Một Niệm Buông Lung

25 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 3894)


CON ĐƯỜNG VÔ TẬN

Huỳnh Trung Chánh


Một Niệm Buông Lung 

Thím Phan hân hoan mở toang hai cánh cửa bước vào phòng chứa hàng trăm bộ y phục móc san sát nhau, say sưa ngắm nhìn từng bộ không bao giờ thấy chán. Thím ngắm nghía cho niềm vui sướng được gia tăng, chớ thật ra, dẫu nhắm mắt lại chẳng những thím vẫn hình dung rõ ràng vị trí từng món, mà còn có thể mô tả vanh vách màu sắc, kiểu cách, hiệu brand name nào, giá cả ra sao nữa! Đối với thím, chưng diện mua sắm là một "nghệ thuật", và thím rất tự hào về tài nghệ siêu đẳng của mình. Người nắm vững được nghệ thuật mua sắm, ngoài khả năng tài chánh, còn phải có óc thẩm mỹ để phân biệt những đường nét sắc sảo, kiểu cách trang nhã, màu sắc tươi mát, hòa hợp đúng điệu với vóc dáng của mình, mặt khác, lại cần có khả năng hiểu biết phẩm chất từng tư liệu sản xuất, sành sỏi ngọn ngành từng nhản hiệu tiếng tăm, "đánh hơi" chính xác chuyển hướng của thời trang, và sau cùng lại phải chịu khó lục lọi khắp các cửa hàng, thì mới mong khám phá được món vừa ý.

Thím ngần ngừ trước bộ "lễ phục hải quân" trắng, viền xanh, nút màu vàng to, đượm nét thanh lịch và uy nghi. Nhìn bộ y phục nầy cơn giận ngày nào bỗng hâm nóng trở lại. Thím giận là giận cô bán hàng kỳ thị kém lịch sự, đáng lẽ thím quăng trả rồi hầm hầm bỏ đi thì mới phải, nhưng tiếc công so đo lựa chọn thím đành bấm bụng trả tiền mà nỗi bực tức cứ đeo đẳng mãi. Thím chợt nhớ bộ nầy đã mặc dự tiệc mừng thượng thọ của một người đồng hương mấy tháng trước, e có kẻ thấy rồi thì nguy to, nên thím đưa mắt tìm cái khác. Thím thoạt nghĩ đến chiếc váy ngắn (mini jupe) đỏ, đơn giản mà trẻ trung. Hôm mang chiếc váy nầy về nhà, thím bị cái "ông chồng cổ lỗ sĩ" trêu ghẹo là "củn cởn quá", khiến thím đổ quạu.

Sau đó, dù chú đã nỉ non giã lã, mà giờ nầy nhớ lại, nỗi hờn giận vẫn còn vương vấn trong lòng. Cuối cùng, thím chú ý đến bộ áo đầm kín cổ, dài phết gót màu rượu chát, vừa quí phái, vừa xinh xắn. Rồi thím lại ngần ngừ trước chiếc "xường xám" màu nước biển, với cành hoa cẩm chướng thêu tay khéo léo, mà thím đã may mắn khám phá hai hôm trước tại một cửa tiệm chuyên bán hàng sản xuất tại lục địa. Thím đang săm soi ngắm nghía, chợt lanh mắt thấy con hai đuôi lắp ló, thím phủi xuống thảm, rồi chà xác nó tan nát. Dù vậy, cơn giận vẫn chưa nguôi, thím dặn lòng phải mua thêm long não, và nhớ xịt thuốc tiêu diệt hết giống phá hoại áo quần nầy mới được. Đắn đo mãi vẫn phân vân trước hai bộ y phục xinh đẹp, thìm bèn cầm cả hai bước ra, ỏn ẻn hỏi chồng:

- Anh ơi! em mặc áo nào hợp hả anh?

Chú Phan than thầm mụ vợ già mà ngỡ vẫn còn trẻ trung, thịt chảy xệ ra mà đòi mặc xường xám bó chật thiệt chẳng ra thể thống gì. Tuy vậy, nếu nói thật thì mất lòng vợ nên chú đành gật gù lên tiếng.

- Ơ! áo nào em mặc cũng đẹp cả, "mỗi cái một vẻ, mười phân vẹn mười" mà. Ơ! độ rày trời trở lạnh, em nhớ mang áo ấm kẻo bệnh thì nguy!

Nghe chồng nhắc trời lạnh, thím đành mặc áo đầm kín cổ, mà vẫn còn tiếc cái xường xám, nên lầm bầm:

- Trời lạnh lẽo! chưng diện chẳng thoải mái tí nào!

Vợ chồng Phan chuẩn bị dự tiệc tất niên tại nhà họ Tô, một trong hai người bạn thiết, đã kết giao với chàng hơn mười mấy năm trời, từ lúc họ vừa đặt chân đến xứ Hoa Kỳ, sau khi vượt thoát khỏi Hoa lục trong cơn quốc nạn. Người Hoa sinh sống tại vùng Cựu Kim Sơn tuy đông đảo, nhưng tìm được người đồng hương cùng nói thổ ngữ Tiều Châu, từng là viên chức của chế độ Dân Quốc, lại cùng đam mê cờ tướng... là một điều hiếm có. Vì vậy, tuy chẳng hề lập thệ kết nghĩa anh em, mà tình nghĩa bằng hữu của bộ ba "tướng, sĩ, tượng": Tô, Triệu, và Phan, rất ư là thâm trọng. Tháng nào họ cũng hợp mặt uống trà, đánh cờ và đàm đạo. Hàng năm lại có tiệc tất niên để có dịp nhắc nhở về mảnh đất chôn nhau cắt rún ở bên kia bờ Thái Bình Dương. Hợp mặt thì có dịp đấu hót vui vẻ mà lại có lý do chánh đáng chưng diện, nên thím Phan trang điểm cực kỳ cẩn thận, chú hối thúc mãi, thím mới chịu kết thúc màn "sắm tuồng" để lên đường.

Chiếc xe BMW mới toanh lăn bánh êm ru, thím Phan ngã người lún sâu vào ghế nệm da lim dim thích thú. Thím giựt mình nhỏm dậy khi thấy con chó lông xù của người hàng xóm phóng uế sân trước nhà thím. Thím lầm thầm rủa: "con chó bẩn thỉu ăn hại nầy sao không bị xe mười bánh cán chết cho người ta nhờ!". Giận chó ghét chủ, cái mặt mâm xấu xí của mụ hàng xóm Hải Nam chờn vờn hiện ra trong tâm khảm của thím. Thế rồi, bao nhiêu chuyện khó ưa của mụ ta cứ thế mà tuôn tràn ra, nó chỉ vụt biến mất khi thím giật nẩy mình chợt thấy một kẻ bụi đời băng ngang đường bừa bãi, thím hốt hoảng la: "Thắng! thắng!".

Thím lầm bầm: "Sao lại có cái hạng người gì biếng nhác, chẳng chịu làm lụng chi cả! chỉ có nước ăn bám vào xã hội, thảo nào thuế nước nầy chẳng cao?". Quả tim vẫn còn đập thình thịch, thím lại điếng người thấy chiếc xe thể thao lách ẩu, cắt ngang xe chú, khiến chú phải thắng gắp mới tránh tai nạn. Thím nổi giận xúi chồng: "Anh bóp còi mắng nó đi anh!". Phan cười hì hì rồi bỏ qua. Sống ở thành phố Cựu Kim Sơn đường hẹp xe đông nầy, Phan đã quen với cảnh thiên hạ lái xe cẩu thả, chèn ép, giựt dọc rồi, nên chẳng nghĩ đến việc bóp còi chửi thề làm gì. Khi đi ngang khu bệnh viện San Francisco General Hospital, Phan chợt xúc động nhớ đến một người bạn đang thoi thóp chờ chết trong đó, chàng chép miệng thở than:

- "Bạn bè lứa tuổi mình, theo năm tháng mà rơi rụng lần lần... Năm trước lão Vĩnh Phát bỏ mạng, năm nay thì chú Trần quản lý cũng sắp đi đoong rồi"!

Trần Thủ cũng thuộc bang Tiều Châu, làm quản lý tiệm thực phẩm đồ biển, chăm chỉ làm việc cho đến khi té xỉu, chở vào bệnh viện thì mới khám phá ra bệnh ung thư cổ họng và gan đến thời kỳ trầm trọng. Tuần trước vợ chồng thím ghé thăm, bệnh nhân đã nằm liệt giường, không nói năng ăn uống chi được. Bác sĩ đã phải khoét một lỗ dưới cổ, đúc ống cao su thẳng vào bao tử để tiếp tế thức ăn. Hồi tưởng đến hoàn cảnh thảm thương của con bệnh, thím bùi ngùi phụ họa:

- Tội nghiệp chú Trần quá! anh há! Sống như vậy thà chết còn hơn! Ơ! anh à! chú Trần tuy làm quản lý tiệm hải sản, nhưng tự tay chú đâu có sát sanh, mà tại sao chú phải chịu quả báo ung thư cổ ghê gớm như vậy?

- Ơ! theo một vài nhà nghiên cứu thì dân Tiều Châu mình, đời đời có thói quen ăn cháo thật nóng nên tỉ lệ ung thư cổ tương đối cao hơn giống dân khác! Đó lối giải thích khoa học, còn theo tin tưởng của tổ tiên ta, thì bệnh tật phát sinh từ những nhân duyên trong hiện kiếp hoặc tàng trữ từ kiếp trước, nhưng vấn đề tiền kiếp nhân quả thì ngoại trừ những bậc cao tăng đắc được túc mạng thông, có mấy ai tường tận. Ôi! mình làm sao dám lạm bàn chuyện nầy hở em!

Chú lặng yên một lúc, rồi như chợt nhớ ra điều gì, chú lại vui vẻ lên tiếng:

- A! có chuyện nầy lạ nè! Tại xứ Hoa Kỳ, có một người tên Edgar Cayce, theo đạo công giáo nhưng lại tin tiền kiếp và nhân quả. Không biết kiếp trước ông tu hành như thế nào, mà kiếp nầy ông ta có thể định tâm thấy kiếp trước của thân chủ, tìm ra nguyên nhân để trị bịnh. Ông truy tiền kiếp của vài người bị bệnh béo phì thấy trong kiếp trước họ lâm vào hoàn cảnh đói khát, suốt ngày tơ tưởng ước mơ chuyện ăn uống, nên kiếp nầy họ cứ thêm ăn, ăn không ngừng rồi sanh bệnh. Theo Ông ta thì người kiếp trước có những liên hệ mật thiết với thực phẩm sẽ quây quần với thực phẩm, họ cảm thấy hợp với ngành nghề thực phẩm: họ buôn bán, dự trữ, nấu nướng và có nhiều trường hợp họ thích ăn, ăn thật nhiều rồi sanh ra bệnh béo phì... Theo thuyết nầy, thì mình chỉ có thể suy luận rằng chú Trần kiếp trước đã có những liên hệ sâu xa với hải sản, nên kiếp nầy chú mới làm quản lý tiệm hải sản như vậy...

- Thuyết nầy cũng có lý a! Thảo nào quí thầy khuyên người tu pháp môn tịnh độ thì phải tha thiết, một lòng hướng về cõi tịnh độ thì mới có thể vãng sanh được!

- Khâm phục! khâm phục! bà xã tui tinh thông giáo lý quá chừng chừng hà! Vậy theo quan điểm đó mà lập luận thì ai tha thiết quyến luyến với vải vóc lụa là thì họ cũng tạo ra cái nhân duyên để kiếp sau quây quần với y phục phải không em? Như em, kiếp sau em dám làm chủ nhân ông một hãng xưởng sản xuất y phục nổi tiếng khắp thế giới chớ chẳng phải chơi đâu?

Thím nghe chồng tán hươu vượn mát lỗ nhĩ, cười hì hì đáp:

- Không cần lớn lắm đâu! chỉ được cỡ như Liz Clairebone, Ellentracy... là chưng diện cũng đã đời rồi...

- Ậy! đấy là mình lạc quan mơ mộng nói chơi thôi! Chớ phân tích kỹ thì tuy cùng có những liên hệ mật thiết với vải vóc mà mỗi người lại có những nghiệp duyên riêng. Kẻ đại phước có thể làm chủ nhân, phước kém lần lần thì làm quản lý, thợ may, người bán hàng..., còn kẻ bạc ác thì cũng có thể gần gũi với vải vóc dưới dạng một con hai đuôi, con dán..., phải không em?

Lời nói bông đùa của chồng bất ngờ khiến thím hồi tưởng lại giây phút thím giận dữ tàn sát con hai đuôi chui rúc trong bộ xường xám mà chột dạ! Thím nghĩ con hai đuôi có thể là thân tương lai của thím lắm, nếu như thím cứ tiếp tục đam mê áo quần và không biết vun bồi phước đức. Suy tư nầy ám ảnh thím mãi, khiến thím cứ quanh quẩn nhớ nghĩ cặn kẽ từng hành vi tư tưởng của mình từ khi bước vào phòng y phục cho đến khi nổi giận thằng trẻ tuổi lái xe thể thao hung bạo. Càng quán sát kỹ, thím càng ngạc nhiên thấy tâm ý của thím lăng xăng như khỉ vượn, vọng tưởng "thương ghét giận hờn" cứ liên tục nối tiếp nhau không ngừng nghỉ.

Thím Phan vốn là một Phật tử thuần thành, quí chùa mến đạo, thím tham gia tọa thiền, rồi lại qui ngưỡng pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ. Thím yên chí rằng mình có căn tu, tâm sẵn thanh tịnh, nên dù chọn pháp môn nào thím cũng tin chắc mình sẽ đạt được thành quả tốt đẹp. Bây giờ thím mới giựt mình nghiệm rõ rằng, dù tọa thiền hay niệm Phật, mà tâm thím loạn động như bão biển như thế nầy thì có ích lợi chi đâu! huống chi, tuy thím tự nhủ mình tha thiết nguyện sinh về cõi tịnh độ, nhưng thật tâm thím chỉ lẩn quẩn thương ghét cõi ta bà: thím quyến luyến chồng con, đắm nhiễm nhà cửa xe cộ, đam mê quần áo, son phấn, và nồng nhiệt bon chen vui sống phủ phê ở chốn văn minh phù phiếm nầy... Thì ra, tuy thím niệm Phật ngày đêm mà tâm cứ "loạn cào cào", còn ái dục thì dính mắc sâu đậm như dán keo "super glue", không buông bỏ được chút nào cả. Chư cổ đức đã răn dạy rất rõ: "Ái bất trọng bất sanh ta bà. Niệm bất tục bất sanh tịnh độ". Thím làm sao vãng sanh tịnh độ nếu vẫn tiếp tục lối tu tập hời hợt hình thức như cũ. Khám phá được khuyết điểm của mình, thím nguyện phen nầy phải thường quán sát tâm mình để vọng niệm giảm dần, thím phải thực sự buông bỏ những thứ cám dỗ của cõi ta bà hầu có thể dốc lòng tha thiết niệm Phật cho đến khi được nhất tâm bất loạn.

Mụ vợ mãi chìm đắm trong cơn suy tư không quấy rầy càng hay, chú Phan thoải mái lái xe bon bon qua cầu Golden Gate, đến thành phố Belvedere, đậu hẳn xe tại nhà bạn, rồi mới ôn tồn nhắc nhở:

- Tới nhà anh Tô rồi em!

Thím Phan bừng tỉnh, mở cửa xe bước ra ngoài, thì xe họ Triệu cũng vừa trờ tới, nên thím dừng lại chờ bạn, tíu tít chào hỏi.

Thím Triệu ngắm nghía thím, đoạn trầm trồ:

- Chời! bộ áo đầm sang trọng quá mức! Xem chị trẻ hẳn ra!

Thím Phan khoái chí cười hỉ hả, nhưng vẫn ra giọng khiêm tốn đáp:

- Ơ! cũng thường thôi chị ạ! 

Đoạn thím mới "bỏ nhỏ":

- Em mua nó ở Fifth Saks Avenue á! chỉ có hai trăm năm mươi sáu đồng hà chị!

Thật ra, thím mua chiếc áo đầm nầy với giá "sale" năm mươi sáu đồng tại một "out-let" chuyên bán sản phẩm có tì vết của các hiệu nổi tiếng. Tì vết mình mua mình biết chớ mấy ai thấy được nên "tội gì" thím không nổ cho sướng miệng. Thím chiếu cặp mắt "nhà nghề" quan sát y phục bạn, biết rõ bộ nầy bán tại tiệm Ross chỉ có ba mươi tám đồng, nên mống niệm chút khinh khỉnh trong lòng. Thím lại nhận thấy bạn đã lớn tuổi mà mặc áo đầm bông lòe loẹt, củn cởn, lòi cặp giò ốm nhom đen đủi, nên chỉ phô bày ra nét quê mùa chớ chẳng "sexy" hấp dẫn gì cả. Tuy vậy, thím cũng giả vờ thích thú rồi khen đáp lễ:

- Trang phục của chị trẻ trung xinh xắn làm sao á! chị lựa khéo lắm! đẹp lắm!

Rồi thím thì thầm với bạn mẩu chuyện "cấm bọn đàn ông nghe":

- Chị biết không? Ở tiệm Đại Đồng, hàng lục địa mới về! đủ loại đủ kiểu vừa đẹp vừa rẻ! Em mới "tảo thanh" cách nay hai ngày, chọn được cái xường xám thêu khéo không thể tả! chị nên đi lựa nhanh kẻo trễ!... 

Thím Triệu thích chí gật đầu lia lịa, nhưng chưa kịp bàn bạc gì thêm thì gia chủ đã vồn vã bước ra đón khách. Triệu và Phan thân mật xáp vào ngồi quây quần với Nghĩa và Danh, hai người em trai của họ Tô. Họ vừa lai rai lon bia, vừa theo dõi trận đấu bóng bầu dục hào hứng trong truyền hình. Hai người đàn bà thì tự nhiên bước thẳng vào bếp, tay bắt mặt mừng với nữ gia chủ và hai cô em dâu, rồi hội nhập ngay vào không khí ồn ào vui vẻ như cái chợ ở đây. Người ta nói chỉ cần có ba người đàn bà là đủ để họp chợ, huống chi ở đây có đến năm bà. Họ tung tăng đấu hót đủ mọi đề tài, từ chuyện tình ái lăng nhăng của bàn dân thiên hạ, chuyện vàng bạc hột xoàn, chuyện xe hơi nhà lầu, họ chuyển sang đề tài ăn uống, rồi đến nghệ thuật nấu nướng. Ai cũng muốn chứng minh mình là tay biết nhiều, sành sõi đủ mọi thứ, thành thử họ cứ tranh nhau bàn cãi sôi nổi, dường như, nếu được đấu hót suốt cả tuần lễ, chắc họ cũng chưa cạn hết ý. Điều đáng phàn nàn là đã mấy phen thím Phan ấp a ấp úng gợi đề tài trang điểm ra, nhưng bọn họ cứ vô tình mải mê thảo luận chuyện khác, thành thử thím chẳng có cơ hội thuận tiện nào để khoe bộ y phục sang trọng và "nổ" cho sướng miệng cả!

Cơm nước sẵn sàng. Chủ khách vừa cụng ly mừng nhập tiệc, bỗng beeper của chú Triệu kêu tít tít. Nhìn hàng số hiện trên beeper, Triệu băn khoăn nói: "Có chuyện gì gấp mà mấy đứa nhỏ gọi kìa!". Chú vội rời bàn ăn, gọi điện thoại đến người nhắn, rồi mặt mày chú bỗng xanh dờn, chú run rẩy thốt từng câu đứt khoảng: "Trời! Trời!... thằng Xến hả!... bệnh viện nào? đường Clarendon phải không...?". Cả đám lo lắng nhìn chú Triệu, trong khi thím quính quíu nắm tay chồng hỏi:

- Chuyện gì vậy anh?

Chú phều phào: 

- Con báo tin thằng Xến bị tai nạn lưu thông, mạng sống rất nguy ngập, hiện đang chở vào UCSF Medical Center cứu cấp...

Nghe tin đứa em út của mình lâm nạn, thím Triệu hét lên hai tiếng "Trời ơi!", rồi ngất xỉu.

Cả bọn xúm lại xoa đầu, giựt tóc mai cho thím tỉnh dậy. Vừa mở mắt, thím đã bù lu bù loa khóc lóc hỏi chồng:

- Anh ơi! anh nhắm thằng Xến qua khỏi không anh!

Chú Triệu đã lấy lại bình tĩnh thường nhật, lên tiếng an ủi vợ:

- Chắc không đến nỗi nào em à! Em đừng lo lắm! Anh phải đến bệnh viện ngay mới được. Em mệt, em ở lại đây với các bạn nhé!

- Không! em nóng ruột lắm! em nhất định đi theo anh hà!

Chú Phan lên tiếng:

- Để tôi lái xe đưa anh chị đi nhé!

- Cám ơn Phan! Tôi đủ bình tĩnh lái xe! anh phải ở lại thù tạc với anh chị Tô, bỏ đi hết sao cho tiện!

- Chị còn yếu lắm! anh nên ngồi cạnh săn sóc chị! Tôi đưa anh chị đi, rồi trở lại cũng dư kịp mà!, Phan nài ép bạn.

Phan đưa vợ chồng Triệu ra đi, bữa tiệc tất niên chỉ còn lại bảy người gượng gạo tiếp tục trong bầu không khí nặng nề. Cũng thức ăn đó, lúc nảy nó thơm tho hấp dẫn làm sao, mà giờ đây thím Phan cảm thấy nhạt nhẽo như nhai miếng cao su. Đầu óc thím quay cuồng bởi những hình ảnh của thằng Xến từ ngày nó còn là thằng bé con kháu khỉnh, thím vẫn thường nựng nịu cho quà bánh, cho đến ngày nó trở thành một thanh niên cường tráng, tốt nghiệp bằng tiến sĩ kỹ sư, tương lai sự nghiệp đầy hoa mộng. Ràng ràng mới tuần trước đây, thím còn bắt gặp nó đang hân hoan choàng eo ếch tình nhân, thả rểu ở khu bến tàu rất ư là hạnh phúc. Thế mà giờ nầy, con người tràn đầy nhựa sống đó chỉ còn là một cái xác máu me nhầy nhụa... thê thảm quá! Nước mắt ràn rụa, thím Phan buông đũa thở dài:

- Tội nghiệp thằng Xến quá!

- Chết như nó kể ra quá ghê rợn, chớ suy cho cùng chúng mình có ai thoát khỏi giai đoạn lìa trần đâu?, Nghĩa bùi ngùi phụ họa.

Thím Tô tán đồng:

- Theo tôi! chết nhanh chóng dù sao cũng dễ chịu hơn tình trạng nhức nhối kéo dài, nửa tỉnh nửa mê, rên la kêu gào, sống chẳng ra con người nữa, mà chết cũng không xong... Ngay như khi đã già cả lẫn lộn, thân xác còm cõi tiều tụy, mà cứ sống hoài sống mãi cũng là một cực hình. Bởi vậy, sau lần viếng bệnh viện dưỡng lão chứng kiến cảnh tuổi già khổ nhục, tôi chỉ còn nghĩ đến chuyện tu hành chớ chẳng còn tha thiết điều gì trên cõi đời nầy nữa!

- Chị em mình đứng tuổi rồi! còn ham muốn gì nữa mà chẳng lo tu!... Điểm rắc rối là làm sao biết pháp môn nào hiệu nghiệm nhất để tu tập đây? Chẳng biết anh chị tu tập đạt được kết quả tốt đẹp gì không? Chớ phần tôi, thú thật tôi đã chạy theo thiền theo tịnh bao năm rồi, mà chẳng thấy đi đến đâu! tâm vẫn vọng động, vẫn tham sân si chất ngất... Lúc nào ơ hờ quên thì thôi, mà chợt nhớ tới cái chết gần kề, đôi khi tôi bỗng lo sợ đến thất thần!

Chú Tô ôn tồn góp ý:

- Tâm trạng của chị cũng chẳng khác gì nỗi băn khoăn của tôi mấy năm về trước! Ngày đó, tôi sửng sờ nhìn bà cụ già tuổi ngoài chín mươi, nhăn nheo gầy còm lắt choắt, nằm lăn dưới đất khóc lóc đòi ăn như đứa bé lên ba, mà chua xót rụng rời. Nghĩ đến ngày tàn của mình, tôi khủng hoảng tìm phương pháp tu tập. Mặc dù trong mấy mươi năm qua, tôi đã bỏ rất nhiều thời giờ nghiên cứu luận đàm, thiền tịnh mật duy thức thiên thai hiền thủ..., pháp môn nào cũng lơ mơ thử qua, nhưng thực ra tôi chẳng hề dấn thân tu tập. Vì vậy, khi cấp bách muốn tu cho có kết quả thì lại ngờ nghệch chẳng biết lối nào. Nghe tôi than thở, anh Phan mới rủ tôi đi chùa Vạn Phật, thỉnh ý hòa thượng Tuyên Hóa. Ngài trích dẫn pháp từ của tổ Hư Vân [1] và phán dạy: 

"Trên con đường tu, quan trọng nhất là tín tâm phải kiên cố. Kẻ tín tâm thiếu kiên cố lơ mơ tu tịnh vừa nghe thiền đốn ngộ "chỉ thẳng chân tâm thấy tánh thành Phật" vội bỏ tịnh theo thiền, lại nghe kinh điển cao siêu vội bỏ thiền theo giáo, đoạn nghe mật nhiệm mầu vội bỏ giáo chạy theo trì chú... thì càng tu càng thêm chướng ngại chớ chẳng ích lợi gì. Ngược lại, nếu lập chí vững chắc, phát tâm dõng mãnh, đã tịnh thì tâm tâm niệm niệm lục tự Di Đà liên tục cho đến khi được nhất tâm bất loạn, đã thiền thì phải sống chết bám giữ câu thoại đầu sao cho tâm kết thành phiến, công phu thuần phục như vậy thì mới mong thoát khỏi căn trần, đại dụng hiện tiền, con đường giải thoát của thiền tịnh đâu có gì sai khác!". Ôm ấp lời dạy của Ngài, từ đó, tôi phát nguyện một lòng niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ, và chí thiết tu tập ngày càng tinh tấn. Điểm đặc biệt, là khi đã phát tâm chí thành niệm Phật, tôi có cảm giác mình đón nhận được hồng ân chư Phật gia bị nên thân tâm ngày càng nhẹ nhàng thư thái.

- Ủa! ngày xưa tôi nghe anh bàn luận về thiền cao siêu lắm mà! sao bây giờ anh chuyển sanh tịnh độ như vậy?, thím Phan thắc mắc.

Tôi ôn tồn đáp:

- Thật ra, lúc nào tôi cũng tôn quý thiền tông, nhưng cái nhìn của tôi không còn một chiều như ngày xưa nữa. Thuở mới phát tâm, vừa học lóm được vài sáo ngữ thiền tôi những tưởng sở học Phật Pháp của mình cao siêu lắm, thậm chí tôi tự cao tự đại xếp mình vào hàng thượng căn chỉ cần tu một kiếp là đã thừa sức ngộ đạo thành Phật rồi. Thế nhưng, khi tìm hiểu sâu rộng và thực sự bước vào ngưỡng cửa thiền, tôi mới hiểu ngộ đạo chân chánh là chuyện vô cùng hiếm hoi, trong khi nhộ nhập ma đạo lại rất dễ dàng. Ngày xưa, người đệ tử xuất gia theo thầy học đạo bao năm trời, khi thầy xét đã hội đủ giới đức cần thiết thì mới trao câu thoại đầu để tham quán, rồi thường trực theo dõi để hướng dẫn đệ tử, vậy mà, số người bỏ ra cả đời để tu thiền có mấy ai đạt được đạo mầu đâu? Ngày nay, sách vở và băng thuyết giảng thiền tràn ngập, người ta theo đó nghiên cứu rồi rủ nhau tu thiền, không cần thầy hướng dẫn, cũng chẳng màn quan tâm đến căn cơ, đức hạnh gì cả. Chẳng lạ gì có người mới tọa thiền vài ba tháng, tham sân si ngập tràn, mà mở miệng toàn nói chuyện chứng đắc, hiu hiu đặt mình ngang hàng với chư Phật với chư tổ, rồi nặng lời bài xích phỉ báng pháp môn khác... Thấy người rồi nghĩ đến mình, tôi tự biết đức mỏng, tham sân si sâu dầy... nên tu thiền chắc khó thoát khỏi lưới ma, nên tuy hằng khâm phục thiền nhưng chỉ đứng vòng ngoài vỗ tay tán thưởng mà thôi!

- À! thì ra là như vậy! Thế rồi anh chọn tịnh độ vì đó là lối tu tắt dễ dàng chăng?, thím Phan lại chất vấn.

- Tôi thiết nghĩ, đúng ra, tu ở cõi ta bà tuy hiểm nghèo nhưng nhờ gặp đủ mọi nghịch cảnh nên có thể tiến bộ nhanh hơn tu tại cõi tịnh. Thí dụ như ở trung phẩm hạ sanh tại cõi Cực Lạc, hành giả sau khi được chư bồ tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thuyết pháp phát tâm bồ đề chứng được sơ quả Tu Đà Hoàn, rồi phải tu liên tục một tiểu kiếp thì mới có thể chứng được quả vị A La Hán. Trong khi ấy, tại cõi ta bà, từ quả vị Tu Đà Hoàn tiến đến A La Hán có thể đắc liền ngay trong hiện kiếp, cùng lắm cũng chỉ kéo dài đến bảy kiếp người mà thôi. Có thể hình dung, cõi ta bà như là một cánh rừng rậm bao la, hành giả tu ở đây phải leo trèo đạp chông đạp gai phát tâm đại hùng đại lực mở đường tìm đến bờ giải thoát.

Con đường đạo gian nan hiểm trở nầy lại chính là con đường chim bay nên thời gian tu có thể rất ngắn, mà cũng có thể dài vô tận nếu như hành giả sa chân ngã gục hay bị lầm đường lạc lối. Tu tịnh độ là nương theo lời dạy chư Phật, theo lối đi ít gập ghềnh và tương đối ngắn để ra khỏi rừng rậm ta bà đến xa lộ Cực Lạc. Đến đây rồi, thì đường đi quang đãng, phương hướng rõ rệt, lại được tam thánh dắt dìu, nên cứ từng bước vững vàng mà tu cho đến khi thành đạt, không còn lo sợ chuyện sa chân đọa lạc nữa. 

Tóm lại, theo tôi con đường tịnh độ là con đường tu an toàn chớ không hẳn là lối tu tắt.

Nghĩa lại góp ý:

- Em đồng tình với anh, là mấy chữ "lối tu tắt" không ổn lắm, nhứt là khi nghe, em cảm giác nó hời hợt làm sao á! người ta có thể hiểu lầm mà có thái độ thiếu nghiêm chỉnh khi nghiên cứu pháp môn tịnh độ đó anh!

Thím Phan lại hỏi:

- Tóm lại, anh chọn pháp môn tịnh độ, vì đó con đường tu an toàn nhờ có thể dựa hẳn vào tha lực của Phật A Di Đà phải không anh?

- Ơ! quan niệm tha lực cũng dễ bị hiểu lầm lắm! Thật ra, dù tu bất cứ pháp môn nào người hành giả cũng phải "tự mình đốt đuốc lên mà đi" phải kiên trì tu tập mới đạt được kết quả. Công năng đầu tiên của câu niệm Phật là tu sửa thân tâm sao cho tham sân si giảm lần, vọng niệm bớt sanh khởi..., tâm thanh tịnh thì mới có thể đạt đến trình độ niệm Phật nhất tâm bất loạn mà vãng sanh được... Tóm lại, tu tịnh độ tuy nương vào tha lực nhưng tự lực cũng vẫn là yếu tố then chốt trong sự tu tập. Không biết vận dụng tự lực để tha thiết chuyển hóa, thì pháp môn niệm Phật tu sửa tâm cao siêu sẽ biến thành lối tu mê tín, cầu đảo, van xin... do đó, càng tu tâm càng vọng động điên đảo, chẳng ích lợi bao nhiêu!

Danh vốn ít nói mà lần nầy cũng góp ý:

- Ủa! vậy mà từ lâu em cứ tưởng thiền là lối tu thuần tự lực còn tịnh thì hoàn toàn tha lực chớ!

- Thật ra, suy cho cùng pháp môn nào cũng phối hợp tự và tha lực. Ngay như thiền tuy đặt nặng tự lực, nhưng yếu tố tha lực cũng vô cùng vô tận. Người hành giả nương theo giáo pháp của chư Phật, chư tổ lại được đàn na tín thí - nói cho đủ là cả pháp giới chúng sanh - yểm trợ thì mới có thể tu hành được. Thiếu sự yểm trợ của chư Phật, chư Bồ Tát và pháp giới chúng sanh thì một niệm an lành còn không có, huống chi nói đến chuyện tọa thiền và giác ngộ. Kẻ tu thiền nếu tự cho mình là bậc thượng căn tài trí phi phàm, tự tu tự ngộ, không nương nhờ vào tha lực nào cả, rất dễ sanh tâm cống cao ngã mạn mà rơi vào ma đạo.

- Hay quá! nếu không nghe anh giải thích, chắc em cứ nhìn thiền tịnh qua những nhận xét nông cạn như cũ!, Danh lên tiếng.

- Anh trình bày rõ ràng lắm! Tuy vậy, anh vẫn chưa trả lời thẳng câu hỏi của tôi là nguyên nhân nào đã thúc đẩy anh quyết định chọn pháp môn tịnh độ vậy anh Tô?, thím Phan lại vặn hỏi.

- Tôi cũng chất vấn người bạn tu tịnh độ y chang như vậy thì ảnh đáp: "Tịnh độ là pháp môn thù thắng được chư Phật, chư Bồ Tát và chư tổ nhiệt liệt tán thán, chư tôn túc luận giải minh bạch, lại đưa ra những bằng chứng vãng sanh rất cụ thể, tôi nghĩ anh là người học rộng hiểu biết chắc chắn anh đã từng nghiên cứu qua, tôi lập lại cũng bằng thừa. Phần tôi, tôi thích thuyết nghiệp báo nhân duyên, nên cũng nhìn pháp môn tịnh độ theo thuyết nầy. Tôi nghĩ niệm Phật với Tín, Hạnh, Nguyện là tạo nên nhân duyên thanh tịnh, mà nhân đã thanh tịnh thì quả phải là quả thanh tịnh; nói khác, nghiệp tức chánh báo thanh tịnh thì trụ xứ tức y báo phải là cõi tịnh độ. Vì vậy mà tôi tin chắc rằng nếu tôi niệm Phật chân thành thì đương nhiên tôi sẽ được vãng sanh". Nhờ sự hướng dẫn của anh bạn, đúng ra, là do lòng cảm phục đức hạnh của anh ta, mà tôi đã tìm được đường hướng tu tập phù hợp với căn cơ của tôi.

- Người đó là ai? ai vậy anh?, thím Phan hỏi dồn dập.

- Cũng chẳng phải ai xa lạ đâu chị. Người đã chuyển hóa tôi chính là "Ông xã" của chị đó!
Thấy thím Phan trố mắt lộ vẻ không tin, Tô mĩm cười tiếp lời:

- Đó là sự thật chị à! Tụi nầy giao du với nhau đã hai mươi năm trời, tính nết xấu tốt thế nào làm sao dấu nhau được. Tôi vốn quý đức khiêm cung nhân hậu của ảnh. Tôi lại để ý thấy từ ngày ảnh tu tịnh độ, thì dường như phiền não biến dạng dần, con người ảnh ngày càng tươi mát, thanh thản hơn. Anh tiếp xúc hài hòa với tất cả mọi người, kể cả thành phần bất hảo! Có lẽ, dưới con mắt của anh ấy, ai cũng là người tốt cả, vì ảnh có bao giờ hờn giận, chê trách ai đâu! Đức hạnh của ảnh như vậy đáng cho tôi tâm phục lắm chớ!

Nghe bạn khen chồng, thím Phan thích thú lỗ mũi nở phồng, nhưng thím giả vờ như không quan tâm lắm. Thím đối đáp vài câu vớ vẩn đưa đẩy sang câu chuyện khác, rồi lặng yên mà lòng miên man nghĩ ngợi: "Ông xã của thím tuy đứng đắn trung hậu, nhưng chuyện tu tập thật ra còn thua sút cả thím, thế sao chú Tô lộ vẻ khâm phục như vậy kìa? Tô đùa giỡn chăng? Mình phải hỏi ông xã cho ra lẽ mới được?...". Thế nhưng buổi tiệc đã tàn, thím chờ đợi sốt cả ruột mà cái ông chồng "ăn cơm nhà, vác ngà voi, lo chuyện tào lao thiên hạ", mãi đến hơn quá khuya mới chịu "dẫn xác" trở về. Chú vắn tắt cho biết Xến bị thương nặng ở đầu, ngực và gãy hai chân. Vết thương đầu nguy hiểm nhất, bác sĩ đã cố gắng giải phẩu, nhưng kết quả vẫn còn mù mịt..., mạng sống mong manh lắm. Chú chờ bàn giao vợ chồng Triệu cho đám con cái họ, mới an tâm lui gót thành thử về trễ. Vợ chồng Tô nài ép Phan ăn miếng cơm, nhưng Phan mệt nuốt không trôi, chỉ uống tí nước rồi viện cớ hôm sau phải đi làm, để xin phép chia tay.
*
* *
Xe vừa lăn bánh, thím đã ron ren dọ hỏi:

- Anh à! bấy lâu nay anh có tu tập gì không anh?

- Ơ! thì khoảng mười năm về trước đó, sau khi viếng chùa Vạn Phật về, hai vợ chồng mình đồng phát nguyện tu tịnh độ, chẳng lẽ bà lại quên?
Dĩ nhiên là thím không quên, nhưng chuyện đó xưa quá rồi. Thím đâu có ngờ chú vẫn chặt lòng chặt dạ với pháp môn tịnh độ, trong khi đó, cũng cùng thời gian nầy thím đã thử vòng vòng biết bao lối tu rồi: thím bỏ tịnh sang thiền, từ thiền nhảy sang lối tu lạ của bà Vô Thượng Sư, đoạn chạy theo phong trào nhân điện để "cứu nhân độ thế", và hiện thì đang ngấp nghé bước vào ngưỡng cửa mật tông. Thím vẫn còn ngờ vực chồng, nên hỏi tiếp:

- Ủa! ông vẫn còn tu Niệm Phật à! tu gì mà "êm ru bà rù" chẳng nghe tăm hơi chi cả vậy?

Ơ! tu nghĩa là sửa thân tâm thì cứ lẳng lặng mà sửa, chớ đâu phải đóng kịch mần tuồng mà quảng cáo rùm beng, vậy bà!

- Ậy! tôi thắc mắc chỉ vì có mấy thuở tôi nghe ông tụng niệm đâu? thời khắc tu tập của ông như thế nào mà tôi chẳng hay biết gì cả?

- Lạ thật! hôm nay bỗng nhiên bà lại nổi hứng truy tôi dữ quá nghen? Bà không thấy, bởi vì mỗi sáng trong khi tôi dậy sớm để lễ và niệm Phật thì bà còn ngủ yên. Ngoài ra, thì tôi thầm niệm Phật suốt ngày: trong khi lái xe, đi bộ, săn sóc vườn hay làm thợ..., niệm thầm thì làm sao bà hay biết!

Thì ra chú thức dậy sớm để công phu, thế mà, mỗi sáng thức dậy trễ, thấy có trà cà phê pha sẵn, thím đinh ninh ông chồng già sanh tật rọ rạy ngủ không được phải bò ra nấu nước để nhâm nhi. Thím bẽn lẽn hỏi:

- Anh gia công tu tập bền bỉ như vậy mà có ngộ đạt được điều gì cao siêu chưa? anh kể thiệt cho em nghe đi!

- Ơ! anh nào có đạt được cái gì lạ đâu? có một điều là những chuyện mà ngày xưa mình nổi sân hay buồn phiền thì nay mình có thể bình tĩnh đón nhận, kẻ thù người ghét lần lần cũng không còn, thời giờ nào cũng là thời an vui niệm Phật cả nên nỗi chán chường bực dọc biến dạng dần, và lòng cũng cảm thấy thanh thản nhẹ nhàng hơn...

- Ủa! chỉ niệm Phật thôi mà cũng thay đổi nhường ấy sao anh?

- Ơ! niệm với tâm buông lung hờ hững thì câu niệm Phật sẽ trở thành vô dụng, ngược lại, nếu thành tâm tha thiết niệm Phật, lúc nào câu niệm Phật cũng tỏ rạng trong tâm, thì vọng niệm làm sao sanh khởi, bụi trần còn nơi nào bám víu. Niệm Phật với chánh niệm thì hoa công đức sẽ đua nhau rộ nở. Đó là nói lý thuyết để nghe mà thôi, chớ như anh thuộc thành phần căn cơ kém chỉ nhờ siêng niệm Phật nên dễ được nhắc nhở mà sửa tâm. Như khi đang thầm niệm Phật chợt khám phá niệm tham, sân , si manh nha, anh bèn tự nhủ: "Mình đã nguyện vãng sanh về tịnh độ mà sao còn tham luyến cõi ta bà, còn tính chuyện hơn thua tranh chấp với người ta làm gì kìa?"; sắp mở lời bất nhã, thì anh tự cảnh cáo: "Tầm bậy quá rồi, miệng mình là nơi cất tiếng xưng tán hồng danh Phật, mình phải lựa lời ngọt ngào hòa ái để trang nghiêm, chớ đâu có thể ăn nói bừa bãi được!".

Tầm thường nhất như khi phải chờ đợi ở bãi đậu xe mấy tiếng đồng hồ để em tung tăng mua sắm, lòng anh vẫn an vui thư thái vì anh nghĩ: "Hên quá! bà xã mình ưu ái dành cho mình thời giờ đặc biệt nầy để dốc lòng niệm Phật! cám ơn bả quá mức!". Đó! anh cứ nương theo câu niệm Phật mà gắng công sửa tâm lần lần, nhờ vậy, anh cảm thấy có tiến bộ đôi chút.

Thím Phan hồi tưởng lại quãng đời vợ chồng mấy năm sau nầy với niềm xúc động sâu xa, lẫn lộn nửa thương yêu nửa nhột nhạt. Đàn bà vốn nhạy cảm, thím đã khám phá ngay biến chuyển tâm tư của chồng. Có thế nên thím mới thường khoái chi rêu rao với bè bạn: "Ê! người ta nói già sanh tật coi bộ đúng thiệt nghen! Ông xã tui, độ rày bỗng nhiên sanh tật dễ, ỗng chiều chuộng tôi rất mực, dẫu tui có làm trời làm đất gì ổng cũng cười hề hề hết hà!". Yên chí chồng sanh tật dễ, thím lấn lướt chồng mỗi ngày một chút, chồng vui vẻ không phản đối thì thím càng nộ nạt áp đảo hơn nữa... Giờ nầy, hiểu ra mọi việc, thím bỗng thương và quí chồng vô hạn. Thím nguyện sẽ noi gương chồng tu tập để chuyển hóa con người của thím. Suy nghĩ tới lui thật chín chắn, đợi đến khi chú lái xe đậu hẳn trong nhà xe, thím mới thỏ thẻ:

- Anh à! em nhất định rồi! lần nầy em sẽ tu, tịnh độ như anh mới được!
Thím tưởng khi nghe lời tuyên bố hào hứng nầy chú sẽ mừng rỡ hoan hô bà vợ hai tay lẫn hai chân, ngờ đâu, chú im lặng đôi chút như chẳng hề nghe thấy, rồi mới lừng khừng lên tiếng can gián:

- Ái chà! Cho tôi xin đi bà! vợ chồng mình bấy lâu nay chung sống tương đối vui vẻ hạnh phúc rồi! Thôi thì mình cứ theo nếp đó mà tiếp tục, bày đặt thay đổi chi cho rắc rối vậy bà! 
"Chú có thái độ khinh khỉnh lạ lùng quá, chắc chú xem nhẹ khả năng tu của thím", thoáng nghĩ điều đó cơn giận bốc lên ngùn ngụt khiến thím run rẩy cả toàn thân. Bình thường có lẽ thím đã dãy tê tê gây gổ rồi, nhưng lần nầy không biết do động lực nào kềm hãm, thím chỉ mở cửa xe bước ra đóng cái rầm, rồi ngoe nguẩy bỏ đi một nước. Thím vùng vằng đến bộ ghế nệm nằm phệt xuống thở dài thườn thượt, nước mắt rưng rưng...

Chú Phan rón rén ngồi cạnh vợ, vuốt ve an ủi, rồi cất tiếng ngọt ngào:

- Em à! anh can ngăn em thật ra cũng có chút lý do. Anh chưa nêu rõ lý do vì nghĩ em sẽ giận anh nhiều hơn mà thôi!

Thấy mụ vợ vẫn bùng thụng không thèm trả lời, chú tiếp tục phân bua:

- Bây giờ, nghĩ lại anh thấy thà nói rõ một lần rồi năn nỉ em, còn hơn là để em ấm ức hoài vì chẳng hiểu ngọn ngành. Nè! em nghe kỹ coi anh có nói thêm bớt hay sai trái gì không nghen! Phải nhìn nhận là em tu đủ thứ hết, nhưng chỉ tu hùng hổ "nước nạp" [2] vài ba tháng rồi bỏ cuộc. Khởi sự theo pháp môn nào, y như rằng, em hăng say ca ngợi pháp môn đó, chỉ trích chê bai pháp môn khác, gặp ai cũng cao giọng thuyết giảng để lôi kéo người ta theo về phe của em. Em à! nói chuyện đạo mà không đúng lúc, đúng người, đúng căn cơ... thì tội nghiệp cho lỗ tai người ta lắm, huống chi em có thói quen là hay nổi hứng bất tử khoác lác càn bướng rằng mình đã chứng đắc thứ nầy thứ nọ để "nộ" người.

Em ngồi thiền chưa xẹp tọa cụ, áo quần son phấn se sua, tham luyến đua đòi đủ thứ, vậy mà em dám hí hửng cho rằng tâm em an lạc, dứt trừ hết vọng tưởng rồi! Em tập tễnh ngồi chồm hỗm bịt lỗ tai theo bà Vô Thượng Sư mấy tuần thì đã "sứa" [3] lên rằng em đã nghe được âm thanh cõi Phạm thiên. Em mới chạy theo nhân điện vài bữa là đã khoe ngồi thiền điện chạy rần rần, tự chữa bịnh cho mình chẳng ra hồn mà mở miệng "dao to búa lớn" nào là "cứu nhân độ thế" nào là "phổ độ chúng sanh". Tóm lại, nếu em tu như vậy đó thì anh trăm ngàn lần van xin em đừng tu, bởi càng tu thì tâm càng vọng động chớ chẳng ích gì. Thôi! chẳng thà em cứ nhởn nhơ vui sống, đua đòi chạy theo thời trang..., em có hứng chí "nổi cho xôm tụ" thì lối nổ mua vui đó cũng không đến nỗi chết ai, còn lối "nổ" khoe khoang chứng đắc khẩu nghiệp nặng nề kiếp kiếp đọa lạc, nguy hiểm khôn lường.

Chú nhìn thím thăm dò phản ứng rồi mới ngập ngừng tiếp lời:

- Sự thực là như vậy đó em! Chớ nếu như em bình thường tu sửa thân tâm thì đó là điều quý hóa anh phải mong cầu chớ sao lại cản ngăn!

Thím Phan chới với rụng rời. Tự thuở giờ thím chỉ được chồng rót vào tai toàn bằng lời lẽ âu yếm ngọt ngào, lần nầy, chú lại thẳng thừng vạch rõ khuyết điểm của thím thậm tệ như vậy, thím làm sao chịu đựng nỗi. Có lẽ do những biến cố dồn dập trong ngày ảnh hưởng, nên tuy giận hờn tức tưởi mà thím không dẫy nẩy đôi co đàn áp chồng như thường lệ. Thím chỉ lặng lẽ suy tư để tự quán sát mình, nhờ vậy thím thức tỉnh lần lần. Thím hiểu là những điều chú nói không có gì quá đáng, thím phải phục thiện thay đổi lối tu toàn diện, nếu như thím không muốn bị đọa lạc. Vì thế, thím quyết định phen nầy sẽ dõng mãnh mà âm thầm tu niệm cho chồng thán phục mới nghe.

Nghĩ sao làm vậy, thím vừa thay đổi quần áo vừa thầm niệm lục tự Di Đà. Mới niệm được năm câu, trong khi đem máng bộ đồ đầm trong phòng chứa y phục, thím chợt nhớ tiệm Đại Đồng quảng cáo đại hạ giá 50% vào ngày mai, phấn sáp Lancôme tại Dillard chỉ cần mua hai mươi lăm đồng thì có quà cả trăm... thế rồi tâm thím cứ nhởn nhơ quay cuồng với lụa là son phấn... Mãi đến khi xong xuôi mọi việc, thím chuẩn bị chúc chồng ngủ ngon, thì mới sực nhớ rằng đang niệm Phật bỗng buông lung thả tâm lang thang đi theo những chuyện không đâu mà chẳng hay. Thím thẹn thùng hỏi chồng:

- Anh ạ! đang niệm Phật mà tâm rong chơi thì phải dùng phương pháp gì để khắc phục vậy anh?

- Niệm Phật lần chuỗi đỡ lắm. Trong khi đang niệm dẫu tâm có rong chơi, nhưng nhờ tay còn lần chuỗi miệng còn máy móc nhóp nhép, nên dễ giựt mình tỉnh lại, mà đem tâm về với câu niệm Phật. Niệm Phật thầm không chuỗi, hễ tâm đi chơi thì đi tuốt luốt quên mất đường về. Trong trường hợp nầy, mỗi người nên tự tìm cái gì làm chuẩn để thỉnh thoảng nhắc nhở mình kiểm soát lại thân tâm. Phần anh, cứ mỗi giờ đồng hồ tay của anh kêu "tít" một tiếng, nghe tiếng kêu nầy anh liền kiểm soát lại mình, xem "con trâu tâm" của mình lang thang ở đâu? có phá làng phá xóm chi không? Anh nghĩ nếu mình có đồng hồ treo tường, loại mười lăm phút gõ chuông một lần, để nương vào tiếng chuông thức tỉnh tâm thì cũng tốt!

Thím hăng hái:

- Đúng lắm! ngày mai em phải đi mua ngay mới được!

- Em à! niệm Phật mà tâm đi chơi cũng là chuyện bình thường! Vấn đề quan trọng là khi khám phá ra thì mình phải biết hổ thẹn mà khẩn thiết đem tâm về với câu niệm Phật. Nếu tha thiết hành trì như vậy, bền bỉ từng phút từng giờ, ngày nầy sang ngày khác, năm nầy sang năm khác... thì chắc chắn thân tâm sẽ được chuyển hóa.

Nghe chồng an ủi, thím Phan lên tinh thần, tự nhủ: "thua keo nầy thì bày keo khác, lo gì!". Phen nầy, thím quyết định sẽ thầm niệm Phật một trăm câu trước khi ngủ mới được. Thím niệm được mươi câu thì chợt thấy cửa sổ còn mở nên bước đến đóng lại. Bầu trời đêm đẹp quá! Vầng trăng lưỡi liềm lửng lơ trên đỉnh núi thơ mộng lạ! Niệm buông lung lại đến với thím. Cảnh trăng đỉnh núi vô tình khơi dậy kỷ niệm buổi ban đầu gặp gỡ của người con gái đang xuân với chàng thanh niên họ Phan trên đỉnh Cổ Sơn, Phước Kiến khoảng hơn bốn mươi năm về trước. Lòng xuân phơi phới thím khẽ ngâm nga:
"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy,
Ngàn năm chưa dễ đã ai quên!..."

Rồi những kỷ niệm ngày xưa êm ấm tuần tự quay về tràn ngập tâm khảm của thím, thím lâng lâng lên giường yên ngủ trong giấc mộng thần tiên.

Tháng 05.1998 

Ghi chú :

1. Hòa thượng Hư Vân (1840-1959) là một vị thiền sư lỗi lạc nhất của nước Trung Hoa cận đại. Ngài xuất gia năm 19 tuổi, thọ cụ túc giới với hòa thượng Diệu Liên, chùa Cổ Sơn, Quảng Châu. Kế đó, do sự hướng dẫn của bậc thiện tri thức Ngài đến núi Thiên Thai, am Long Tuyền thọ pháp với pháp sư Dung Cảnh trong vòng 7 năm và được thầy cho hạ san năm 36 tuổi. Sư hành cước khắp các đại tùng lâm và thánh tích Trung Hoa, cùng các nước Tây Tạng, Bhutan, Tích Lan, Miến Điện. Đặc biệt trong thời gian nầy sư đã dành hơn 2 năm lễ lạy xá lợi Phật tại chùa A Dục Vương, 3 năm tam bộ nhất bái từ am Pháp Hoa, núi Phổ Đà đến núi Ngũ Đài để báo đáp ân sanh thành dưỡng dục. Trong thời gian nầy, Ngài đã trải qua hai lần đại định và đã hốt nhiên ngộ đạo vào năm 56 tuổi, nhân khi nghe tiếng một chung trà bể. Ngài đã trùng tu hàng trăm ngôi cổ tự, đặc biệt nhất là những công trình kiến thiết vĩ đại tại chùa Chúc Thánh, Kê Túc Sơn, và các tổ đình thiền tông: chùa Nam Hoa (Tào Khê), chùa Quang Thái (núi Vân Môn) và chùa Chân Như (Vân Cư).

Ngài đã đại hùng đại lực hoằng dương Phật Pháp trong thời kỳ tôn giáo bị đàn áp nặng nề tại Hoa Lục. Ngài bị công an địa phương bao vây chiếm Vân Môn, tra tấn dã man, nằm liệt giường như đã chết hẳn đến mấy lần, mà cuối cùng vẫn sống lại một cách mầu nhiệm, khiến những kẻ chai đá phải đem lòng kín nể. Ngài bị đày đến chốn hoang vu ( núi Vân Cư, Giang Tây), thế nhưng, chỉ một thời gian sau, Ngài đã trùng tu chốn ấy thành một đạo tràng tôn nghiêm vĩ đại, với hàng ngàn tăng chúng tu tập. Ngài thị tịch năm 120 tuổi.

Tuy đắc ngộ thiền tông, nhưng tùy duyên Ngài vẫn xương minh tịnh độ và các pháp môn khác. Phầ trích dẫn trong truyện là pháp nhũ của Ngài cho các tu sĩ tịnh độ, nhôn ngày giổ thứ ăâ của tố Ấn Quang, năm 1952, tạ Thượng Hải. Do đó, các đại đệ tử của Ngài mjư hòa thượng Tuyên Hóa, Hoa Kỳ, Pháp sư Khoan Tịnh, núi Cữu Tiên, Phước Kiến, Hoa Lục, vẫn giữ truyền thống hoằng dương tịnh độ tông.

Giáo sư John Blofeld, trong quyển The Wheel of Life cho biết đã có duyên đến chùa Nam Hoa hầu chuyện với Ngài. Tác giả đã nêu thắc mắc, là tại sao ở chốn thiền môn chính thống như Nam Hoa, lại có thờ Phật A Di Đà và giữ các thời khóa tụng niệm. Ngài đáp : “Thiền và Tịnh độ đâu có gì khác biệt”... “Nếu suốt ngày họ trì niệm danh hiệu Đức A Di Đà, biết chú tâm vào hồng danh nầy, khi làm ruộng, lúc nghỉ ngơi, khi gặt lúa, lúc lùa trâu vào chuồng, họ trì niệm cho đến lúc nhất tâm bất loạn, thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệt, có chúng sanh, có chư Phật, sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ được thực tại mầu nhiệm ngay. Dù người ta nói đó là tha lực tiếp dẫn cúa Đức A Di Đà, gọi là thiền, hoặc gọi là Nhất Tâm, thì điều nầy có gì khác biệt đâu? Cái khả năng giải thoát mà người ta cho rằng vốn ở bên ngoài ( tha lực), thật ra vẫn ở bên trong (tự lực), lúc nào cũng sẵn có kia mà...” (Phần ngoặc kép nầy được trích nguyên văn từ quyển Ngọc Sáng Trong Hoa Sen, bản dịch của Nguyên Phong) 

2. Nước nạp: giai đoạn đầu; chỉ có nước nạp nghĩa là chỉ hăng hái lúc đầu mà thôi. Tiếng lóng nầy phát xuất từ giới đấu gà chọi. Trước khi cho gà so tài, hai bên cho hai con gà xáp lại vờn mặt nhau vài lượt cho chúng hăng lên, rồi mới thả xuống cho giao đấu chánh thức. Giai đoạn vờn mặt nầy gọi là nạp gà. Gà nước nạp là loại gà lúc mới vờn nhau tỏ vẻ rất hung hăng, nhưng khi giao đấu thật thì hèn kém chạy dài.

3. Sứa: tiếng lóng ám chỉ lời nói ba hoa thánh tướng của kẻ say.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn