chảng ngoa!

'Về đây nước trước bẻ hoa,

'Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.

'Hẳn ba trăm lạng kém đâu,

'Cũng là vừa vốn còn sau thì lời.

'Miếng ngon kề đến tận nơi,

'Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.

'Đào tiên đã bén tay phàm,

'Thì vin cành quýt cho cam sự đời!

'Dưới trời mấy mặt làng chơi,

'Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.

'Nước vỏ lựu máu mào gà,

'Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.

'Mập mờ đánh lận con đen,

'Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?

'Mụ già hoặc có điều gì,

'Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.

'Vả đây đường xá xa xôi,

'Mà ta bất động nữa người sinh nghi.'
 
 

Thế là Mã Giám Sinh ép Kiều đi ngủ chung.

Cụ Nguyễn Du than:
 
 

Tiếc thay một đóa trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối về.

Một cơn mưa gió nặng nề,

Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.

Đêm xuân một giấc mơ màng.

Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ!
 
 

Người đàn ông đó rất vũ phu. Kiều như một đóa hoa rất mong manh. Anh chàng thì như 'mưa gió nặng nề', không hề có sự lễ phép, không có sự nương tay nhẹ nhàng. Xong chuyện anh chàng bỏ đi, không săn sóc, nói chuyệng gì với Kiều hết. Kiều cảm thấy bị hiếp, nhục nhã vô cùng:
 
 

Giọt riêng tầm tã tuông mưa,

Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình;

'Tuồng chi là giống hôi tanh,

'Thân nghìn vàng để ô danh má hồng!

'Thôi còn chi nữa mà mong,

'Đời người thôi thế là xong một đời!'
 
 

Trong cơn nhục nhã, Kiều rút dao, định tự tử nhưng nghĩ lại sợ liên lụy đến cha mẹ nên phải cất dao lại:
 
 

Giận duyên tủi phận bời bời,

Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh,

Nghĩ đi nghĩ lại một mình:

'Một mình thì chớ hai tình thì sao?

'Sau dầu sinh sự thế nào,

'Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.

'Nỗi mình âu cũng giản dần,

'Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi!'
 
 

'Trước sau gì cũng chết. Đợi đi khuất khỏi vùng này rồi hãy hay.'
 
 

Những là đo đắn ngược xuôi,

Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường.

Lầu mai vừa rúc còi sương,

Mã sinh giục giã vội vàng ra đi.

Đoạn trường thay lúc phân kỳ!

Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.
 
 

Câu 'Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh’ có giá trị âm hưởng rất hay. Đọc lên đã thấy khó chịu, khỏi cần ngồi trên xe ngựa.
 
 

Bề ngoài mười dặm trường đình,

Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
 
 

Đây là phong tục cổ. Ăn tiệc chia tay rồi lại gánh tiệc đi theo tiễn mười, mười lăm dặm nữa. Tới chỗ nghỉ, dở tiệc ra ăn chia tay thêm lần thứ hai.
 
 

Ngoài thì chu khách dập dìu,

Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
 
 

Trong lúc mọi người ăn tiệc tiễn hành thì mẹ của Thúy Kiều vào phòng Kiều. Hai mẹ con nói chuyện. Kiều nói: 'Chết con rồi mẹ ơi!'
 
 

Nhìn càng lã chã giọt hồng,

Rỉ tai nàng mới giải lòng thấp cao:

'Hỗ sinh ra phận thơ đào,

'Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong!

Lỡ làng nước đục bụi trong,

'Trăm năm để một tấm lòng từ đây.

'Xem gương trong bấy nhiêu ngày,

'Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già.

'Khi về bỏ vắng trong nhà,

'Khi vàng dúng dắng khi ra vội vàng,

'Khi ăn khi nói lỡ làng,

'Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.

'Khác màu kẻ quý người thanh,

'Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.

'Thôi con còn nói nữa chi con,

'Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!'
 
 

Đó là nhận xét của Thúy Kiều. Mã Giám Sinh không phải là một người đàn ông bình thường mà giống như một tay lái buôn gian manh nào đó. Đời cô như vậy chắc sẽ không ra gì.
 
 

Vương bà nghe bấy nhiêu lời,

Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
 
 

Dùng hình ảnh. Trong tám chữ mà thi sĩ có thể lột tả thấm thía nỗi đau nhức, oan ức của người mẹ.
 
 

Vài tuần chưa cạn chén khuyên.

Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.
 
 

Nghỉ (dấu hỏi) là hắn ta, anh ta, chỉ Mã Giám Sinh. Vương ông rất thương con gái, đến trước yên ngựa của Mã Giám Sinh năn nỉ:
 
 

Xót con lòng nặng chề chề,

Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:

'Chút thân liễu yếu thơ đào,

'Dớp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi.

'Từ đây góc bể bên trời,

'Nắng mưa thui thủi quê người một thân.

'Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,

'Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.'
 
 

Hai câu sau rất hay. Người đàn bà như dây leo (cát đằng), người đàn ông như cây tùng. Dây leo lên cao được là nhờ cây tùng đứng vững. Trong Quy Sơn Cảnh Sách (ngày xưa bằng chữ Nho, người xuất gia phải học thuộc lòng) có câu: 'Khả bất kiến ý tùng chi cát, thượng túng tiên tầm, phụ thác thắng nhân, phương năng hữu ích.' Có nghĩa là: 'Há quý vị không thấy cây dây leo nương vào cây tùng mà leo lên cao tới nghìn tầm. Nếu tu học mà không nương vào những người có đạo đức lớn thì không thể nào thành công được.' Trong câu này, Vương ông nói: 'Xin nhờ anh làm chỗ nương tựa cho cho đứa con gái thương của tôi! Trăm sự nhờ anh hết! Hạnh phúc của con gái tôi hoàn toàn trông cậy vào anh.' Nhưng năn nỉ sao được! Đây vốn là tay bợm già, năn nỉ đâu có ích lợi gì! Anh chàng nói:
 
 

Cạn lời khách mới thưa rằng:

'Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.

'Mai sau dù có thế nào,

'Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần!'
 
 

'Không sao đâu, ông đừng có lo! Có duyên mới thành vợ thành chồng được chớ! Sau này mà tôi ăn ở không đàng hoàng, không chăm sóc Thúy Kiều thì trời phạt tôi chết!' Họ Mã đã thề như vậy đó.
 
 
 

MỘT XE TRONG CÕI HỒNG TRẦN NHƯ BAY
 
 

Đùng đùng gió giục mây vần,

Một xe trong cõi hồng trần như bay.
 
 

Hai câu tả đoàn rước dâu đi trong gió bụi. Đây cũng là thân phận của kiếp người bị cơn lốc của nghiệp báo cuốn theo. Con người không có năng lực để làm chủ lấy mình. Có những đau buồn, tham giận, kiêu căng mà lại thiếu trí tuệ, từ bi và sự trầm tĩnh. Đi trong cuộc đời như đi trong một cơn lốc, người ta không có khả năng làm chủ thân tâm. 'Đùng đùng gió giục mây vần. Một xe trong cõi hồng trần như bay' là số phận chung của tất cả mọi người. Hồng trần là bụi đỏ, chỉ cuộc đời đau khổ. Mỗi người đang cởi một chiếc xe và đang đi trong cơn lốc của những hạt bụi đỏ. Người tu thì sẽ có phương pháp để thắng xe lại, làm chủ tình thế. Người không tu thì ngồi trên xe và bị cuốn theo cơn lốc của bụi hồng. Hai câu thơ này rất hay, có thể viết để treo ở thiền đường.
 
 

Và đây là tâm trạng Thúy Kiều khi đang ở trên con đường nghìn dặm:
 
 

Trông vời gạt lệ chia tay,

Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm.

Nàng thì dặm khách xa xăm,

Bạc phau cầu giá đen rần ngàn mây.

Vi lô san sát hơi may,

Một trời thu để riêng ai một người.
 
 

Sương lạnh đọng trắng trên cầu, bầu trời ảm đạm mây đen. Đó là khung cảnh Kiều đang đi ngang qua nhưng cũng là tình trạng bên trong trái tim Kiều - cũng rất lạnh và rất đen. Nội tâm và ngoại vật giống hệt như nhau. Con người trong cảnh rất cô đơn cho nên cả trời thu đó dường như chỉ để cho một người chịu đựng mà thôi.
 
 

Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,

Thấy trăng mà thẹn những lời non sông!

Rừng thu từng biếc chen hồng,

Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn!
 
 

Tâm trạng của Kiều luôn luôn có hai nỗi nhớ niềm thương. Một bên là nhớ người yêu, một bên là nhớ cha nhớ mẹ. Tấm lòng thần hôn là tấm lòng hiếu thảo muốn săn sóc sớm chiều cho cha mẹ.
 
 
 

SA VÀO Ổ NHỆN
 
 

Đi một tháng thì tới Lâm Truy. Và Thúy Kiều khám phá ra được sự thật là người ta đã mua cô về để làm gái làng chơi.
 
 

Những là lạ nước lạ non

Lâm-Truy vừa một tháng tròn tới nơi.

Xe châu dừng bánh cửa ngoài

Rèm trong đã thấy một người bước ra.

Thoát trông nhờn nhợt màu da,

Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?
 
 

Đây là bà chủ chứa. Cụ Nguyễn Du tả bà đó cũng ghê!
 
 

Trước xe lơi lả han chào

Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
 
 

Và Thúy Kiều thấy:
 
 

Bên thì mấy ả mày ngài,

Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.

Giữa thì hương lửa hẳn hoi,

Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.

Lầu xanh quen lối xưa nay,

Nghề này thì lấy ông này tiên sư.
 
 

Thần lông mày trắng (thần bạch mi) là ông thần mà các nhà chứa thờ để ông phù hộ cho được đông khách. Thúy Kiều không hiểu gì cả. tưởng là vô lạy bàn thờ tổ tiên, ai dè là bắt tới lạy cái ông thần lạ kỳ đó!
 
 

Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,

Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:

'Cừa hàng buôn bán cho may,

'Đêm đêm hàn thực ngày ngày nguyên tiêu.

'Muôn ngàn người thấy cũng yêu,

'Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai!

'Tin nhạn vấn, lá thơ bài,

'Đưa người cửa trước rước người cửa sau!'

Lạ tai nghe chửa biết đâu,

Xem tình ra cũng những màu dở dang.
 
 

Kiều không hiểu gì hết! Nàng là một cô gái nhà lành, làm sao hiểu được ngôn từ của nhà chứa! Nhưng cô càng lúc càng nghi.
 
 

Lễ xong hương hỏa gia đường

Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.

Dạy rằng: 'Con lạy mẹ đây,

'Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia.'
 
 

Kiều ngạc nhiên:
 
 

Nàng rằng: 'Phải bước lưu ly

'Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.

'Điều đâu lấy yến làm anh,

'Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?

'Đủ điều nạp thái vu quy,

'Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.

'Giờ ra thay bậc đổi ngôi,

'Dám xin gởi lại một lời cho minh.'

Mụ nghe nàng nói hay tình,

Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên:

'Này này sự đã quá nhiên,

'Thôi đà cướp sống của min đi rồi!

'Bảo rằng đi dạo lấy người,

'Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.

'Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,

'Buồn mình trước đã tần mần thử chơi

'Màu hồ đã mất đi rồi,

'Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma.
 
 

Giận Mã Giám Sinh quá nhưng bà ta đâu đánh họ Mã liền ngay lúc đó được. Tú Bà quay sang chửi và đánh Kiều:
 
 

'Con kia đã bán cho ta,

'Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây!

'Lão kia có giở bài bây,

'Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe!

Cớ sao chịu tốt một bề,

'Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

'Phải làm cho biết phép tao!'

Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.

Nàng rằng: 'Trời thẳm đất dày,

Thân này đã bỏ những ngày ra đi!

'Thôi thì thôi có tiếc gì!'

Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.

Sợ gan nát ngọc liều hoa,

Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.

Thương ôi tài sắc bậc này.

Một dao oan nghiệt dứt dây phong trần!
 
 

Kiều lấy dao ra và đâm vào bụng tự tử. Nàng bị thương rất nặng.
 
 

Nỗi oan vở lở xa gần,

Trong nhà người chật một lần như nêm.

Nàng thì bằn bặt giấc tiên,

Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.

Vực nàng vào chốn hiên tây,

Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men.
 
 

Trong lúc mê man, Đạm Tiên lại hiện ra với Kiều:
 
 

Nào hay chưa hết trần duyên,

Trong mê dường đã đứng bên một nàng.

Rỉ rằng: 'Nhân quả dở dang.

'Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?

'Số nàng nặng nghiệp má đào,

'Người dù muốn quyết trời nào hay cho!

'Hãy xin hết kiếp liễu bồ

'Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau.'

Thuốc thang suốt một này thâu,

Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.

Tú Bà chực sẵn bên nàn,

Lựa lời khuyên giải mơn man gở dần:
 
 

Bây giờ Tú Bà mới biết rằng Kiều rất gan dạ, không thể dùng oai lực mà nhiếp phục được. Bà phải vuốt ve:
 
 

'Một người dễ có mấy thân,

'Hoa xuân dương nhụy ngày xuân còn dài.
 
 

- "Con ơi, con còn trẻ lắm mà! Làm chi như vậy, dại dột lắm con ơi!'
 
 

'Cũng là lỡ một lầm hai,

'Đá vàng sao nở ép nài mưa mây.

'Lở chân trót đã vào đây,

'Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non.

'Người còn thì của hãy còn,

'Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà.
 
 

- 'Con là con nhà lành, bác sẽ không ép con làm nghề này dâu! Nhưng con đã lỡ bước vào đây rồi, bác sẽ nuôi con và gã chồng đàng hoàng cho con.' Khôn lắm! Ăn thua là để cho Kiều chịu uống thuốc, trị bệnh, sống trước dã rồi tính sau!
 
 

'Làm chi tội báo oan gia,

'Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?'
 
 

- 'Nếu con tự tử thì thiệt thân con mà bác đây cũng sẽ khổ đau lắm.'
 
 

Kề tai mấy nỗi nằn nì,

Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi.
 
 

Thúy Kiều nghe nói thấy cũng đúng và cũng hy vọng Tú Bà sẽ giữ lời. Trong giấc mộng, Đạm Tiên cho Kiều biết cô có những nghiệp duyên kiếp trước phải đền trả, không thể tránh khỏi bằng cách chấm dứt sự sống của mình.
 
 

Vả trong thần mộng mấy lời,

Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
 
 

Túc nhân là nghiệp nhân trong quá khứ. Túc là kiếp trước (Ví dụ: Túc mạng thông là hiểu thấu, nhớ được tất cả những kiếp trước.) Trong Kinh có bài kệ:
 
 

'Dục tri tiền thế nhân

Kim Sanh thọ giả thị

Dục tri lai thế quá

Kim sanh tác giả thị.'
 
 

Nghĩa là: Muốn biết nhân đời trước thì coi quả đời này; muốn biết quả đời sau thì coi nhân đời này.
 
 

Dùng chữ trời ở đây là cụ Nguyễn Du muốn cho tới luật nghiệp báo. Trong giai đoạn này, cụ còn trộn lẫn thuyết thiên mạng với thuyết nhân quả. Về sau này, khi Phật học của cụ đã sâu sắc, cụ viết rất khác về tư tưởng nhà Phật.
 
 

Kiếp này nợ trả chưa xong,

Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
 
 

Đây là niềm tin bình dị của xã hội Á Đông ngày xưa: 'Thôi, ráng sống mà trả cho hết nghiệp báo. Chết thì nghiệp báo vẫn còn hoài, kiếp sau thế nào cũng phải trả nợ chồng chất.'
 
 

Lặng nghe ngẫm nghĩ gót đầu,

Thưa rằng: 'Ai có muốn đâu thế này.

'Được lời như thế là may.

'Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!

'Sợ khi ong bướm đãi đằng,

'Đến điều sống đục sao bằng thác trong!'
 
 

Kiều vẫn còn nghi: 'Đâu có ai muốn chết, nhưng sống đục sao bằng thác trong? Bác nói như vậy nhưng liệu bác có làm theo như vậy hay không? lỡ sau này người ta làm nhục con thì thà con chết bây giờ mà được trong sạch còn hơn là phải sống ô nhục."
 
 

Mụ rằng: 'con hãy thong dong,

'Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!

'Mai sau ở chẳng như lời,

'Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.'
 
 

- 'Nếu bác mà không giữ lời thì trời đất sẽ không dung bác.' Mấy người này hay thề độc lắm!
 
 

Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,

Đành lòng nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
 
 

Kiều chấp nhận.
 
 
 
 

AI CÓ THỂ GIÚP KIỀU?
 
 

Chúng ta phải tìm cách độ những người đang và đã sa vào hoàn cảnh như Thúy Kiều. Những người đang ăn chơi, tàn hoại thân thể và tâm hồn mình cũng cần người đến cảm hóa. Trong Kinh có câu: 'Dâm phòng, tửu tứ vô vi thanh tịnh đạo tràng.' Quán rượu và nhà chứa đều là những đạo tràng mình phải đi vào để cứu độ. Phải biến những chỗ đó làm những đạo tràng thanh tịnh để hành đạo chứ không nên nhắm mắt lại, nói rằng những chỗ đó không có. Nhắm mắt lại thì không chuyển hóa được. Không độ được. Không độ được một Mã Giám Sinh hay một Tú Bà thì có biết bao Thúy Kiều sẽ rơi vào những ổ nhện đó.

Giải tán được một ổ nhện là cứu được không biết bao nhiêu những cô thiếu nữ. Ở Bangkok, Manila hay Sài Gòn bây giờ có rất nhiều những ổ nhện như vậy. Đây là chuyện xảy ra ở tất cả các thành phố lớn. Các cô gái mười ba, mười bốn ở miền quê lên thành phố bán bánh nuôi em có thể bị lọt vào những ổ đó rất dễ dàng. Ban đầu họ chỉ cho vài chục đồng hay một chỗ ở, sau đó họ dụ: 'Con làm cái nghề đó thì sẽ nhiều tiền gởi về nhà. Làm nghề này một ngày thì được họ cho mấy trăm, mấy ngàn đồng, thấy khỏe quá. Rồi mới lún từ từ vào sâu. Ở Sài Gòn cũng có những trẻ em bụi đời, những 'người Việt gốc me' (không có nhà, ngủ dưới gốc cây me.) Nếu sa vào ổ nhện rồi thì muốn ra rất khó.

Ngày xưa dưới thời ông Thiệu ông Kỳ có ngã tư Quốc Tế, ngã tư Chú Lía... ghê gớm lắm. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, vấn đề này còn to lớn hơn. Phải có kế hoạch, phải biết rõ tình trạng thì mới có thể hành đạo ở những chỗ đó. Có khi nào các thầy, các sư cô nghĩ tới chuyện đi đến những chỗ ấy để hành đạo không? Nếu các thầy cứ ở chùa mà thuyết Pháp thì tiếng Pháp của các thầy làm sao tới được những người đau khổ như Thúy Kiều? Nếu quý vị muốn đem đạo Phật đi vào cuộc đời thì phải nghĩ đến đạo Bụt nhập thế, nghĩa là Phật giáo nhân gian. Ngày xưa sư Giác Duyên đã làm chuyện ấy.
 
 

Rất ngộ nghĩnh là Kiều đã tự tử, đã được bán cho một thương gia giàu có (Thúc Sinh), đã được một ông đại tướng (Từ Hải) cưới về, và đã đi tu nữa, vậy mà cũng không thoát ra được. Cô đã tìm mọi cách để thoát ra. Nhưng số phận vẫn đưa cô về lầu xanh, làm vật chơi cho người khác. Rốt cuộc là chính một ni sư đã cứu Kiều và đem Kiều về nếp sống bình thường, cho Kiều cơ hội gặp lại cha mẹ và người yêu cũ.
 
 

Vớt người trầm luân, đó là công việc của một sư cô. Điều này đã xảy ra trong quá khứ. Hiện nay, những thanh niên Việt Nam đã không có hạnh phúc đi theo băng đảng ở Mỹ rất nhiều. Tình trạng này lan sang cả Canada và Âu Châu. Các thầy, các cô có làm được gì để giúp những người ấy hay không? những bài thuyết pháp của quý vị có động tới được những thanh thiếu niên đó không? Trước khi là thanh niên du đãng thì họ cũng đã là những thanh niên bình thường. Các thầy đã giảng được cho các thanh niên bình thường ấy chưa?
 
 
 

BỒ TÁT QUÁN TỰ TẠI
 
 

Khi đọc Kiều, nghe những đau khổ và chán chường như thế, ta không thấy dễ chịu. Chúng ta đi tìm sự thật. chúng ta phải có câu trả lời cho tình trạng. Đây không phải chỉ là tình trạng ngày xưa, đây cũng là tình trạng bây giờ. Khi giảng Tâm Kinh Bát Nhã, tôi cũng đem Tâm kinh vào xã hội ngày. Tôi nói rằng một em bé ở Bangkok bị dụ làm gái ăn sương, chiều đi sáng về, trông thấy những cô nữ sinh áo trắng đi học, ngẫm lại thân mình thì tủi. Các cô gái nhà lành thật may mắn. Thân phận em là thân phận ô uế của một cô gái ăn sương. Em có mặc cảm mình là con gái bỏ đi, còn những cô nữ sinh kia là những cô gái đáng sống.

không ai có thể cứu em bé này ra khỏi mặc cảm ô nhục, dơ bẩn, ngoại trừ Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát nói như thế này: "Con không dơ mà mấy cô kia cũng không sạch. Sở dĩ mà con như thế này là vì xã hội kia như thế kia (Thử hữu cố bỉ hữu thử vô cố bỉ vô.) Xã hội kia được như vậy là vì có những người như con. Con làm ra xã hội và xã hội làm ra con. Không phải chỉ có con mới chịu trách nhiệm về con mà cả xã hội kia cũng phải chịu trách nhiệm về con. Con đừng có mặc cảm con là người duy nhất chịu trách nhiệm. Tất cả những nhà giáo dục, kinh tế, chính trị trong xã hội đều chịu trách nhiệm về con cả.' Đó là ý 'Không dơ cũng không sạch, Không thêm cũng không bớt' trong Tâm Kinh Bát Nhã.

Nghe Đức Quan Thế Âm nói như vậy thì ranh giới giữa dơ và sạch, bên này và bên kia mới được tháo sạch và mặc cảm của các cô gái ăn sương lúc đó mới có thể được tiêu trừ. Đó là giọt nước Cam Lộ mà chỉ có đạo Phật mới cung cấp được. Cái thấy bất nhị này chúng ta ít tìm thấy trong các truyền thống tôn giáo khác. Cái này như thế này là vì cái kia như thế kia. 'Thân phận con, cả xã hội đều chịu trách nhiệm. Con đừng có mặc cảm tội lỗi. Nếu người ta sống đàng hoàng, biết lo cho tất cả thì con đã không đến nỗi như thế này đâu.' Em bé sẽ khóc và ôm lấy chân Đức Quan Thế Âm: 'Xin Ngài dạy cho con cách để thoát ra khỏi'. Lúc ấy Đức Quan Thế Âm mới bắt đầu dạy cho em được. Chúng ta cũng phải làm như thế. Ngày xưa ở Sài Gòn có các sư cô làm chuyện đó. Ngày nay cũng vậy.
 
 

Có một em bé ở nhà quê lên bán bánh. Người cô không cho em ở vì em không có tên trong tờ khai gia đình. Em ngủ ngoài nghĩa địa. Sợ ma. Một bữa nọ Tú Bà lại nói: 'Nếu con chịu ngủ với người ta thì con sẽ có nhiều tiền. Con được một trăm thì cô chỉ giữ lại hai chục để trả tiền nhà, tiền nước.' Nhà chứa không chánh thức; công an, cán bộ biết, nhưng được lo lót thì cũng để cho yên. Một sư cô thấy em bé nhỏ xíu, mới mười sáu tuổi mà đứng ngoài được kiếm khách. Sư cô kêu em lại nói chuyện. 'Thôi, Tú Bà biết liều không sợ chứa chấp con thì cô cũng liều. Thay vì ở nhà Tú Bà thì con về ở chùa đi.' Cô cho em ở đậu và giúp em một xe bán bánh mì. Sư cô này hiện đang sống ở Sài Gòn, đã và đang làm những việc như vậy. Đừng nói rằng những chuyện đó là những chuyện quá khứ, những chuyện minh không làm được. Đó là một trong những chuyện đang xảy ra.
 
 

Nếu sư cô nọ có thể giúp em bé kai thì sư cô cũng đã có thể giúp những em bé khác. Ngoài sư cô cũng còn biết bao nhiêu những sư cô khác đang làm được chuyện này. Đây không phải là chuyện lý thuyết. Sự thật ở Sài Gòn bây giờ có những sư cô buổi sáng mở chùa cho trẻ con bụi đời vô học. Các cô nói: 'Nếu các con chịu khó học được bốn tiếng đồng hồ thì trưa nay sẽ được ăn cơm chay.' Giữ con nít ở trong chùa để các em khỏi ra được làm du đảng hay đào bới trong những đống rác. Ăn trưa xong các em có thể lăn ra ngủ. Ở lại học buổi chiều từ ba đến sáu giờ thì các em lại được ăn cơm chiều.

Nhìn bề ngoài thấy giống như trẻ em mỗi ngày được cung cấp mấy giờ học và hai bữa cơm. Kỳ thực kết quả lớn lắm! Các cô đã giữ được cho các em khỏi sa vào những ổ nhện và khỏi trở thành những trẻ em du đảng. Cho một em ăn trưa chỉ tốn 25 cents thôi. Ở Tây phương, 25 cents thì mua gì được! Nhưng vào tay sư cô, 25 cents là một bữa ăn cho em bé. Bao nhiêu công việc như vậy. Rất đẹp, rất hay. Đạo Phật là như thế, không phải là đạo nói trên trời dưới biển. Thúy Kiều bây giờ nhiều lắm. Có khắp nơi. Chỉ thương hại cho cô Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du không thôi thì rất bất công. Cô này đã có người thương rồi, đã có một sư cô tên Giác Duyên lo cho rồi. Còn biết bao nhiêu Thúy Kiều nhỏ tuổi, dại dột hơn Thúy Kiều này đang ở khắp nơi trên quê hương mình. Đọc truyện Kiều với cái thấy này thì truyện Kiều trở thành ra Kinh. Ích lợi như đọc Kinh.
 
 
 

NỬA TỈNH NỬA CẢNH
 
 

Tú Bà đã hứa sẽ lo cho tương lai của Kiều và để Kiều dưỡng bệnh ở lầu Ngưng Bích. Đây là những câu thơ đẹp tả cảnh quanh lầu Ngưng Bích; đồng thời nói lên tâm trạng nhớ thương của Thúy Kiều:
 
 

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
 
 

Núi xa, trăng gần. Những cồn cát màu vàng, những con đường chạy về nơi xa tắp có màu hồng của Đất. Hình ảnh đẹp. Có tương phản (xa - gần, cát vàng - bụi hồng, cồn nọ - dặm kia) và có kếp hợp (ở chung). Có động (cát - bụi) và có tình (non - trăng). Hay một phần nữa là ở chỗ ngắt nhịp. Thay và ngắt ở chữ thứ tư như những câu tám thông thường trong lục bát (ví dụ: Cát vàng cồn nọ/ tấm trăng gần/ ở chung. Hơi thơ vì vậy khác thường, không đều đều một điệu.
 
 

Tâm tình thương nhớ và khổ đau sẵn có xúc chạm với cảnh đẹp làm tâm trạng Kiều càng thêm xao xuyến:
 
 

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya.

Nửa tình nửa cảnh mà chia tấm lòng.
 
 

Tâm con người không ở đó. Không thật sự có mặt cho cảnh trí trước mặt và cũng không thực sự có mặt cho những tâm tư của mình.
 
 

Tưởng nhớ người yêu, băn khoăn vì lời thề chưa trọn:
 
 

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,70

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
 
 

Tưởng nhớ cha mẹ:
 
 

Xót người tựa cửa71 hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh73 những ai đó giờ?

Sân lai73 cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử74 đã vừa người ôm.
 
 

Người chị cả trong nhà nghĩ rằng mình đã không làm tròn được bổn phận của người con lớn. Trông vời cố hương, nghĩ về thân phận. Không biết mình sẽ đi về đâu trong tương lai:
 
 

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu.

Buồn trông nội cỏ dàu dàu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,

Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.

Chung quanh những nước non người,

Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu.
 
 

Ngồi ngắm cảnh mà trong lòng thì buồn. Chữ buồn trông lặp qua lập lại đến bốn lần khiến cái buồn thêm vị sắt se, thấm thía. Tâm người ngắm cảnh tràn vào cảnh, khoác lên cảnh vài sắc thái xa xa, man mác, dàu dàu, bàng bạc trong những câu thơ tài tình.
 
 
 

NHẮM MẮT ĐƯA CHÂN
 
 

Cảm niềm đau của một người xa quê hương (đau lòng lưu lạc) Kiều ghi xuống tâm sự mình dưới hình thức những câu thơ. Làm thơ xong, buông màn xuống ngâm lên thì nghe phía tường bên kia có tiếng một người con trai ngâm họa lại. Người con trai đó được tả như thế này:
 
 

Một chàng vừa trạc thanh xuân,

Hình dung chải chuốt ao khăn dịu dàng.

Nghĩ rằng cũng mạch thư hương

Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
 
 

Rất hay! Anh chàng có dáng dấp học trò, không giống Mã Giám Sinh nhưng cũng rất khác với Kim Trọng. Hữu ư trung tức hình ư ngoại. Qua cách tả chúng ta cũng đã thấy được phần nào nội dung tâm lý của anh chàng rồi.
 
 

Bóng nga thấp thoáng dưới mành,

Trông nàng chàng cũng ra tình đeo dai:
 
 

Thấy nàng Kiều anh chàng cũng có vẻ quyến luyến. Anh ta mở lời:
 
 

'Than ôi! Sắc nước hương trời,

'Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?

'Giá đành trong nguyệt trên mây,

'Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa?

'Tức gan riêng giận trời già,

'Lòng này ai tỏ cho ta hởi lòng?

'Thuyền quyên ví biết anh hùng,

'Ra tay tháo cũi sổ lòng như chơi!'
 
 

Anh chàng muốn chứng tỏ mình là một trang hảo hán, có lòng anh hùng nghĩa hiệp, có thể cứu đời. Theo cách nói như vậy, chúng ta thấy rất rõ đây chỉ là nghĩa hiệp ở hình thức. Hình như Thúy Kiều cũng cảm thấy điều đó. Nhưng cô đang ở trong một hoàn cảnh quá ư khó khăn nên cố bíu lấy bất cứ cái sào nào được đưa ra.
 
 

Đánh liều nhắn một hai lời,

Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.

Mảnh tiên kể hết xa gần,

Nỗi nhà báo đáp nỗi thân lạc loài.

Tan sương vừa rạng ngày mai,

Tiện hồng nàng mới nhắn lời gởi sang.
 
 

Thúy Kiều viết thư kể chuyện mình. Tảng sáng gửi sang (tiện hồng) nhà bên kia. Đến chiều đã thấy thư trả lời (phục thư) của 'chàng nghĩa hiệp'.
 
 

Trời tây lãng đãng bóng vàng,

Phục thư đã thấy tin chàng đến nơi.

Mở xem một bức tiên mai,

Rành rành Tích Việt có hai chữ đề.

Lấy trong ý tứ mà suy:

'Ngày hai mươi mốt tuất thì phải chăng?'
 
 

Kiều rất thông minh. Mở thư thấy hai chữ 'Tích Việt' thì đoán được thông điệp bí mật. Chữ Tích () phân ra có ba phần: trấp () là hai mươi () nhất () là một, nhật () là ngày. Chữ Việt () có nghĩa là vượt, trong đó có chữ () tuất (). 'Ngày hai mươi mốt, giờ Tuất (19: 00 - 21:00 giờ) mình sẽ đi trốn.' Đó là thông điệp bí mật của chàng.
 
 

Chim hôm thoi thóp về rừng,

Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.

Tường Đông lay động bóng cành,

Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
 
 

Bây giờ hai người mới thật sự gặp nhau. Trước kia chỉ gặp bằng thơ văn.
 
 

Sượng sùng đánh dạn ra chào,

Lạy thôi nàng mới rỉ trao ân cần:

Rằng: 'Tôi bèo bọt chút thân,

'Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh.75

'Dám nhờ cốt nhục tử sinh,

'Còn nhiều kết cỏ ngậm vành76 về sau.
 
 

Sở Khanh:
 
 

Lặng nghe lấm nhấm gật đầu:

'Ta đây nào phải ai đâu mà rằng!

'Nàng đà biết đến ta chăng,

'Bể trầm luân lấp cho bằng mới thôi.'

Nàng rằng: 'Muôn sự ơn người,

'Thế nào xin quyết một bài cho xong.'

Rằng: 'Ta có ngựa truy phong,

'Có tên dưới trướng vốn dòng kiện nhi.

'Thừa cơ lẻn bước ra đi,

'Ba mươi sáu chước chước gì là hơn.77

'Dù khi gió kép mưa đơn,

'Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!'

Nghe lời nàng đã sinh nghi,

Song đà quá đổi quản gì được thân.

Cũng liều nhắm mắt đưa chân,

Mà xem con tạo xoay vần đến đâu.
 
 

Rất nhiều người thuộc lòng hai câu cuối và hay liều lĩnh làm theo. Khi bị đặt vào hoàn cảnh phải đi tới một quyết định, ta phải cẩn thận lắm mới được. nếu ta không tin tưởng ở giải pháp đó một trăm phần trăm thì đừng làm liều như Thúy Kiều. Bị bí, không có nước ra mà cứ chấp nhận càn một giải pháp mạo hiểm. 'Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu' Thực ra là một lời cảnh cáo. Không bao giờ nên làm một cái gì mà mình chưa suy nghĩ kỹ càng. Phải đem hết tất cả trí tuệ của mình mà quán sát. Chỉ khi nào thấy rằng giải pháp đó là hay nhất, không có con đường nào hay bằng thì mình mới làm thôi. Trông vào may rủi (taking chance) là không nên.
 
 
 

QUẤT NGỰA TRUY PHONG
 
 

Cùng nhau lén bước xuống lầu,

Song song ngựa trước ngựa sau một đoàn.

Đêm thu khắc lậu canh tàn,

Gió cây trút lá trăng ngàn ngậm gương.
 
 

Canh là đơn vị thời gian dài, khắc là đơn vị thời gian ngắn (15 phút). Đồng hồ (hồ nước bằng đồng) ngày xưa làm bằng hai chậu nước thông nhau, thời gian được đo bằng mực nước nhỏ từ chậu trên xuống chậu dưới. Chữ lậu trong khắc lậu có nghĩa là rỉ ra, lọt xuống. Người tu hành mà còn sa xuống thì gọi là hữu lậu, không còn rơi xuống nữa thì gọi là vô lậu.
 
 

Lối mòn cỏ nhợt màu sương,

Lòng quê đi một bước đường một đau.

Tiếng gà xao xác gáy mau,

Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng.
 
 

Có tiếng đoàn người đuổi theo. Sở Khanh lộ ra chân tướng:
 
 

Nàng càng thổn thức gan vàng,

Sở khanh đã rẽ dây cương lối nào!

Một mình khôn biết làm sao,

Dặm rừng bước thấp bước cao hãi hùng.
 
 

Hãy tưởng tượng cảnh người con gái đang đi một mình trong rừng, sau lưng có một đoàn người đuổi theo! Cụ Nguyễn Du xót cho Kiều:
 
 

Hóa nhi78 thật có nở lòng,

Làm chi giày tía vò hồng lắm nau!
 
 
 

GIÀY TÍA VÒ HỒNG
 
 

Một đoàn đổ đến trước sau,

Vuốt đâu xuống đất cánh đâu lên trời.

Tú Bà tốc thẳng đến nơi,

Hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà,

Hung hăng chẳng nói chẳng tra,

Đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời.

Thịt da ai cũng là người,

Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau.

Hết lời thú phục khẩn cầu,

Uốn lưng thịt đổ giập đầu máu sa.
 
 

Tú Bà đánh Kiều tơi bời. Chỉ một cái tội đi trốn thôi là đủ để đánh rồi. Kiều chịu không nổi:
 
 

Rằng: 'Tôi chút phận đàn bà,

'Nước non lìa cửa chia nhà đến đây.

'Bây giờ sống thác ở tay,

'Thân này đã đến thế này thì thôi!

Nhưng tôi có sá gì tôi,

'Phận tôi đành vậy vốn người ở đâu?
 
 

Kiều dùng phương pháp mặc cả, đánh vào cái lợi của người ta, để đừng bị đau đớn. Câu sau cùng là câu chua chát nhất:
 
 

'Thân lươn bao quản lấm đầu,

'Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.'
 
 

Đây là câu thơ cay đắng, chua xót và đau đớn nhất trong truyện Kiều. Chừa những thói hư tật xấu như tham lam, sân hận, kiêu căng thì gọi là chừa. Nhưng lòng trinh bạch mà phải chừa thì là một bản án rất lớn của số phận đè lên con người. Đó là bi kịch lớn của loài người. Tất cả những độc giả của Nguyễn Du khi đọc tới câu này đều phẫn uất. Phẩn uất cho con người, phẫn uất cho xã hội. Một xã hội mà trong đó cô thiếu nữ phải hứa là sẽ chừa đi cái trong sạch và trinh trắng của minh! Dễ sợ!
 
 

Được lời mụ mới tùy cơ,

Bắt người bảo lãnh làm tờ cung chiêu.

Bày vai có ả Mã Kiều,

Xót nàng ra mới đánh liều chịu đoan.

Mụ càng kể nhặt kể khoan,

Gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha.
 
 

Tú Bà bắt Kiều phải thề thốt và cam kết sẽ ra tiếp khách mới chịu tha. Trong thanh lâu có cô Mã Kiều thương tình, đứng ra bảo lãnh cho Thúy Kiều.
 
 

Vực nàng vào nghỉ trong nhà,

Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:

'Thôi đà mắc lận thì thôi!

'Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?

'Bạc tình nổi tiếng lầu xanh,

'Một tay chôn biết mấy cành phù dung.

'Đà đao79 lập sẳn chước dùng.

'Lạ gì một cốt một đồng xưa nay!

'Có ba mươi lạng trao tay,

'Không dưng chi có chuyện này trò kia!

'Rồi ra trở mặt tức thì,

'Bớt lời liệu chớ sân si thiệt đời!'
 
 

- 'Ít nhất Tú bà đã trả cho Sở Khanh ba mươi lạng vàng để đưa cô vào tròng. Hắn trở mặt nhanh lắm! Thôi, cô đừng nói năng gì với hắn nữa hết kẻo mà thiệt thân'.
 
 

Nàng rằng: 'Thề thốt nặng lời,

'Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!'

Còn đương suy nghĩ trước sau,

Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.

Sở Khanh lên tiếng rêu rao:

Rằng: 'Nghe mới có con nào ở đây.

'Phao cho quyến gió rủ mây,

'Hãy xem cho biết mặt này là ai?'
 
 

- 'Nghe đồn có con nào ở đây mới phao vu cho tôi quyến rũ nó? Nó hãy ra đây coi thử cái mặt này có phải là mặt của thằng đó không?
 
 

Nàng rằng: Thôi thế thì thôi,

Rằng không thì cũng vâng lời rằng không!'
 
 

- 'Nếu ông nói không thì tôi cũng nói là không vậy!'
 
 

Sở Khanh quát mắng đùng đùng,

Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay.
 
 

Kiều đưa ra hai chữ 'Tích Việt':
 
 

Nàng rằng: Trời nhé có hay!

'Quyến anh rủ yến sự này tại ai?

'Đem người đẩy xuống giếng khơi,

'Nói rồi lại ăn lời được ngay!

'Còn tiên tích việt ở tay,

'Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai!'

Lời ngay đông mặt trong ngoài,

Kẻ chê bất nghĩa người cười vô lương!

Phụ tình án đã rõ ràng,

Dơ tuồng nghỉ80 mới kiếm đường tháo lui.
 
 
 

PHONG TRẦN NHƯ AI
 
 

Buồng riêng riêng những sụt sùi,

Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân:

'Tiếc thay trong giá trắng ngần,

'Đến phong trần cũng phong trần như ai!

'Tẻ vui cũng một kiếp người,

'Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!

'Kiếp xưa đã vụng đường tu,

'Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!

'Dẫu sao bình đã vỡ rồi,

'Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!'
 
 

Bây giờ mình đau khổ như thế này là vì kiếp trước mình đã không biết tu tập đàng hoàng. Vậy thì đừng than thở nữa, hãy tu tập để chữa lại những lỗi lầm trong quá khứ. Ở đây Kiều nghĩ rằng mình phải chấp nhận tiếp khách để 'trả cái nợ' mình đã mắc trong tiền kiếp. Cương quyết 'trả nợ', chấp nhận tiếp khách. Nhưng tiếp khách đâu phải dễ. Tú Bà gọi Kiều vào và dạy: phương pháp tiếp khách. Là con gái nhà lành, Kiều phải đi qua một lớp 'huấn luyện' thì mới có thể làm ăn được.
 
 

Vừa tuần nguyệt sáng gương trong,

Tú Bà ghé lại thong dong dặn dò:

'Nghề chơi cũng lắm công phu,

'Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.'

Nàng rằng: 'Mưa gió dập dìu,

'Liều thân thì cũng phải liều thế thôi!'

Mụ rằng: 'Ai cũng như ai,

'Người ta ai mất tiền hoài đến đây?

'Ở trong còn lắm điều hay,

'Nỗi đêm khép mở nỗi ngày riêng chung.

'Này con thuộc lấy làm lòng,

'Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.

'Chơi cho liễu chán hoa chê,

'Cho lăn cho lóc cho mê mẫn đời.

'Khi khóe hạnh khi nét ngài,

'Khi ngâm ngợi nguyệt khi cười cợt hoa.

'Đều là nghề nghiệp trong nhà,

'Đủ ngần ấy nết mới là người soi.81

'Gót đầu vâng dạy mấy lời,

Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng.

Những nghe nói đã thẹn thùng,

Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe!

Xót mình cửa các buồng khuê,

Vở lòng học lấy những nghề nghiệp hay!

Khéo là mặt dặn mày dày,

Kiếp người đã đến thế này thì thôi!

Thương thay thân phận lạc loài,

Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?

Lầu xanh mới rủ trướng đào,

Càng treo giá ngọc càng cao phẩm người

Biết ao bướm lả ong lơi,

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim82

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Tràng Khanh.83

Khi tỉnh rượu lúc tàn canh.

Giật mình mình lại thương mình xót xa.
 
 

Trong khi tiếp khách bận rộn thì Kiều không có thì giờ để đau khổ. Nhưng những khi tỉnh rượu giữa đêm khuya là những lúc Kiều đau khổ cực kỳ. 'Một mình mình lại thương mình xót xa'. Câu thơ có tới ba chữ mình mà không chữ nào dư.
 
 

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
 
 

Bốn chữ sao lặp đi lặp lại như tiếng than, như câu hỏi, là nỗi day dứt không đành trước nghịch lý trớ trêu của thân phận.
 
 
 

ĐÒI ĐOẠN XA GẦN
 
 

Mặc người mây Sở mưa Tần,

Những mình nào biết có xuân là gì.

Đòi phen gió tựa hoa kề,

Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
 
 

Cũng có những lúc rảnh rổi. Ngồi tựa cửa nghe gió, ngắm hoa, Kiều thấy tuyết rơi ngậm một nửa bức rèm trước cửa sổ hay trăng chiếu sáng bốn bề. Những lúc đó Kiều thấy gì?:
 
 

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
 
 

Cảnh đẹp. Nhưng khi tâm mình buồn thì không có cảnh nào là không chứa đựng trong lòng nó tính chất sầu đau của tâm lý. Thuần túy Duy Thức Học!
 
 

Đòi phen nét vẻ câu thơ.

Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
 
 

Cũng có những giờ phút giống như là an lạc: ngồi vẽ, đánh đàn dưới trăng, chơi cờ với khách. Đứng ngoài ngó vô thì giống như mình cũng là một người phong lưu, lịch sự. Nhưng mà:
 
 

Vui là vui gượng kẻo mà

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Thờ ơ gió trúc mưa mai,

Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài một thân.

Ôm lòng đòi đoạn xa gần,

Chẳng vò mà rối chẳng dần mà đau!

Nhớ ơn chín chữ cao sâu,

Một ngày một ngả bóng đâu tà tà.

Dặm nghìn nước thẳm non xa,

Nghĩ đâu thân phận con ra thế này.

Sân hòe đôi chút thơ ngây,

Trân cam84 ai kẻ đỡ thay việc mình?
 
 

Kiều nghĩ đến cha mẹ già. Ở xa, hai đấng sinh thành đâu biết thân phận con mình đã ra đến thế này! Hai em còn nhỏ ở nhà không biết có săn sóc được cha mẹ như mình mong muốn không?
 
 

Nhớ lời nguyện ước ba sinh,

Xa xôi ai có biết tình chăng ai?

Khi về hỏi liễu Chương Đài.85

Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay!

Tình sâu mong trả nghĩa dày,

Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
 
 

Tưởng tượng Kim Trọng về, nghe Kiều đi lấy chồng rồi thì buồn biết bao nhiêu mà kể! Không biết cuộc nhân duyên mà Thúy Kiều mong muốn tác hợp giữa người yêu và em gái có thành tựu được không?
 
 

Mối tình đòi đoạn vò tơ,

Giấc hương quan luống ngẩn ngơ canh dài.

Song sa vò võ phương trời

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.
 
 

Thơ rất hay! Thời gian đi qua, lặp lại. Những lúc chiều xuống là những lúc người ta nhớ nhà nhiều nhất.
 
 

Lần lần thỏ bạc ác vàng,

Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn.
 
 
 

SÁU CHỮ 'CHO'
 
 

Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho cho hại cho tàn cho cân!

Đã đày vào kiếp phong trần,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.
 
 

Bốn câu thơ thế đi rất mãnh liẹt. Có sáu chữ cho. Như đóng đinh vào gỗ, mỗi chữ cho chuyên chở sức mạnh của một lát búa, thể hiện sự phẫn uất của con người (và tác giả) trước số mệnh. Nếu tác giả không từng đau khổ thì không thể nào viết được bốn câu thơ này. Tác giả cũng đã từng bị sỉ nhục trong cuộc đời.

Cảm giác bị ô nhục không phải là cảm giác của riêng Thúy Kiều. Tất cả chúng ta trong đời thế nào cũng đã hoặc sẽ có lần cảm thấy bị sỉ nhục như là bị hãm hiếp (dầu con trai). Đây là một sự thật. Trong thơ có chữ hồng nhan, kỳ thực ai mà không phải là hồng nhan? Cuộc đời tàn nhẫn, bất nhân. Con gái, con trai gì một ngày nào đó cũng sẽ đi qua những lần cảm thấy mình bị sỉ nhục như sự sỉ nhục của nàng Kiều. Nếu quý vị là những người trẻ chưa từng bị sỉ nhục thì nên nhớ điều này. Xã hội sẽ đem tới kinh nghiệm đó cho quý vị. Hồi tôi đi làm công tác cứu người trên biển tôi cũng đã bị sỉ nhục. Xã hội làm cho mình nhục nhã trong khi mình đi làm những công việc có tính cách thanh cao. Tôi đã bị nhiều lần như thế chứ không phải chỉ một lần. Thân phận mình lúc đó giống như thân phận nàng Kiều. Xã hội đã được tổ chức thế nào mà tất cả chúng ta, sanh ra làm kiếp người ai cũng sẽ phải đi qua thân phận của nàng Kiều ít nhất là một lần. 'Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!'
 
 

Đã cho lấy chữ hồng nhan,

Làm cho cho hại cho tàn mới cân!

Đã đày vào kiếp phong trần,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
 
 

Đọc xong sáu chữ cho, tự nhiên trong tâm mình thấy có thoải mái. Vì mình đã hét lên sáu tiếng hét. Ghê gớm không thua gì sáu tiếng hét của thiền sư Lâm Tế. Bao nhiêu đau khổ, uất ức tản ra và tâm tình mình nhẹ đi.
 
 
 

MỘT TỈNH MƯỜI MÊ
 
 

Khách du bỗng có một người,

Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.

Vốn người huyện Tích châu Thường,

Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.

Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi,

Thiếp hồng tìm đến hương khuê gởi vào.
 
 

Trong thời gian tiếp khách, Kiều gặp một người đàn ông đem lòng say mê và cứu Kiều ra khỏi thanh lâu. Anh chàng tên là Thúc Kỳ Tâm, trước là học trò, bây giờ vừa học trò và là thương gia tập sự.
 
 

Trướng tô giáp mặt hoa đào,

Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa?

Hải đường mơn mởn cành tơ,

Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng!

Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,

Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng!
 
 

Anh chàng là một người có nhiều tiền. Cô nàng là một người rất có nhan sắc. Vì vậy:
 
 

Lạ gì thanh khí lẽ hằng,

Một dây một buộc ai giằng cho ra!

Sớm đào tối mận lân la,

Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.
 
 

Liên hệ giữa hai người ban đầu chỉ là liên hệ của những người chơi. Sau biết nhau, hiểu nhau thì đem lòng thương nhau. Trăng gió là vấn đề sinh lý. Đá vàng là có sự gắn bó, thương mến về tâm lý.
 
 

Dịp đâu may mắn lạ thường,

Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
 
 

Đáng lý cha đi vắng, Thúc Sinh ở lại phải lo chăm sóc cửa hàng. Nhưng anh chàng chỉ đi lầu xanh:
 
 

Sinh càng một tỉnh mười mê,

Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
 
 

Chất đam mê rất lớn. Khi học đạo tỉnh thức thì chúng ta đi về hướng 'mười tỉnh một mê'. Ở đây anh chàng lại đi về hướng 'mười mê - một tỉnh'!
 
 

Khi gió mát khi trăng sân,

Bầu tiên chuốc rượu câu thần nói thơ.

Khi hương sớm khi trà trưa,

Bàn vay diêm nước đường tơ họa đàn.

Miệt mài trong cuộc truy hoan,

Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.

Lạ cho cái sóng khuynh thành,

Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.

Thúc Sinh quen nết bốc rời,86

Trăm nghìn đổ một trận cười như không.

Mụ càng tô lục chuốc hồng,

Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê.

Dưới trăng quyên đã gọi hè,

Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông.
 
 

Hai câu tả cảnh mùa hè tứ rất hay và rất mới.
 
 

Buồng the phải buổi thong dong,

Thang lan87 rủ bức trướng hồng tẩm hoa.

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên.
 
 

Nhà Nho Nguyễn Du tả một thiếu phụ khỏa thân tắm. Nhà Nho này cũng ghê lắm chứ đâu phải chơi. Trong nguyên lục, tác giả chỉ tả cái đẹp của Kiều buổi tối ấy sau khi nàng vừa mới tắm ra, chứ không tả Kiều trong khi nàng tắm. Cụ Nguyễn Du lại tả Kiều trong khi nàng tắm. Bài thơ của Thúc Sinh làm ra để ca tụng sắc đẹp Kiều tuy có nói đến băng cơ tuyết thái (da băng vẻ tuyết) nhưng cũng chỉ ca tụng mỹ nhân đã mặc áo vào rồi, còn những câu thơ của cụ Nguyễn Du lại là để ta tụng mỹ nhân khi nàng khỏa thân. Truyện Kiều như vậy là erotic hơn nguyên lục! Đọc tới chỗ này tôi thấy tức cười vì cụ nhà Nho biết cô này thuộc về hàng buôn hương bán phấn mà lại tả 'rõ ràng trong ngọc trắng ngà'. Với một cô gái làm nghề mãi dâm thì thi sĩ không thể dùng những chữ này được. Hơn nữa tôi chắc chắn là cô ta có một cái sẹo ở bụng rất lớn mà cụ lại không nói tới. Cô đã tự tử gần chết thì cái sẹo đó phải rất lớn. Nếu cô đâm vào cổ tự tử thì cái sẹo nằm ở cổ, tại sao cụ quên mất cái vụ đó đi mà không tả? Tôi sẽ hỏi cụ như vậy. Có phải cụ giấu diếm một sự thật hay không? Vết thương trong tâm, cụ đã nói quá nhiều, mà cụ lại không nói đến những vết thương nơi thân. Vết thương do tự tử và những vết thương do những khách làng chơi đưa tới.
 
 

Sinh càng tỏ nét càng khen,

Ngụ tình tay thảo một thiên luật Đường.
 
 

Thúc Sinh làm thơ ca ngợi sắc đẹp của Kiều. Kiều viện cớ nhớ nhà không họa lại.
 
 

Nàng rằng: 'Vâng biết lòng chàng,

'Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.

'Hay hèn lẽ cũng nối điêu,

'Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang,

'Lòng còn gửi áng mây vàng,88

'Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.'
 
 

Thúc Sinh ngạc nhiên:
 
 

Rằng: 'Sao nói lạ lùng thay!

'Cành kia chẳng phải cội này mà ra?'
 
 

- 'Em không phải là con gái Tú Bà? Vậy tại sao lại gọi mẹ mẹ con con ngọt xớt như vậy?'
 
 

Nàng càng ủ dột thu ba,89

Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:

'Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.

'Chúa xuân rằng đã có nơi,

'Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi!'
 
 

- 'Anh đừng nói nhiều làm chi. Liên hệ của chúng ta là liên hệ phù phiếm của con bươm bướm và bông hoa tàn. Thời giờ của mình là ghời giờ để ăn chơi vì vậy đừng động tới những niềm đau sâu sắc trong lòng nhau.'
 
 

Sinh rằng: 'Từ thuở tương tri,

'Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.

'Trăm năm tính cuộc vuông tròn,

'Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.'
 
 

- 'Tôi muốn chuyện lâu dài chứ không phải chuyện liên hệ nhất thời.' Đây là những lời rất thành thật của Thúy Kiều:
 
 

Nàng rằng: 'Muôn đội ơn lòng,

'Chút e bên thú bên tòng dễ đâu.

'Bình khang nấn n á bấy lâu,

'Yêu hoa yêu được một mầu điểm trang.

'Rồi ra lạt phấn phai hương,

'Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
 
 

- 'Cảm ơn anh, nhưng mà anh không thực tế. Thứ nhất anh đã đến đây là vì hình thức hấp dẫn. Mai kia nhan sắc em tàn tạ thì biết anh có còn thương em nữa hay không?'
 
 

'Vá trong thềm quế cung trăng,

'Chú trương đành đã chị Hằng ở trong.

'Bấy lâu khắn khít dải đồng,

'Thêm người người cũng chia lòng riêng tây.

'Vẻ chi chút phận bèo mây,

'Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
 
 

- 'Hơn nữa anh đã có vợ ở nhà. Bây giờ có thêm một người nữa thì làm sao không có sự chia sẻ tình yêu. Đừng vì em, một cánh bèo, một đám mây trôi, mà làm thay đổi xáo trộn tình chồng vợ.'
 
 

'Trăm điều ngang ngửa vì tôi,

'Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.

'Như chàng có vững tay co,

'Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.

'Thế trong dù lớn hơn ngoài,

'Trước hàm sư tử gửi người đằng la.

'Cúi đầu luồn xuống mái nhà,

'Giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng.
 
 

- 'Sau này nếu trong nhà cơm không lành canh không ngọt, hai bên giận, đánh nhau và từ nhau thì ai chịu tội đó nếu không phải là em? Nếu chàng có uy lực thì mười phần cũng chỉ che chở cho em được vài phần thôi. Ngược lại, nếu vợ cả là sư tử Hà Đông thì tình trạng của vợ lẽ (đằng la) rất nguy hiểm. Em đang chịu cái khổ của lửa nồng (lầu xanh) nhưng chui vào hoàn cảnh đó để gặp cái khổ của giấm chua (ghen) thì lại càng tệ hại hơn. Nằm trong đối tượng của sự ghen tuông người ta khổ vô cùng.' Rất tội nghiệp, Thúy Kiều đã lớn lên trong đau khổ và đã nói ra những sự thật.
 
 

'Ở trên còn có nhà thung,

'Lượng trên trông xuống biết lòng có thương?

'Sá gì liễu ngõ hoa tường,

'Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh!

'Lại càng dơ dáng dại hình,

'Đành thân phận thiếp nghĩ danh giá chàng.
 
 

- 'Rồi còn ba anh nữa! Liệu ông có chấp nhận thân phận cây liễu mọc đầu ngõ, bông hoa nở bên tường của em không? Nếu ba anh đuổi em về lầu xanh thì đành thân phận em là vậy nhưng danh giá của anh cũng sẽ bị tan nát vì chuyện này.' Đọc ngang đây tôi phục Thúy Kiều lắm. Trải qua bao nhiêu tủi nhục ê chề nàng Kiều đã học được bài học của thực tế và đã nói hết ngọn ngành hơn thiệt cho Thúc Sinh nghe. Nhưng anh chàng không nghe. Kiều lập lại để kết luận:
 
 

'Thương sao cho vẹn thì thương,

'Tính sao cho trọn mọi đường thì vâng.'
 
 

- 'Anh là con trai. Nếu đã thương thì anh phải tính cho trọn và đã quyết định thì anh phải chịu trách nhiệm.' Buộc bằng một câu nói rạch ròi như vậy. Rất thông minh.
 
 

Sinh rằng: 'Hay nói dè chừng,

'Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?

'Đường xa chớ ngại Ngô Lào,

'Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.

'Đã gần chi có điều xa,

'Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều!'
 
 

Gan mà! Mê quá rồi! Lát nữa chúng ta sẽ biết có nên tin anh chàng hay không.
 
 

Cùng nhau căn vặn đến điều,

Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
 
 

- Lại thề nữa!
 
 

Nỉ non đêm ngắn tình dài,

Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương.
 

HOÀN LƯƠNG

Mượn điều trúc viện thừa lương,

Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.

Chiến hòa sắp sẵn hai bài,

Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.

Bắn tin đến mặt Tú Bà,

Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao!

Rõ ràng của dẫn tay trao,

Hoàn lương một kiếp thân vào cửa công.
 
 

Thúc Sinh lập mưu đón Thúy Kiều đi nghỉ mát ở vườn trúc rồi bắn tin về Tú Bà dọa kiện Tú Bà đã lừa mua con nhà lương thiện bắt đi làm đĩ (chiến) nếu Tú Bà không cho chuộc Kiều (hòa). Tú Bà phải chịu nhận tiền và ký giấy hoàn lương cho Kiều.
 
 

Công tư hai lẽ đều xong,

Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.

Một nhà sum họp trúc mai,

Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.

Hương càng đượm lửa càng nồng,

Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
 
 
 

ĐẤT BẰNG DẬY SÓNG
 
 

Nửa năm hơi tiếng vừa quen,

Sân ngô90 cành biếc đã chen lá vàng.

Dậu thu vừa nảy gió sương91

Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.92

Phong lôi nổi trận bời bời,

Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.

Quyết ngay biện bạch một bề,

Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
 
 

Thúc Ông về, thấy con trai đem một cô gái giang hồ về nhà ở thì nổi trận lôi đình. Thúc Ông không những ngại (nặng lòng e ấp) về danh giá nhà mình mà còn lo đối với nhà vợ cả của Thúc Sinh sẽ có chuyện lôi thôi. Ông bắt Kiều phải về lại lầu xanh.
 
 

Thấy lời nghiêm huấn rành rành,

Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu:

Rằng: 'Con biết tội đã nhiều,

'Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam.

'Trót vì tay đã nhúng chàm,

'Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
 
 

Có người còn đố chơi: Thúc Sinh làm nghề gì? Trả lời: làm thợ nhuộm. Vì nếu không thì nhúng tay vào chàm làm gì? Truyện Kiều đã được yêu mến và đi vào đời sống người dân dưới những hình thức đố Kiều, bói Kiều, lẫy Kiều... vân vân.
 
 

'Cùng nhau vả tiếng một ngày,

'Ôm cầm ai nở đứt dây cho đành.

'Lượng trên quyết chẳng thương tình,

'Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!'
 
 

Thúc Sinh nhất định chết chứ không chịu đuổi Kiều về lầu xanh.
 
 

Thấy lời sắt đá tri tri,

Sốt gan ông mới cáo quỳ cửa công.

Đất bằng nổi sóng đùng đùng,

Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.
 
 

Thấy con trai cứng đầu quá, Thúc ông đi thưa với chính quyền.
 
 

Cùng nhau theo gót sai nha,

Song song vào trước sân hoa lạy quỳ.
 
 
 

HIỂU NGHĨA CHỮ THƯƠNG
 
 

Trông lên mặt sắt đen sì,93

Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:

'Gã kia dại nết tơi bời,
 
 

Quan phủ mắng Thúc Sinh trước, nhưng chỉ mắng một câu thôi. Quay sang Thúy Kiều, ông la rất nhiều:
 
 

'Mà con người thế là người đong đưa!

'Tuồng chi hoa thải hương thừa,

'Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
 
 

Gọi người con trai là 'con đen' 'dại nết' và như vậy bao nhiêu lỗi ông mặt sắt đều đổ hết lên người con gái. Rõ ràng có sự thiên vị, không công bình. Mặt ông, thật ra, cũng không 'sắt' bao nhiêu.
 
 

'Suy trong tình trạng bên nguyên,

'Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.

'Phép công chiếu án luận vào,

'Có hai đường ấy muốn sao mặc mình:

'Một là cứ phép gia hình,

'Hai là lại cứ lầu xanh phó về!'
 
 

Kiều phải chọn một trong hai giải pháp: bị đánh, bị gông hoặc là trở lại lầu xanh. Kiều nhất quyết không trở về đời sống lầu xanh nữa:
 
 

Nàng rằng: 'Đã quyết một bề,

'Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!

'Đục trong thân cũng là thân,

'Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình.'
 
 

- 'Dầu đục dầu trong thì thân con người vẫn là thân con người, ai cũng biết đau như nhau. Con chọn hình phạt.'
 
 

Dạy rằng: 'Cứ phép gia hình!'

Ba cây94 chập lại một cành mẫu đơn.

Phận đành chi dám kêu oan,

Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.95

Một sân lầm cát96 đã đầy,

Gương lờ nước thúy mai gầy vóc sương.97
 
 

Với một người nhi nữ thì hình phạt kia quả thật là quá đáng! Nhưng cụ Nguyễn Du không nói thương Thúy Kiều mà lại nói thương Thúc Sinh:
 
 

Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,

Nẻo xa trông thấy lòng còn xót xa.
 
 

Trong khi mọi người nhìn vào đều thấy cái khổ bị trừng phạt của Thúy Kiều thì cụ lại nhìn thấy cái khổ của Thúc Sinh. Người thương của mình đang bị hình phạt thì mình rất đau khổ. Nhất là nỗi khổ đó lại do vì mình mà có! Đau còn hơn là chính mình bị gông cùm và đánh đập nữa!
 
 

Khóc rằng: 'Oan khốc vì ta,

'Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau.

'Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu,

'Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?'
 
 

Cạn lòng là suy nghĩ và tiếp xử với sự việc xảy ra trong một ngày một cách hời hợt, không biết quán chiếu sâu sắc. Vì vậy cho nên 'để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?' Lúc đau khổ xảy ra mới biết kiểm thảo, hối hận! Ngày xưa vì mê quá, cho nên anh chàng chỉ nói: 'Để anh lo hết ! Em đừng sợ.' Anh hùng mà sợ gì! Nhưng đến lúc này ta mới thấy anh chàng chẳng anh hùng gì cả.
 
 

Phủ đường nghe thoảng vào tai

Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.

Sụt sùi chàng lại thưa ngay,

Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:

'Nàng đà tính hết xa gần,

'Từ xưa nàng đã biết thân có rày!

'Tại tôi hứng lấy một tay,

'Để nàng cho đến nỗi này vì tôi!'
 
 

Ở đây chúng ta cũng thấy được nghĩa của chữ thương. Thương mà chỉ biết nghe tiếng gọi của đam mê, không biết nghe tiếng gọi của trí tuệ thì mình sẽ làm khổ và gây thương tích cho người mình thương.
 
 

Nghe lời nói cũng thương lời,

Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi,96

Rằng: 'như hẳn có thế thì,

'Trăng hoa song cũng thị phi biết điều!’
 
 

Đây là lần đầu tiên ông phủ mở lời khen Thúy Kiều. Định kiến của ông về người con gái xuất thân từ giới trăng hoa bắt đầu thay đổi.
 
 

Sinh rằng: 'Chút phận bọt bèo,

'Theo đòi và cũng ít nhiều bút nghiên.'
 
 

Được quan bắt đầu hiểu thì bên này chàng Thúc nức lòng, liền khoe: 'Dạ bẩm quan lớn. Em con tuy không có phước đức nhiều nhưng ngày xưa cũng đã được đi học. Khá giỏi văn chương." (Kiều giỏi lắm đó! Không phải thường đâu, bẩm quan lớn!) Bây giờ quan phủ đã bắt đầu có cảm tình với Kiều:
 
 

Cười rằng: 'Đã thế thì nên,

'Mộc già hãy thử một thiên trình nghề'.
 
 

Quan lớn chịu chơi: 'Hay lắm! Vậy thì bảo nó thử làm một bài thơ vịnh cái gông (một già) để ta xem thử tài học của nó đã tới trình độ nào (trình nghề)' Nghề ở đây là nghề văn chương. Trình kệ kiến giải cũng là trình nghề; những chuyển hóa mình đã đạt được sẽ xuất hiện trong bài kệ kiến giải.
 
 

Nàng vâng cất bút tay đề,

Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
 
 

Nguyên bản Phong Tình Lục có bài thơ Kiều làm như sau:
 
 

Ngã dĩ mộc vi cừu

Hỷ khuyên sáo trung đắc xuất đầu

Phương viên già cái toàn thân xũ

Hà tằng mi vũ tu

Tọa tĩnh khả ưu

Khả linh lệ ngân lưu

Bất đáo sam hòa tụ.

Tạ Hiền Hầu, giao nhân cường hạng

Tái bất hứa phóng ca hầu.
 
 

Nghĩa là:
 
 

'Ta với cây gỗ là kẻ thù

Mừng vì nỗi trong vòng khuyên tròn được chui đầu ra

Xấu vì nỗi vuông tròn che khắp thân thế

Mày mặt chưa từng bị hổ thẹn

Như người ngồi dưới giếng đáng lo.

Thương thay vết dòng nước mắt

không chảy tới vạt áo và ống tay áo.

Kính tạ Hiền Hầu, bắt người phải cứng cổ

không cho lại mở họng hát ra.
 
 

Quan xem thơ rất cảm kích:
 
 

Khen rằng: 'Giá đáng thịnh Đường.99

''Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!

'Thực là tài tử giai nhân,

'Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn!100
 
 

Hướng về cha của Thúc Sinh:
 
 

'Thôi đừng rước dữ cưu hờn,

'Làm chi lở nhịp cho đàn ngang cung,

'Đã đưa đến trước cửa công,

'Ngoài thì là lý song trong là tình,

'Dâu con trong đạo gia đình,

'Theo thì dẹp nỗi bất bình là xong!'
 
 

- 'Thôi ông hoan hỉ cho cả hai đứa!' Mặt sắt bây giờ không còn sắt đá nữa. Ông quan này là người có khả năng thưởng thức văn chương. Cái may của Thúy Kiều là chỗ đó. Biết làm thơ đôi khi cũng hay! Rồi ông quan chịu chơi hơn còn cho xe ngựa đưa cặp vợ chồng này về và giúp phương tiện tổ chức đám cưới, chính thức hóa cho họ nữa:
 
 

Kíp truyền sắm sửa lễ công,

Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.

Bày hàng cổ xúy101 xôn xao,

Song song đưa tới trướng đào sánh đôi.

Thương vì hạnh trọng vì tài,

Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.
 
 

Đó là thái độ mới của ông già chồng, chịu ảnh hưởng của thái độ quan huyện. Thấy được đức hạnh và tài năng của Thúy Kiều nên ông đã chấp nhận Kiều như con dâu của mình. Trước đó ông đâu thèm ngó tới! Ông có một ý niệm: 'đây là một cô gái từ thanh lâu tới'; và chỉ có ý niệm đó nên thôi. Kế đến là sợ thế lực của quan Lại Bộ bên nhà vợ cả Thúc Sinh. Hành động trên căn bản sợ và thành kiến vì vậy ông đã không có khả năng thấy được con người của Thúy Kiều. Nhờ quan phủ mà bây giờ Thúc Ông đã thấy được đức hạnh và tài ba của Thúy Kiều. Ông hết giận không còn những câu chửi rủa, mắc nhiếc và lên án nữa.
 
 

Huệ lan sực nức một nhà.

Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
 
 

Hạnh phúc bây giờ lớn hơn vì con người đã trải qua những đắng cay, đau khổ. Sau khi giận thì người ta lại thương nhiều hơn. Sau những khó khăn thì tình người trở nên đậm đà.
 
 
 

TRONG ẤM NGOÀI ÊM
 
 

Mảng vui rượu sớm cờ trưa

Đào đà phai thắm sen vừa nấy xanh.
 
 

Bị kiện tụng là hồi mùa thu. Qua mùa Đông, mùa Xuân và bây giờ bắt đầu mùa Hạ. Không biết trong thời gian Thúc Sinh có học hành hoặc buôn bán gì không? Chỉ nghe cờ với rượu. Kiều bây giờ đã giỏi, có kinh nghiệm trong cuộc đời rồi. Kiều biết lo xa chứ không phải chỉ ham chơi như anh chàng. Kiều khuyên Thúc Sinh về thăm nhà và nói tất cả sự thật cho vợ cả nghe để được chấp nhận đàng hoàng, không phải sống chui sống nhủi một cách không chính thức.
 
 

Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,

E tình mới bày tình riêng chung:

'Phận bồ đã vẹn chữ tòng,

'Đổi thay nhạn yến đã hòng đày niên.

'Tin nhà ngày một vắng tin,

'Mặn tình cát lũy lạt tình tao khang.102

'Nghĩ ra thật cũng nên dường,

'Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?

'Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,

'Ở vào khuôn phép nói ra mối giường,

'E thay những dạ phi thường

'Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!

'Mà ta suốt một năm ròng,

'Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
 
 

Những lời này chứng tỏ Kiều đã chín, đã có kinh nghiệm.
 
 

'Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,

'Hoặc là trong có làm sao chăng là?

'Xin chàng kíp liệu lại nhà,

'Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
 
 

Trong nguyên bản Phong Tình Lục có năm chữ: 'Vô nãi hữu trá hồ?' Hay là trong nhà (người ta đã biết và) có mưu mẹo gì rồi? 'Hoặc là trong có làm sao chăng là?'
 
 

Đêm ngày giữ mực giấu quanh,

'Rày lần mai lữa như hình chưa thông.'
 
 

Đi theo đường lối giấu, giấu và giấu. Đó là tình trạng bế tắc, không thông. Đối với các tâm hành trong ta cũng vậy, ta phải đưa tất cả ra dưới ánh sáng của chánh niệm thì mới mong tạo được tình trạng lưu thông, thông suốt và an toàn.
 
 

Nghe lời khuyên nhủ thong dong

Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
 
 

Lần này anh chàng nghe lời Kiều.
 
 

Rạng ra gởi đến xuân đường

Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.

Tiễn đưa một chén quan hà,103

Xuân đình thoắt đã đổi ra cao đình.104

Sông Tần một bãi xanh xanh,105

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan.106
 
 

THƯƠNG NHAU XIN NHỚ LỜI NHAU
 
 

Cầm tay dài ngắn thở than,

Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.

Nàng rằng: 'Non nước xa khơi,

'Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
 
 

Kiều đã có trí tuệ. Làm sao để cho bên trong ấm thì bên ngoài mới êm được.
 
 

'Dễ lòa yếm thắm trôn kim,

'Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng.
 
 

Khi vô ý thì cái yếm màu thắm đỏ cũng không thấy. Khi có ý thì tuy cái lỗ kim nhỏ ta vẫn thấy và xỏ chỉ qua được. Đừng khinh thường, nghĩ rằng người ta không biết. Những chuyện sờ sờ như vậy không biết làm sao được! Đừng bưng mắt bắt chim (yểm tự bồ tước), đừng tự dối mình!
 
 

'Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,

'Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.

'Dù cho sóng gió bất bình,

'Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
 
 

- 'Dầu khó khăn, sóng gió thế nào đi nữa thì chị là lớn, em là nhỏ. Danh phận đâu ra đó.'
 
 

'Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,

'Lại mang những việc tày trời đến sau.
 
 

Thúy Kiều như một nhà tiên tri, biết trước những gì sẽ xảy ra và nói rõ cho Thúc Sinh những điều cần phải làm. Nhưng Thúc Sinh vẫn không làm. Anh chàng không chuyển hóa gì cả.
 
 

'Thương nhau xin nhớ lời nhau,

'Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.

'Chén đưa nhớ bữa hôm nay,

'Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!'
 
 

Rất cảm động: 'Thương nhau xin nhớ lời nhau' Sáu chữ thôi mà rất hay. Nếu quả thực mình thương thì mình phải nhớ, phải hiểu được lời người kia nói. Bằng không thì mình sẽ trở thành một Thúc sinh, đem lại đau khổ cho chính mình và cho người kia. Thương nhau xin nhớ lời nhau. Nếu mình lạy Bụt, kính Bụt, thương Bụt thì cách hay nhất để biểu hiện tình thương của mình là nhớ, hiểu và làm theo lời Bụt. Liên hệ giữa bằng hữu và thầy trò cũng vậy. Phải nhớ lời nhau.
 
 

Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
 
 

Hình ảnh rất đẹp! Chia bào là buông vạt áo ra. 'Thôi thôi buông áo em ra, Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa.' Ở đây là: 'Thôi thôi buông áo anh ra, Để anh thăm vợ kẻo mà vợ la.'
 
 

Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.
 
 

Thơ lục bát mà làm như vậy là tài tình!

Câu 'Vầng trăng ai xẻ làm đôi' có liên hệ đến hai câu thơ chữ Hán và một giai thoại thi ca. Hai câu thơ đó là:
 
 

Thùy bã kim bôi thân lưỡng đoạn,

Bán trầm thủy để bán phù không
 
 

(Ai đem cái chén vàng chẻ làm hai mảnh? Một mảnh chìm dưới đáy nước, một mảnh nổi lơ lửng trong hư không.)

Một hôm thi sĩ Trương Kế ngồi làm thơ trong thuyền trên sông gần thành Cô Tô. Làm được hai câu thì bí:
 
 

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,

Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
 
 

(Trăng lặn, có tiếng quạ kêu, sương rơi đầy trời; Những cây phong ở bờ sông, đèn của người đánh cá ban đêm; Trước cảnh đó lòng phát sinh một mối hoài cảm, chạnh buồn (đối sầu miên).
 
 

Lúc đó trên chùa Hàn Sơn (Hàn Sơn và Thập Đắc là một cặp thi sĩ Phật tử rất nổi tiếng ngày xưa) ở thành phố Cô Tô, thầy trụ trì sau giờ thiền tọa, thấy trăng đẹp thầy cũng làm thơ. Làm được hai câu thơ thì thầy cũng bí:
 
 

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung

Bán tợ ngân câu bán tợ cung
 
 

(Đầu canh ba canh tư trăng mơ hồ; Nửa giống cái liềm bằng bạc, nửa giống cái vòng cung.)
 
 

Làm không xong bài thơ, thầy đi bách bộ. Chú tiểu thông minh và tài ba đã làm giúp thầy hai câu sau cho tròn bài thơ.
 
 

Thùy bã kim bôi phân lưỡng đoạn

Bán trầm thủy để bán phù không?
 
 

Hai câu dịch là:
 
 

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in dưới nước nửa cài trên không.
 
 

Thầy trụ trì nói: 'Hay quá! Hay hơn hai câu của thầy nữa!' Hai thầy trò quá vui: 'Để ăn mừng bài thơ của mình, thôi có lầu chuông mới xây xong mình hãy lên thỉnh đại hồng chung.' Thường người ta chỉ thỉnh chuông lúc 4 giờ rưỡi sáng (công phu khuya.) Đây là đúng nửa đêm mà lại đi thỉnh chuông! Cặp thầy trò này hình như cũng ham chơi lắm! Lúc ấy thi sĩ Trương Kế đang ngủ gục dưới thuyền nghe chuông giật mình thức dậy. Tiếng chuông làm thức dậy trong ông một ý tưởng và ông làm tiếp bài thơ:
 
 

Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
 
 

Thi sĩ Tản Đà dịch cả bài:
 
 

Trăng tà tiếng quạ kêu sương

Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
 
 

Hai thầy trò kia bây giờ không biết ở đâu? Nhìn cho kỹ có thể mình cũng còn thấy họ đâu đây.
 
 
 

LỬA TÂM CÀNG DẬP CÀNG NỒNG
 
 

Nói về tâm trạng người vợ cả ở nhà:
 
 

Kể chi những nỗi dọc đường,

Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà.

Vốn dòng họ Hoạn danh gia,

Con quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư.

Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa,107

Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.

Ở ăn thì nết cũng hay,

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
 
 

Đó là gia thế và tính nết của Hoạn Thư. Ăn ở thì cũng cũng được nết. Khi nói lời buộc tội thì lý luận rất giỏi.
 
 

Từ nghe vườn mới thêm hoa,

Miệng người đã lắm tin nhà thì không.

Lửa tâm càng dập càng nồng,

Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa:
 
 

Giận, cố nén xuống. Nén chừng nào thì sức mạnh của cái giận càng lớn lên chừng đó.
 
 

'Ví bằng thú thật cùng ta,

'Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.

'Dại chi chẳng giữ lấy nền,

'Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
 
 

Rõ ràng Kiều đã tiên đoán đúng.
 
 

'Lại còn bưng bít dấu quanh,

'Làm chi những thói trẻ ranh nực cười:

'Tính rằng cách mặt khuất lời,

'Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!

'Lo gì việc ấy mà lo.

'Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
 
 

Nộ rồi phẫn. Phẫn rồi hận. Móng tâm trả thù. Những từ Hoạn Thư dùng (trong suy nghĩ) như 'trẻ ranh', 'ta', 'kiến trong miệng chén' cũng đang đóng góp phần tưới tẩm những tâm hành kiêu mạn, khinh lờn, dùng quyền thế ép người của cô. Ngôn ngữ hàng ngày ta sử dụng là khúc đàn ta tấu lên cho cuộc đời. Hãy chọn từ mà nói, cân nhắc từng chữ để tâm ta ngày càng đi gần với chánh pháp, có thêm chất liệu của trí tuệ và từ bi. Buông lung trong lời nói và suy tư của mình chúng ta sẽ có thể ngày một đi sâu vào con đường của khổ đau và cô độc.
 
 

'Làm cho nhìn chẳng được nhau,

'Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên!

'Làm cho trông thấy nhãn tiền,

'Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.'
 
 

Ghê quá! Lặp lại mấy lần mà chữ làm cho! Bản án của Kiều đã được tuyên bố bởi công tố viên Hoạn Thư.
 
 

Nỗi lòng kín chẳng ai hay,

Ngoài tai để mặt gió bay mái ngoài.
 
 

Thâm lắm!
 
 

Tuần sau bỗng thấy hai người,

Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.

Tiểu thư nổi giận đùng đùng:

'Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!

'Chồng tao chẳng phải như ai,

'Điều này hẳn miệng những người thị phi!'

Vội vàng xuống lệnh ra uy,

Đứa thì vả miệng đứa thì bẽ răng.

Trong ngoài kín mít như bưng,

Nào ai còn dám nói năng một lời!

Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,

Ra vào một mực nói cười như không.
 
 

Đoạn văn này nói rất rõ về tính khí và con người của Hoạn Thư. Một con người ghen đến mức tột độ. Ra vào cười nói rất thong dong nhưng trong lòng đầy chất độc của ghen và giận.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
23 Tháng Bảy 2015(Xem: 4808)
Thời Đức Phật tại thế ở nước Xá Vệ, có một huyện nhân dân đều quy Tam bảo, phụng trì năm giới và thực hành mười thiện nghiệp của Phật dạy. Khắp huyện không bao giờ sát sanh, người uống rượu nấu rượu cũng không có.
22 Tháng Hai 2015(Xem: 8354)
Một ngày kia, khi Đức Phật ngụ tại tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana), một số Tỳ Kheo hỏi ngài là có lợi ích gì không, khi giết dê, cừu, và những sinh vật khác để cúng giỗ người thân đã qua đời.
19 Tháng Mười 2014(Xem: 12834)
Do duyên: Trước năm 1975, có vị giáo sư người Thiên chúa giáo, khi đọc truyện Thái tử Tu-đại-noa bố thí vợ con, vị ấy đã lên án khá gay gắt trong một bài viết, nói rằng, hành động bố thí vợ con là quá đáng, là không có nhân tính (tôi nhớ có thể nhầm, ngại không đúng nguyên văn). Vừa rồi, độc giả Thái Kim Du, có lẽ là một cư sĩ, trong một comment dưới bài viết của tôi trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen, có nội dung sau: ....