Phần I

19 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 5603)

commentaries_on_living-cover2J. KRISHNAMURTI 
NÓI CHUYỆN VỀ SỐNG
COMMENTARIES ON LIVING
First Series
[www.thuvienhoasen.org ]
Lời dịch: Ông Không 
TẬP I/III – Tháng 4-2012 –



Chương 1

BA NGƯỜI CUỒNG TÍN

 

M

ột ngày nào đó ba người cuồng tín đến gặp tôi. Người đầu tiên là một khất sĩ, một người đã từ bỏ thế giới; người thứ hai là một người nghiên cứu về phương Đông và tin tưởng nhiều trong Tình huynh đệ; và người thứ ba là một người mê say một không tưởng tuyệt vời. Cả ba người đều tích cực trong công việc riêng của họ và khinh miệt những thái độ và những hoạt động của những người khác, và mỗi người đều được củng cố bởi sự nhận thức riêng của họ. Mỗi người đều hăng hái quyến luyến vào hình thức đặc biệt của sự tin tưởng của họ, và tất cả đều sống một cách tàn nhẫn lạ lùng.

 Họ bảo với tôi, đặc biệt người không tưởng, rằng họ sẵn sàng từ bỏ hay hy sinh chính họ và những bạn bè cho điều gì họ tin tưởng. Họ có vẻ khiêm tốn và hòa nhã, nhất là con người của tình huynh đệ, nhưng có một khô cằn của quả tim và sự không khoan nhượng đặc biệt đó mà thể hiện thái độ của kẻ bề trên. Họ là những người được chọn lựa, những người trung gian; họ biết và họ chắc chắn về những gì họ biết.

 Người khất sĩ nói, trong tiến hành một nói chuyện nghiêm túc, rằng ông ấy đang tự chuẩn bị cho đời kế tiếp. Cuộc đời này, ông ấy tuyên bố, chẳng trao tặng cho ông ấy thứ gì cả, bởi vì ông ấy đã thấy rõ tất cả những ảo tưởng của thế gian và đã từ bỏ những phương cách của thế gian. Ông ấy có vài yếu đuối cá nhân và những khó khăn nào đó trong sự tập trung, ông ấy thêm vào, nhưng trong đời kế tiếp, ông ấy sẽ là người lý tưởng mà ông ấy đã sắp xếp cho chính mình.

 Toàn sức sống và quan tâm của ông ấy đều nằm trọn trong sự tin tưởng rằng ông ấy sẽ là cái gì đó trong đời kế tiếp của ông ấy. Chúng tôi nói chuyện khá lâu và sự tập trung của ông ấy luôn luôn vào ngày mai, vào tương lai. Quá khứ đã tồn tại, ông ấy nói, nhưng luôn luôn liên quan đến tương lai; hiện tại chỉ là một đoạn đường sang tương lai, và ngày hôm nay chỉ hứng thú vì ngày mai. Nếu không có ngày mai, ông ấy hỏi, vậy thì tại sao cần thực hiện một nỗ lực? Người ta có thể chỉ như cây rau hay giống như con bò yên ổn.

 Toàn bộ sống là một chuyển động liên tục từ quá khứ qua hiện tại thoáng chốc để đến tương lai. Chúng ta nên sử dụng hiện tại, ông ấy nói, để là cái gì đó trong tương lai: để thông minh, để mạnh mẽ, để từ bi. Cả hiện tại lẫn tương lai đều thoáng chốc, nhưng ngày mai thâu hoạch được quả. Ông ấy quả quyết rằng ngày hôm nay chỉ là một bàn đạp để bước qua và chúng ta không nên quá lo lắng hay quá ưu tiên cho nó; chúng ta phải kiên định trong lý tưởng của ngày mai và khiến cho chuyến hành trình thành công. Nói chung, ông ấy không dung thứ hiện tại.

 Người đàn ông của tình huynh đệ có học thức hơn, và ngôn ngữ của ông ấy văn vẻ hơn; ông ấy giỏi giang khi sử dụng từ ngữ, rất cuốn hút và thuyết phục. Ông ấy cũng đã khắc sâu một ngôi nhà thần thánh cho chính ông trong tương lai. Ông ấy muốn là cái gì đó. Ý tưởng này đầy ắp trong quả tim của ông, và ông đã tập hợp được một số đệ tử cho tương lai đó. Chết, ông ấy nói, là một việc tuyệt vời, bởi vì nó mang người ta lại gần ngôi nhà thiêng liêng đó mà đang giúp đỡ ông ấy có thể sống trong thế giới xấu xa và đau khổ này.

 Ông ấy chỉ sống để thay đổi và tô điểm cho thế giới. Ông ấy coi tham vọng đó, cùng những hung tợn và thoái hóa của nó, là điều không tránh khỏi trong một thế giới nơi bạn phải thực hiện những công việc; và rủi thay, nếu bạn muốn những hoạt động có tổ chức nào đó được tiếp tục, bạn phải tàn bạo một chút xíu. Công việc là quan trọng nhất bởi vì nó đang giúp đỡ nhân loại, và bất kỳ người nào phản kháng nó phải bị gạch tên – một cách hòa nhã, dĩ nhiên. Sự tổ chức cho công việc đó có giá trị tối thượng và phải không bị cản trở. “Những người khác có đường đi của họ,” ông nói, “nhưng chúng tôi là cột trụ, và bất kỳ người nào cản trở đều không là người của chúng tôi.”

 Người không tưởng là một pha trộn lạ lùng của người lý tưởng và người thực tế. Kinh Thánh của ông ấy không là cái cũ kỹ nhưng là cái mới mẻ. Ông ấy tin tưởng cái tuyệt đối mới mẻ. Ông ấy biết kết quả của tương lai, bởi vì quyển kinh mới mẻ báo trước nó sẽ là gì. Kế hoạch của ông ấy là gây hỗn loạn, tổ chức lại và thực hiện. Hiện tại, ông ấy nói, là thoái hóa, nó phải bị hủy diệt, và từ sự hủy diệt này cái mới mẻ sẽ được xây dựng. Hiện tại phải bị hy sinh cho tương lai. Con người tương lai là quan trọng nhất, không phải con người hiện tại.

 “Chúng tôi biết tạo ra con người tương lai đó như thế nào,” ông ấy nói, “chúng tôi có thể định hình cái trí và quả tim của anh ấy; nhưng chúng tôi phải có quyền hành để làm bất kỳ việc gì tốt đẹp. Chúng tôi sẽ hy sinh chính mình và những người khác để tạo ra một tình trạng mới mẻ. Bất kỳ người nào ngăn cản chúng tôi sẽ giết chết, bởi vì phương tiện không có kết thúc; kết thúc biện minh cho bất kỳ phương tiện nào.”

 Muốn đạt được sự hòa bình cuối cùng, bất kỳ hình thức nào của bạo lực đều có thể được sử dụng; do bởi sự tự do cá nhân cuối cùng, sự chuyên chế trong hiện tại là việc không thể tránh khỏi. “Khi chúng tôi có quyền hành trong tay,” ông ấy tuyên bố, “chúng tôi sẽ sử dụng mọi dạng cưỡng bách để tạo ra một thế giới mới mẻ mà không có sự phân biệt giai cấp, mà không có những giáo sĩ. Chúng tôi sẽ không bao giờ chuyển động khỏi đề cương cốt lõi của chúng tôi; chúng tôi cố định ở đó, nhưng chiến lược và chiến thuật của chúng tôi sẽ thay đổi tùy theo hoàn cảnh thay đổi. Chúng tôi lập kế hoạch, tổ chức và hành động để hủy diệt con người hiện tại cho con người tương lai.”

 Người khất sĩ, người huynh đệ và người không tưởng, tất cả đều sống cho ngày mai, cho tương lai. Họ không tham vọng trong ý nghĩa của thế gian, họ không thèm khát thanh danh, của cải, hay công nhận. Nhưng họ tham vọng trong cách tinh tế hơn nhiều. Người không tưởng đã đồng hóa chính ông ấy cùng một nhóm người mà ông ấy nghĩ rằng sẽ có quyền hành để định hình lại thế giới; người huynh đệ khao khát được đề cao, và người khất sĩ ao ước đạt được mục đích của ông ấy. Tất cả đều bị ám ảnh bởi sự trở thành riêng của họ, cùng sự thành tựu và sự bành trướng riêng của họ. Họ không thấy rằng sự ham muốn này khước từ hòa bình, tình huynh đệ và hạnh phúc tối thượng.

 Tham vọng trong bất kỳ hình thức nào – cho nhóm người, cho sự cứu rỗi cá thể, hay cho sự thành tựu tinh thần – là hành động trì trệ. Ham muốn luôn luôn thuộc tương lai; ham muốn để trở thành là không hành động trong hiện tại. Ngay lúc này quan trọng hơn ngày mai. Trong ngay lúc này là mọi thời gian, và hiểu rõ ngay lúc này là được tự do khỏi thời gian. Trở thành là sự tiếp tục của thời gian, của đau khổ. Trở thành không chứa đựng đang hiện diện. Đang hiện diện luôn luôn trong hiện tại, và đang hiện diện là dạng tột đỉnh của sự thay đổi. Trở thành chỉ là sự tiếp tục được bổ sung, và có sự thay đổi cốt lõi chỉ trong hiện tại, trong đang hiện diện.

 

_____________________________________

 

Chương 2

ĐỒNG HÓA

 

T

ại sao bạn đồng hóa cùng một người khác, cùng một nhóm người, cùng một quốc gia? Tại sao bạn gọi mình là một người Thiên chúa giáo, một người Ấn giáo, một người Phật giáo, hay tại sao bạn lệ thuộc vào một trong vô vàn những giáo phái? Thuộc tôn giáo và thuộc chính trị người ta đồng hóa cùng điều này hay cùng nhóm kia qua truyền thống hay thói quen, qua ép buộc, thành kiến, bắt chước và lười biếng. Đồng hóa này chấm dứt mọi hiểu rõ sáng tạo, và thế là người ta trở thành một công cụ sai bảo trong bàn tay của ông trùm đảng phái, vị giáo sĩ hay người lãnh đạo ưa thích.

 Ngày hôm trước một người nào đó đã nói rằng ông ấy là “một người theo Krishnamurti,” trái ngược với người này hoặc người kia đang theo một nhóm khác. Khi ông ấy đang nói nó, ông ấy hoàn toàn không nhận biết được những hàm ý của sự đồng hóa này. Tất nhiên, ông ấy không là một người dốt nát; ông ấy đọc sách báo rất nhiều, có văn hóa và mọi chuyện như thế. Ông ấy cũng không là người cảm tính hay cảm xúc về vấn đề này; trái lại, ông ấy rất rõ ràng và dứt khoát.

 Tại sao ông ấy đã trở thành một “người theo Krishnamurti”? Ông ấy đã theo sau những người khác, đã lệ thuộc mệt nhoài vào nhiều nhóm và những tổ chức, rồi cuối cùng ông ấy lại đồng hóa cùng con người đặc biệt này. Từ điều gì ông ấy nói, có vẻ rằng chuyến hành trình đã kết thúc. Ông ấy tìm được lý tưởng và đó là sự kết thúc của vấn đề; ông ấy đã chọn lựa và không điều gì có thể lay chuyển. Lúc này ông ấy cảm thấy thanh thản, yên ổn và háo hức tuân theo tất cả mọi điều đã được nói và sẽ được nói.

 Khi chúng ta đồng hóa cùng một người khác, liệu nó là một thể hiện của tình yêu? Liệu đồng hóa hàm ý sự tiến hành của đang trải nghiệm à? Liệu đồng hóa không chấm dứt tình yêu và đang trải nghiệm, hay sao? Chắc chắn, đồng hóa là sở hữu, sự khẳng định của quyền sở hữu; và quyền sở hữu phủ nhận tình yêu, đúng chứ? Sở hữu là mong muốn an toàn; sở hữu là phòng vệ, khiến cho người ta trở thành vô cảm. Trong đồng hóa có kháng cự, dù thô thiển hay tinh tế; và liệu tình yêu là một hình thức của sự kháng cự tự phòng vệ? Liệu tình yêu hiện diện khi có sự phòng vệ?

 Tình yêu là mong manh, linh động, thâu nhận; nó là hình thức tột đỉnh của nhạy cảm, và đồng hóa dẫn đến vô cảm. Đồng hóa và tình yêu không theo cùng nhau, bởi vì cái này hủy diệt cái kia. Tại cơ bản, đồng hóa là một qui trình suy nghĩ mà nhờ đó cái trí tự phòng vệ và tự lan rộng; và trong đang trở thành cái gì đó nó phải kháng cự và phòng vệ, nó phải chiếm hữu và loại bỏ. Trong qui trình đang trở thành này, cái trí hay cái tôi trở nên khắc nghiệt và có khả năng nhiều hơn; nhưng đây không là tình yêu. Đồng hóa hủy diệt tình yêu, và chỉ trong tình yêu mới có thể có hình thức tột đỉnh của nhạy cảm.

 Để trải nghiệm, liệu cần có đồng hóa? Liệu chính hành động của đồng hóa không kết thúc sự thâm nhập, sự khám phá hay sao? Hạnh phúc mà sự thật mang lại không thể hiện diện nếu không có tiến hành trải nghiệm trong tự khám phá. Đồng hóa kết thúc sự khám phá; nó là một hình thức khác của lười biếng. Đồng hóa là trải nghiệm gián tiếp, và vì vậy hoàn toàn giả dối.

 Muốn trải nghiệm, mọi đồng hóa phải kết thúc. Muốn trải nghiệm, phải không có sợ hãi. Sợ hãi ngăn cản trải nghiệm. Do bởi sợ hãi mới tạo ra đồng hóa – đồng hóa cùng một người khác, cùng một nhóm người, cùng một học thuyết và vân vân. Sợ hãi phải kháng cự, kiềm chế; và trong một trạng thái của tự phòng vệ, làm thế nào có thể đang thâm nhập rất mạo hiểm trên đại dương không bản đồ? Sự thật hay hạnh phúc không thể hiện diện nếu không thực hiện chuyến hành trình vào những phương cách của cái tôi. Bạn không thể đi xa nếu bạn bị trói buộc. Đồng hóa là một nơi ẩn náu. Một nơi ẩn náu cần sự bảo vệ, và cái mà được bảo vệ chẳng mấy chốc bị hủy diệt. Đồng hóa tạo ra sự hủy diệt cho chính nó, và thế là xung đột liên tục giữa những đồng hóa khác nhau.

 Chúng ta càng đấu tranh ủng hộ hay chống lại sự đồng hóa nhiều bao nhiêu, sự kháng cự với đang hiểu rõ càng nhiều bấy nhiêu. Nếu người ta nhận biết được toàn qui trình đồng hóa, phía bên ngoài cũng như phía bên trong, nếu người ta thấy rằng diễn tả phía bên ngoài của nó được chiếu rọi bởi đòi hỏi phía bên trong, vậy thì có khả năng khám phá và hạnh phúc. Anh ấy người mà đã đồng hóa không bao giờ có thể biết được tự do, mà một mình nó, tất cả sự thật hiện diện. 

 

_________________________________________________

 

Chương 3

BÀN TÁN VÀ LO LẮNG

 

B

àn tán và lo lắng giống nhau lạ lùng. Cả hai đều là kết quả của một cái trí náo động. Một cái trí náo động phải cần vô vàn thay đổi của những diễn tả và những hành động, nó phải bị bận tâm; nó phải luôn luôn gia tăng những cảm xúc, những quan tâm thoáng chốc, và bàn tán chứa đựng những yếu tố của tất cả điều này. Bàn tán là chính sự đối nghịch của mãnh liệt và đúng đắn. Nói về một người khác, dễ chịu hay hiểm độc, là một tẩu thoát khỏi chính người ta, và tẩu thoát là nguyên nhân của sự náo động. Trong chính bản chất của nó, tẩu thoát là náo động. Quan tâm những công việc của những người khác dường như là sự bận tâm của hầu hết mọi người, và quan tâm này tự thể hiện trong việc đọc vô số những tạp chí và những tờ báo có những mục lượm lặt đó đây của chúng, những câu chuyện về những vụ sát nhân, những vụ ly dị và vân vân.

 Bởi vì chúng ta quan tâm đến điều gì những người khác suy nghĩ về chúng ta, thế là chúng ta nóng lòng muốn biết tất cả mọi việc về họ; và từ điều này nảy sinh những hình thức tinh tế và thô thiển của sự kênh kiệu và sự tôn sùng uy quyền. Vẫn vậy, chúng ta hướng ngoại nhiều hơn và bên trong lại trống rỗng. Chúng ta càng hướng ngoại nhiều bao nhiêu, càng phải có những cảm xúc và những xao nhãng nhiều bấy nhiêu, và việc này là căn nguyên của một cái trí không bao giờ yên lặng, không thể thâm nhập và khám phá thăm thẳm.

 Bàn tán là một biểu lộ của một cái trí náo động; nhưng chỉ yên lặng không thể hiện một cái trí yên lặng. Yên lặng không hiện diện cùng sự kiềm chế hay kháng cự; nó hiện diện cùng đang hiểu rõ cái gì là. Muốn hiểu rõ cái gì là đòi hỏi sự nhận biết nhạy bén, bởi vì cái gì là không đứng yên.

 Nếu chúng ta không lo lắng, hầu hết chúng ta sẽ cảm thấy rằng chúng ta không đang sống; đối với hầu hết chúng ta, đấu tranh với một vấn đề là một thể hiện của sự hiện diện. Chúng ta không thể tưởng tượng sống mà không có một vấn đề; và chúng ta càng bận tâm bởi một vấn đề nhiều bao nhiêu, chúng ta nghĩ rằng chúng ta càng tỉnh táo nhiều bấy nhiêu. Sự căng thẳng liên tục về một vấn đề mà chính sự suy nghĩ đã tự tạo ra chỉ làm tối tăm cái trí, khiến cho nó vô cảm và kiệt lực.

 Tại sao lại có sự bận tâm liên tục bởi một vấn đề? Liệu lo lắng sẽ giải quyết được vấn đề? Hay đáp án của vấn đề hiện diện khi cái trí yên lặng? Nhưng đối với hầu hết mọi người, một cái trí yên lặng là một cái trí khá kinh hãi; họ sợ hãi sự yên lặng, bởi vì chỉ có chúa mới biết được điều gì họ có lẽ khám phá trong chính họ, và lo lắng là một phòng ngừa. Một cái trí sợ hãi sự khám phá phải luôn luôn đang phòng vệ, và náo động là sự phòng vệ của nó.

 Qua sự căng thẳng liên tục, qua thói quen và ảnh hưởng của những hoàn cảnh, những tầng ý thức bên ngoài của cái trí đã bị kích động và náo động. Sự tồn tại hiện đại khuyến khích sự hoạt động và sự xao nhãng trên bề mặt này, nó là một hình thức khác của tự phòng vệ. Phòng vệ là kháng cự, nó ngăn cản đang hiểu rõ. Lo lắng, giống như bàn tán, có sự kết hợp của mãnh liệt và nghiêm túc; nhưng nếu người ta quan sát cặn kẽ hơn người ta sẽ thấy rằng nó nảy sinh từ sự quyến rũ và không phải là sự đúng đắn. Quyến rũ luôn luôn thay đổi, và đó là lý do tại sao những mục tiêu của bàn tán và lo lắng thay đổi. Thay đổi chỉ là sự tiếp tục được bổ sung. Bàn tán và lo lắng có thể kết thúc chỉ khi nào sự náo động của cái trí được hiểu rõ. Chỉ kháng cự, kiểm soát hay kỷ luật sẽ không tạo ra sự yên lặng, nhưng chỉ làm tối tăm cái trí, đang khiến cho nó vô cảm và giới hạn.

 Hiếu kỳ không là phương cách của đang hiểu rõ. Đang hiểu rõ hiện diện cùng đang hiểu rõ về chính mình. Anh ấy người mà đau khổ không hiếu kỳ; và chính hiếu kỳ, cùng những gợi ý phỏng đoán của nó, là một cản trở cho đang hiểu rõ về chính mình. Phỏng đoán, giống như hiếu kỳ, là một thể hiện của sự náo động; và một cái trí náo động, dù tài năng đến chừng nào, hủy diệt đang hiểu rõ và hạnh phúc.

 

_________________________________________________

 

Chương 4

SUY NGHĨ VÀ TÌNH YÊU

 

S

uy nghĩ cùng nội dung cảm xúc và cảm tính của nó, không là tình yêu. Suy nghĩ luôn luôn phủ nhận tình yêu. Suy nghĩ được hình thành dựa vào ký ức, và tình yêu không là ký ức. Khi bạn suy nghĩ về người nào đó mà bạn thương yêu, suy nghĩ đó không là tình yêu. Bạn có thể nhớ lại những thói quen của một người bạn, những cách cư xử, những đặc điểm, và suy nghĩ về những biến cố dễ chịu hay khó chịu trong sự liên hệ của bạn với người đó, nhưng những hình ảnh mà suy nghĩ khơi dậy không là tình yêu. Bởi chính bản chất của nó, suy nghĩ là tách rời. Ý thức của thời gian và không gian, của tách rời và đau khổ, được sinh ra từ qui trình suy nghĩ, và chỉ khi nào qui trình suy nghĩ kết thúc mới có thể có tình yêu.

 Chắc chắn suy nghĩ gây ra cảm thấy của quyền sở hữu, tính sở hữu đó mà nhận biết được hay không nhận biết được nuôi dưỡng sự ghen tuông. Nơi nào ghen tuông hiện diện, chắc chắn tình yêu không hiện diện; và tuy nhiên với hầu hết mọi người, ghen tuông được sử dụng như một thể hiện của tình yêu. Ghen tuông là kết quả của suy nghĩ, nó là một phản ứng thuộc nội dung cảm xúc của suy nghĩ. Khi cảm thấy của sở hữu hay được sở hữu bị ngăn cản, có trạng thái trống rỗng đó đến mức độ ghen tuông thế chỗ tình yêu. Do bởi suy nghĩ đảm đương vai trò của tình yêu nên tất cả những phức tạp và những đau khổ nảy sinh.

 Nếu bạn không suy nghĩ về một người khác, bạn sẽ nói rằng bạn không thương yêu người đó. Nhưng liệu nó là tình yêu khi bạn có suy nghĩ về người đó? Nếu bạn không suy nghĩ về một người bạn mà bạn nghĩ rằng bạn thương yêu, bạn sẽ kinh hãi, đúng chứ? Nếu bạn không suy nghĩ về một người bạn đã chết, bạn sẽ nghĩ rằng bạn không trung thành, không thương yêu, và vân vân. Bạn sẽ nghĩ rằng một trạng thái như thế là dửng dưng, vô cảm, và thế là bạn bắt đầu suy nghĩ về người đó, bạn sẽ có những bức ảnh, những hình ảnh làm bằng tay hay bằng cái trí; nhưng vẫn vậy, lấp đầy quả tim của bạn bằng những sự việc của cái trí là không còn nhường lại chỗ nào cho tình yêu. Khi bạn ở cùng một người bạn, bạn không suy nghĩ về anh ấy; chỉ khi anh ấy vắng mặt thì sự suy nghĩ bắt đầu tái tạo những quang cảnh và những trải nghiệm mà là chết rồi. Sự tái tạo của quá khứ được gọi là tình yêu. Vì vậy, với hầu hết chúng ta, tình yêu là chết rồi, một phủ nhận của sống; chúng ta sống cùng quá khứ, cùng cái chết rồi, thế là chính chúng ta cũng chết rồi, mặc dù chúng ta gọi nó là tình yêu.

 Luôn luôn qui trình suy nghĩ phủ nhận tình yêu. Chính suy nghĩ mới tạo tác những phức tạp thuộc cảm xúc, không phải tình yêu. Suy nghĩ là cản trở to tát nhất đối với tình yêu. Suy nghĩ tạo ra một phân chia giữa cái gì là và cái gì nên là, và trên sự phân chia này luân lý được đặt nền tảng; nhưng luân lý và vô luân lý không biết được tình yêu. Cấu trúc luân lý, được tạo ra bởi cái trí để giam cầm những quan hệ xã hội vào cùng nhau, không là tình yêu, nhưng là một qui trình khô cằn giống như qui trình của xi măng.

 Suy nghĩ không dẫn đến tình yêu, suy nghĩ không vun đắp tình yêu; bởi vì tình yêu không thể được vun đắp như một cái cây trong vườn. Chính ham muốn vun đắp tình yêu là hành động của suy nghĩ.

 Nếu bạn nhận biết, bạn sẽ thấy suy nghĩ đóng một vai trò quan trọng như thế nào trong sống của bạn. Chắc chắn suy nghĩ có vị trí của nó, nhưng nó không liên quan đến tình yêu trong bất kỳ cách nào. Cái gì liên quan đến suy nghĩ có thể được hiểu rõ bởi suy nghĩ, nhưng cái không liên quan đến suy nghĩ không thể bị trói buộc bởi cái trí. Bạn sẽ hỏi, vậy thì tình yêu là gì? Tình yêu là một trạng thái hiện diện khi suy nghĩ không hiện diện; nhưng chính định nghĩa về tình yêu lại là một qui trình suy nghĩ, và vì vậy nó không là tình yêu. Chúng ta phải hiểu rõ suy nghĩ, và không cố gắng nắm bắt tình yêu nhờ vào suy nghĩ. Phủ nhận suy nghĩ không sáng tạo tình yêu. Có tự do khỏi suy nghĩ chỉ khi nào ý nghĩa sâu thẳm của nó được hiểu rõ trọn vẹn; và muốn nhận được cái này, đang hiểu rõ thăm thẳm về chính mình là cốt lõi, không phải những khẳng định hời hợt và hão huyền. Thiền định và không lặp lại, nhận biết và không định nghĩa, phơi bày những phương cách của suy nghĩ. Nếu không nhận biết và trải nghiệm những phương cách của suy nghĩ, tình yêu không thể hiện diện.

 

_________________________________________________

 

Chương 5

MỘT MÌNH VÀ CÔ LẬP

 

M

ặt trời đã lặn và những cái cây sẫm màu hùng vĩ tương phản bầu trời đen kịt. Con sông mạnh mẽ, rộng rãi chảy an bình và bất động. Mặt trăng vừa nhìn thấy được trên đường chân trời: nó đang xuất hiện giữa hai cái cây lớn, nhưng nó vẫn chưa tỏa ra những cái bóng.

 Chúng tôi đi thẳng lên bờ dốc đứng của con sông và sử dụng một con đường được vây quanh bởi những cánh đồng lúa mì xanh tươi. Con đường này là một con đường rất cổ xưa; nhiều ngàn người đã giẫm lên nó, và nó phong phú trong truyền thống và yên lặng. Nó lang thang giữa những cánh đồng và những cây xoài, những cây me và những ngôi đền bỏ hoang. Có những cái vườn lớn, những cây đậu ngọt đang tỏa ra không khí hương thơm ngạt ngào. Chim chóc đang nghỉ ngơi qua đêm, và một cái hồ lớn đang bắt đầu phản ảnh các vì sao. Thiên nhiên không hiệp thông buổi tối đó. Cây cối kênh kiệu, chúng đã thu vào sự yên lặng và sự tối tăm của chúng. Một vài dân làng huyên thuyên đi ngang qua trên những chiếc xe đạp của họ, và lại nữa có sự yên lặng thăm thẳm và an bình đó hiện diện khi tất cả mọi sự vật đứng một mình.

 Một mình này không là trạng thái cô độc gây sợ hãi, gây đau khổ. Nó là một mình của đang hiện diện; nó phong phú, nguyên vẹn, không thoái hóa. Cây me đó không hiện diện nếu không là chính nó. Một mình cũng thế. Người ta là một mình giống như ngọn lửa, giống như bông hoa, nhưng người ta không nhận biết sự tinh khiết của nó và sự mãnh liệt của nó. Thật ra, người ta có thể hiệp thông chỉ khi nào có trạng thái một mình. Một mình không là kết quả của phủ nhận, của tự khép kín. Một mình là sự sạch sẽ khỏi tất cả những động cơ, khỏi tất cả những theo đuổi bởi ham muốn, khỏi tất cả những mục đích. Một mình không là một sản phẩm cuối cùng của cái trí. Bạn không thể ao ước được một mình. Một ao ước như thế chỉ là một tẩu thoát khỏi sự đau khổ của không thể hiệp thông.

 Cô độc, cùng sợ hãi và đau khổ của nó, là cô lập, hành động không thể tránh khỏi của cái tôi. Qui trình cô lập này, dù lan rộng hay thâu hẹp, dẫn đến sự rối loạn. Cô độc không bao giờ có thể tạo ra một mình; một cái phải kết thúc cho cái kia hiện diện. Một mình không thể tách rời và cô độc lại tách rời. Cái mà một mình là linh động và vì vậy vĩnh cửu. Chỉ một mình mới có thể hiệp thông cùng cái không nguyên nhân, cái không đo lường. Đối với một mình, sự sống là vĩnh cửu; đối với một mình, không có chết. Một mình luôn luôn đang hiện diện.

 Mặt trăng vừa ló dạng trên những đỉnh cây cao, và những cái bóng dày và đen. Một con chó bắt đầu sủa khi chúng tôi đi ngang qua ngôi làng nhỏ để quay lại dạo bộ theo bờ sông. Con sông bất động đến độ nó bắt được những những vì sao và những ánh sáng của chiếc cầu dài giữa những dòng nước của nó. Thẳng lên cao bên bờ sông những đứa trẻ đang đứng cười đùa, và một em bé đang khóc. Người dân chài đang chùi rửa và cuốn lưới của họ lại. Một con chim đêm lặng lẽ bay qua. Người nào đó bắt đầu hát trên bờ bên kia của con sông rộng, và những từ ngữ của anh ấy rõ ràng và xuyên thấu. Lại nữa, một mình lan tỏa mọi ngõ ngách của sự sống.

_________________________________________________

 

Chương 6

ĐỆ TỬ VÀ NGƯỜI THẦY

 

“T

ôi đã được bảo rằng tôi là đệ tử của một người thầy cõi trên nào đó,” anh ấy bắt đầu. “Tôi thực sự muốn biết ông suy nghĩ thế nào về việc này. Tôi lệ thuộc vào một tổ chức mà ông biết, và những người đứng đầu phía bên ngoài mà đại diện cho những người lãnh đạo hay những người thầy cõi trên phía bên trong đã bảo tôi rằng bởi vì công việc của tôi hiến dâng cho tổ chức nên tôi đã được công nhận là một đệ tử. Tôi đã được bảo rằng tôi có một cơ hội để trở thành một người khai tâm ở mức độ cao nhất trong cuộc đời này.” Anh ấy thâu nhận tất cả điều này rất nghiêm túc, và chúng tôi nói chuyện khá lâu.

 Trong bất kỳ hình thức nào, phần thưởng gây thỏa mãn cực kỳ, đặc biệt một phần thưởng tạm gọi là tinh thần khi người ta dửng dưng với những vinh quang của thế gian. Hoặc khi người ta không thành công lắm trong thế gian này, nó rất thỏa mãn khi lệ thuộc vào một nhóm đặc biệt được chọn lựa bởi người nào đó mà được nghĩ là một hiện diện tinh thần tiến bộ cao, bởi vì nếu thế người ta là bộ phận của một nhóm đang làm việc cho một ý tưởng vĩ đại, và tự nhiên người ta phải được tưởng thưởng cho sự vâng lời của người ta và cho sự hiến dâng mà người ta đã thực hiện cho nguyên nhân đó. Nếu nó không là một phần thưởng trong ý nghĩa đó, nó là một công nhận về sự tiến bộ tinh thần của người ta; hay như trong một tổ chức điều hành khéo léo, sự hiệu quả của người ta được công nhận với mục đích để người ta làm việc tốt đẹp hơn.

 Trong một thế giới nơi sự thành công được tôn thờ, loại tự tiến bộ này được hiểu rõ và được khuyến khích. Nhưng để được bảo bởi người khác rằng bạn là một đệ tử của một người thầy, hay suy nghĩ rằng bạn là như thế, chắc chắn dẫn đến nhiều hình thức xấu xa của sự trục lợi. Bất hạnh thay, cả người trục lợi lẫn kẻ bị trục lợi đều cảm thấy vui mừng trong sự liên hệ lẫn nhau của họ. Tự thỏa mãn lan rộng này được nghĩ là sự tiến bộ của tinh thần, và nó trở thành đặc biệt xấu xa và tàn nhẫn khi bạn có người trung gian giữa đệ tử và người thầy cõi trên, khi người thầy ở một quốc gia khác hay không thể tiếp cận được và bạn không có sự tiếp cận trực tiếp bằng cá nhân với ông ấy. Không tiếp cận này và không có sự tiếp xúc trực tiếp mở cánh cửa đến tự dối gạt và đến những ảo tưởng vĩ đại nhưng trẻ con; và những ảo tưởng này bị trục lợi bởi những người ranh mãnh, bởi những người theo đuổi danh vọng và uy quyền.

 Phần thưởng và hình phạt tồn tại chỉ khi nào không có sự khiêm tốn. Khiêm tốn không là một kết quả cuối cùng của những luyện tập và những phủ nhận thuộc tinh thần. Khiêm tốn không là một thành tựu, nó không là một đức hạnh phải được vun quén. Một đức hạnh vun quén không là một đức hạnh, bởi vì lúc đó nó chỉ là một hình thức khác của sự thành tựu, một ghi lại được thực hiện. Một đức hạnh vun quén không là sự phủ nhận của cái tôi, nhưng là một khẳng định tiêu cực của cái tôi.

 Khiêm tốn là không nhận biết sự phân chia của những người cao quý hơn và những người thấp hèn hơn, của người thầy và đệ tử. Chừng nào còn có một phân chia giữa người thầy và đệ tử, giữa sự thật và bạn, đang hiểu rõ không thể xảy ra. Trong đang hiểu rõ sự thật, không có người thầy hay đệ tử, cũng không có người đi trước hay người đi sau. Sự thật là đang hiểu rõ cái gì là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc mà không có gánh nặng hay cặn bã của khoảnh khắc vừa xảy ra.

 Phần thưởng và hình phạt chỉ củng cố cái tôi, mà phủ nhận sự khiêm tốn. Khiêm tốn ở trong hiện tại, không phải trong tương lai. Bạn không thể trở thành khiêm tốn. Chính sự trở thành là sự tiếp tục của tự quan trọng, mà tự phơi bày trong sự luyện tập một đức hạnh. Ý muốn phải thành công, phải trở thành của chúng ta mạnh mẽ làm sao! Làm thế nào thành công và khiêm tốn có thể theo cùng nhau? Tuy nhiên đó là điều gì những người trục lợi và bị trục lợi “tinh thần” theo đuổi, và thế là sẵn có xung đột và đau khổ.

 “Ông có ý nói rằng người thầy cõi trên không tồn tại, và rằng là một đệ tử của tôi là một ảo tưởng, một lừa dối?” anh ấy hỏi.

 Liệu người thầy có tồn tại hay không tồn tại là vấn đề quá tầm thường. Nó quan trọng đối với người trục lợi, đối với những trường phái và những tổ chức bí mật; nhưng đối với người mà đang tìm kiếm sự thật, mà mang hạnh phúc tối thượng, chắc chắc nghi vấn này hoàn toàn không liên quan. Người giàu có và người nghèo khổ cũng quan trọng như người thầy và người đệ tử. Liệu những người thầy cõi trên có tồn tại hay không tồn tại, liệu có những phân biệt về những người khai tâm, những đệ tử và vân vân, không quan trọng, nhưng điều gì quan trọng là đang hiểu rõ về chính bạn. Nếu không đang hiểu rõ về chính bạn, sự suy nghĩ của bạn, điều mà bạn suy luận ra, không có cơ sở. Nếu đầu tiên không có đang hiểu rõ về chính bạn, làm thế nào bạn có thể biết điều gì là sự thật? Chắc chắn, ảo tưởng xảy ra nếu không có đang hiểu rõ về chính bạn. Thật trẻ con khi được sai bảo và chấp nhận rằng bạn là cái này hay cái kia. Hãy thận trọng với cái người trao tặng bạn một phần thưởng trong thế giới này hay trong cuộc đời kế tiếp.

 

_________________________________________________

 

Chương 7

NGƯỜI GIÀU VÀ NGƯỜI NGHÈO

 

N

óng nực, ẩm ướt và sự ồn ào của thành phố rất lớn đó tỏa đầy không gian. Cơn gió nhẹ ấm áp từ biển, có mùi nhựa đường và xăng. Cùng mặt trời hoàng hôn, đỏ rực trong những dòng nước xa xôi, thời tiết vẫn còn nóng nực không thể chịu đựng nổi. Lúc này, nhóm người đông đúc chật kín căn phòng đã rời đi, và chúng tôi ra ngoài đường.

 Những con vẹt, giống như những tia sáng xanh rực rỡ, đang quay lại tổ ấm. Từ sáng sớm chúng đã bay về hướng bắc, nơi có nhiều vườn cây ăn quả, những cánh đồng xanh và vùng quê khoáng đạt, và khi chạng vạng chúng quay về qua đêm trong những cái cây của thành phố. Đường bay của chúng không bao giờ êm ả nhưng luôn luôn liều lĩnh, ồn ào và lấp lánh. Chúng không bao giờ bay thẳng giống như những con chim khác, nhưng luôn luôn vẫy cánh sang trái hay sang phải, hay bỗng nhiên lao vào một cái cây. Chúng là những con chim náo động nhất trong đường bay, nhưng chúng đẹp làm sao với những cái mỏ màu đỏ và một màu xanh lá cây vàng rực mà chính là sự tột đỉnh của ánh sáng. Những con chim kền kền, nặng nề và xấu xí, lượn vòng quanh và nghỉ đêm trên những cây dừa.

 Một người đàn ông đang thổi sáo xuất hiện, anh ấy là một người giúp việc thuộc loại nào đó. Anh ấy đi thẳng lên đồi, vẫn đang thổi, và chúng tôi theo sau; anh ấy quẹo vào một trong những con đường bên hông, miệng vẫn không ngừng thổi. Thật lạ lùng khi nghe tiếng sáo trong một thành phố ồn ào, và âm thanh của nó xuyên thấu quả tim. Nó rất hay, và chúng tôi theo sau người chơi sáo từ khoảng cách xa xa. Chúng tôi băng qua nhiều con đường rồi đến một con đường rộng rãi hơn, có ánh đèn sáng sủa. Xa hơn nữa, một nhóm người đang ngồi bắt chéo chân bên lề đường, và người thổi sáo nhập vào bọn họ. Chúng tôi cũng vậy; và chúng tôi ngồi quanh trong khi anh ấy thổi sáo. Họ là những người tài xế, những người giúp việc, những người gác đêm, cùng nhiều trẻ em và một hay hai con chó; những chiếc xe đi ngang qua, một chiếc được lái bởi một người tài xế; một thiếu phụ ở bên trong, ăn mặc sang trọng và chỉ có một mình, đèn được bật lên bên trong xe. Một chiếc xe khác ngừng lại; người tài xế xuống xe và ngồi cùng chúng tôi. Tất cả họ đang nói chuyện vui vẻ, cười cợt và vung vẩy hai bàn tay, nhưng tiếng sáo không bị dao động, và có hài lòng trong nó.

 Chốc lát sau, chúng tôi đứng dậy và đi theo một con đường dẫn đến bờ biển ngang qua những ngôi nhà sáng trưng của những người giàu có. Những gia đình giàu có có một không khí đặc trưng riêng của họ. Dù có văn hóa, kín đáo, cổ điển và lịch sự như thế nào, những người giàu có có sự cách biệt được bảo đảm và không thể dò xét được, một cứng rắn và vững vàng bất khả xâm phạm Họ là những người sở hữu của cải, nhưng bị sở hữu bởi của cải, mà còn tồi tệ hơn cả chết. Sự tự phụ của họ là lòng bác ái, họ nghĩ rằng họ là những người được ủy thác cho những của cải của họ; họ có của bố thí, tạo ra những hội từ thiện; họ là những người sáng tạo, những người xây dựng, những người trao tặng. Họ xây dựng những nhà thờ, những đền chùa, nhưng thượng đế của họ là thượng đế của vàng bạc của họ. Cùng quá nhiều nghèo khổ và thoái hóa, người ta phải có một lớp da thật dày để trở thành giàu có. Một số trong họ đến để chất vấn, để tranh cãi, để tìm ra sự thật. Đối với những người giàu có cũng như những người nghèo khổ, tìm được sự thật gian nan lắm. Những người nghèo khổ thèm khát được giàu có và quyền hành, và những người giàu có lại bị trói buộc trong mạng lưới của hành động riêng của họ; và tuy nhiên họ tin tưởng và mạo hiểm đến gần. Họ phỏng đoán, không chỉ về thị trường, nhưng còn về cái tối thượng. Họ đùa giỡn với cả hai, nhưng được thành công chỉ với cái gì trong những quả tim của họ. Những niềm tin và những nghi lễ của họ, những hy vọng, những sợ hãi của họ không liên quan gì đến sự thật, bởi vì những quả tim của họ trống rỗng. Phía bên ngoài càng thể hiện sự vĩ đại nhiều bao nhiêu, sự nghèo khó phía bên trong càng to tát bấy nhiêu.

 Từ bỏ thế giới của vị trí, của cải, tiện nghi là một vấn đề tương đối đơn giản; nhưng gạt đi sự khao khát để hiện diện, để trở thành, đòi hỏi sự thông minh và hiểu rõ vô cùng. Uy quyền của sự thật đó, cũng giống hệt như uy quyền của tài năng và khả năng. Rõ ràng, hình thức đặc biệt này của sự tin tưởng là một hoạt động của cái tôi; và mặc dù thực hiện việc đó rất gian nan, loại tin tưởng và uy quyền này có thể được xóa sạch. Nhưng cái gì còn tinh tế và bí ẩn nhiều hơn, là uy quyền và động cơ trong đang khao khát để trở thành. Tự bành trướng trong bất kỳ hình thức nào, dù qua của cải hay qua đạo đức, là một qui trình của xung đột, gây ra thù hận và rối loạn. Một cái trí nặng nề bởi đang trở thành không bao giờ có thể yên lặng, bởi vì yên lặng không là một kết quả của luyện tập hay của thời gian. Yên lặng là một trạng thái của đang hiểu rõ, và đang trở thành khước từ đang hiểu rõ này. Đang trở thành sáng chế ý thức của thời gian, mà thật ra chính là sự trì hoãn của đang hiểu rõ. “Tôi sẽ là” là một ảo tưởng được sinh ra từ tự quan trọng.

 Biển cả luôn náo động như thành phố, nhưng sự náo động của nó có chiều sâu và chất lượng. Vì sao hôm ngay đường chân trời. Chúng tôi quay lại qua một con đường đông đúc những chiếc xe buýt, xe hơi và con người. Một người nằm ngủ trần truồng bên lề đường; ông ấy là một người ăn mày, kiệt sức, thiếu ăn, và thật khó khăn để đánh thức ông ấy. Xa xa là những bãi cỏ xanh và những bông hoa rực rỡ của một công viên.

 

_________________________________________________

 

Chương 8

NGHI LỄ VÀ CẢI ĐẠO

 

T

rong một vùng khép kín rộng lớn, giữa nhiều cây cối là một nhà thờ. Mọi người, da đen và da trắng, đang đi vào. Phía bên trong có nhiều ánh sáng hơn trong những nhà thờ ở Châu âu, nhưng sự xếp đặt đều giống hệt. Nghi lễ đang iến hành và có vẻ đẹp. Khi nó chấm dứt, chẳng có bao nhiêu người da đen nói chuyện với người da trắng, hay người da trắng nói chuyện với người da đen, và tất cả chúng ta đều đi theo những phương hướng khác biệt của chúng ta.

 Trên một lục địa khác có một ngôi đền, và họ đang hát một bài hát bằng tiếng Phạn; nghi lễ, một nghi thức Ấn giáo, đang được thực hiện. Giáo dân thuộc về khuôn mẫu văn hóa khác. Âm điệu của những từ ngữ tiếng Phạn rất xuyên thấu và đầy uy quyền; nó có một trọng lượng và chiều sâu lạ thường.

 Bạn có thể chuyển từ một niềm tin sang một niềm tin khác, từ một tín điều sang một tín điều khác, nhưng bạn không thể được chuyển đến đang hiểu rõ về sự thật. Niềm tin không là sự thật. Bạn có thể thay đổi cái trí của bạn, quan điểm của bạn, nhưng sự thật hay Thượng đế không là một niềm tin: nó là một trải nghiệm không được đặt nền tảng trên niềm tin hay giáo điều, hay trên bất kỳ trải nghiệm có sẵn nào đó. Nếu bạn có một trải nghiệm được sinh ra từ niềm tin, trải nghiệm của bạn là phản ứng bị quy định của niềm tin đó. Nếu bạn có một trải nghiệm bất ngờ, tự phát, và sáng chế trải nghiệm thêm nữa dựa vào trải nghiệm đầu tiên, vậy thì trải nghiệm đó chỉ là một tiếp tục của ký ức mà phản ứng để tiếp xúc với hiện tại. Ký ức luôn luôn chết rồi, sống lại chỉ trong tiếp xúc cùng hiện tại đang sống.

 Cải đạo là sự thay đổi từ một niềm tin hay giáo điều sang một thứ khác, từ một nghi lễ sang một nghi lễ gây thỏa mãn nhiều hơn, và nó không mở cánh cửa đến sự thật. Trái lại, sự thỏa mãn là một cản trở đối với sự thật. Và tuy nhiên đó là điều gì những tôn giáo có tổ chức và những nhóm người tôn giáo đang gắng sức thực hiện: cải đạo bạn đến một giáo điều, một mê tín, hay một hy vọng hợp lý hơn hay ít hợp lý hơn. Họ trao tặng bạn một cái cũi đẹp đẽ hơn. Nó có lẽ hay nó không có lẽ thoải mái, lệ thuộc vào tính khí của bạn, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào nó đều là một nhà tù.

 Thuộc tôn giáo và chính trị, tại những mức độ khác nhau của văn hóa, sự cải đạo này luôn luôn đang xảy ra. Những tổ chức, cùng những người đứng đầu của họ, phát triển nhờ vào giam cầm bạn trong những khuôn mẫu học thuyết mà họ đưa ra, dù của tôn giáo hay kinh tế. Trong qui trình này có sẵn sự trục lợi lẫn nhau. Sự thật nằm ngoài tất cả những khuôn mẫu, sợ hãi và hy vọng. Nếu bạn muốn khám phá hạnh phúc tối thượng của sự thật, bạn phải đập nát tất cả những nghi lễ và những khuôn mẫu học thuyết.

 Cái trí tìm được an toàn và sức mạnh trong những khuôn mẫu chính trị và tôn giáo, và đây là điều gì tạo ra sự ổn định cho những tổ chức. Luôn luôn có những người phản động và những người mới gia nhập. Những điều này khiến cho những tổ chức, cùng những đầu tư và tài sản của chúng, tiếp tục, và cả quyền hành lẫn thanh danh của những tổ chức quyến rũ những người tôn sùng sự thành công và sự thông minh của thế gian. Khi cái trí phát giác những khuôn mẫu cũ kỹ không còn gây thỏa mãn và có sức sống nữa, nó được thay đổi đến những niềm tin và những giáo điều đang củng cố và đang gây thỏa mãn nhiều hơn. Vì thế cái trí là sản phẩm của môi trường sống đang tự tạo tác và đang tự duy trì dựa vào những cảm xúc và những đồng hóa; và đó là lý do tại sao cái trí bám vào những mã số của những cách cư xử, những khuôn mẫu của suy nghĩ và vân vân. Chừng nào cái trí còn là kết quả của quá khứ, nó không bao giờ có thể khám phá sự thật hay cho phép sự thật hiện diện. Trong bám vào những tổ chức nó loại bỏ sự tìm kiếm sự thật.

 Chắc chắn, những nghi lễ trao tặng cho những người tham gia một bầu không khí mà trong đó họ cảm thấy tốt lành. Cả những nghi lễ tập thể lẫn cá thể tạo ra một yên lặng nào đó cho cái trí; chúng cống hiến một tương phản đầy sức sống đối với sống lờ đờ hàng ngày. Có một lượng nào đó của vẻ đẹp và trật tự trong những nghi lễ, nhưng tại cơ bản chúng là những chất kích thích; và với tất cả những chất kích thích, chẳng mấy chốc chúng làm tối tăm cả cái trí lẫn quả tim. Những nghi lễ trở thành thói quen; chúng trở thành một nhu cầu và người ta không thể làm bất kỳ việc gì nếu không có chúng. Nhu cầu này được hiểu như là một mới mẻ lại của tinh thần, một tập hợp sức mạnh để đối phó cuộc đời, một thiền định hàng tuần hay hàng ngày, và vân vân; nhưng nếu người ta quan sát kỹ càng qui trình này, người ta thấy rằng những nghi lễ là sự lặp lại rỗng tuếch mà cống hiến một chỗ trú ẩn tuyệt vời, được kính trọng, thoát khỏi đang hiểu rõ về chính mình. Nếu không có đang hiểu rõ về chính mình, hành động chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Sự lặp lại những câu kinh, những từ ngữ và những cụm từ, làm cho cái trí mê muội, mặc dù lúc đó nó cũng gây phấn khởi. Trong trạng thái mê muội này, những trải nghiệm có xảy ra nhưng chúng là tự chiếu rọi. Dù thỏa mãn đến chừng nào, những trải nghiệm này đều là ảo tưởng. Đang trải nghiệm sự thật không xảy ra qua bất kỳ lặp lại nào, qua bất kỳ luyện tập nào. Sự thật không có một kết thúc, một kết quả, một mục đích; nó không thể được mời mọc, bởi vì nó không là một sự việc của cái trí. 

 

_________________________________________________

 

Chương 9

HIỂU BIẾT

 

C

húng tôi đang đợi xe lửa, và nó đến trễ. Sân ga bẩn thỉu và ồn ào, không khí khô khan. Nhiều người cũng đang đợi, giống như chúng tôi. Trẻ con đang khóc, một bà mẹ đang cho con bú, người bán hàng đang gào thét những món hàng của họ, nước trà và cà phê đang được bán, và nó quả là một nơi náo nhiệt lẫn bận rộn. Chúng tôi đang đi bộ lên xuống sân ga, nhìn ngắm những bước chân riêng của chúng tôi và chuyển động của sự sống quanh chúng tôi. Một thanh niên xuất hiện trước chúng tôi và nói bằng tiếng Anh ngắt quãng. Anh ấy nói đã quan sát chúng tôi, và cảm thấy bị thúc đẩy phải nói điều gì đó với chúng tôi. Bằng một cảm thấy lạ thường, anh ấy hứa sẽ sống một sống trong sạch, và rằng từ giây phút này anh ấy sẽ không bao giờ hút thuốc lá nữa. Anh ấy nói rằng anh ấy không được giáo dục, bởi vì anh ấy chỉ là một người đạp xích lô. Anh ấy có hai mắt cương nghị và nụ cười dễ thương.

 Chốc sau xe lửa đến. Trong toa xe một người đàn ông tự giới thiệu về mình. Ông ấy là một học giả nổi tiếng; ông ấy biết nhiều ngôn ngữ và có thể dễ dàng trích dẫn một câu nói trong chúng. Ông ấy đã lớn tuổi và nhiều hiểu biết, giàu có và tham vọng. Ông ấy nói về thiền định, nhưng ông ấy tạo ra cảm giác rằng ông ấy không nói từ trải nghiệm riêng của chính mình. Thượng đế của ông ấy là thượng đế của những quyển sách. Thái độ của ông ấy đối với sống chỉ là truyền thống và tuân phục; ông ấy tin tưởng sự hôn nhân xếp đặt khi còn nhỏ tuổi và một hệ thống nghiêm ngặt của sống. Ông ấy nhận biết được giai cấp hay tầng lớp đặc quyền riêng của ông ấy và những khác biệt trong khả năng thuộc trí năng của những tầng lớp. Ông ấy tự phụ lạ lùng trong hiểu biết và vị trí của ông ấy. 

 Mặt trời đang lặn, và xe lửa đang băng qua vùng quê dễ thương. Gia súc đang về nhà, tung bụi vàng rực. Có những đám mây đen, đồ sộ trên đường chân trời, và tiếng sấm ầm ầm xa xa. Cánh đồng xanh tươi đó đang ôm ấp sự hân hoan lạ thường, và ngôi làng đó thanh thản làm sao trong sự bao bọc của hòn núi quanh co. Sự tối tăm đang bắt đầu. Một con hươu to, màu xanh đang ăn trong cánh đồng, thậm chí nó chẳng thèm ngước nhìn chiếc xe lửa đang gầm thét chạy qua.

 Hiểu biết là một lóe sáng giữa hai tối tăm; nhưng hiểu biết không thể thoát ra và vượt khỏi tối tăm đó. Hiểu biết là cần thiết đối với phương pháp kỹ thuật, giống như than đốt cho động cơ; nhưng nó không thể vượt khỏi và vào cái không biết được. Cái không biết được không thể bị trói buộc trong mạng lưới của cái đã được biết. Hiểu biết phải được xóa sạch cho cái không biết được hiện diện; nhưng việc đó gian nan vô cùng!

 Chúng ta có sự hiện diện của chúng ta trong quá khứ, sự suy nghĩ của chúng ta được hình thành trên quá khứ. Quá khứ là cái đã được biết, và phản ứng của quá khứ luôn luôn tỏa bóng lên hiện tại, cái không biết được. Cái không biết được không là tương lai, nhưng hiện tại. Tương lai không là gì cả ngoại trừ quá khứ đang theo đuổi hướng đi của nó lướt qua hiện tại không biết được. Khoảng giữa này, khoảng trống này bị lấp đầy bởi những ánh sáng ngắt đoạn của hiểu biết, đang bịt kín trống không của hiện tại; nhưng trống không này là điều kỳ diệu của sự sống.

 Nghiện ngập vào hiểu biết cũng giống như bất kỳ nghiện ngập nào khác; nó trao tặng một tẩu thoát khỏi sự sợ hãi của trống rỗng, của cô độc, của vỡ mộng, sự sợ hãi của không là gì cả. Ánh sáng của hiểu biết là một nắp đậy mỏng manh của một tối tăm nằm dưới nó mà cái trí không thể nào thấu suốt được. Cái trí sợ hãi cái không biết được này, và vì vậy nó tẩu thoát vào hiểu biết, vào những lý thuyết, những hy vọng, những tưởng tượng; và chính hiểu biết này là một cản trở đối với đang hiểu rõ cái không biết được. Xóa sạch hiểu biết là mời mọc sự sợ hãi; và phủ nhận cái trí, mà là dụng cụ duy nhất của sự nhận thức mà người ta có, là mong manh với đau khổ, với hân hoan. Nhưng không dễ dàng để xóa sạch hiểu biết. Dốt nát là không được tự do khỏi hiểu biết. Dốt nát là không có được đang hiểu rõ về chính mình; và hiểu biết là dốt nát khi không có đang hiểu rõ những phương cách của cái tôi. Đang hiểu rõ về cái tôi là tự do khỏi hiểu biết.

 Có thể có tự do khỏi hiểu biết chỉ khi nào qui trình của thâu lượm, động cơ của tích lũy, được hiểu rõ. Ham muốn tích lũy là ham muốn an toàn, vĩnh cửu. Ham muốn vĩnh cửu này qua đồng hóa, qua chỉ trích và bênh vực, là nguyên nhân của sợ hãi, mà hủy diệt mọi hiệp thông. Khi có hiệp thông, không có nhu cầu của tích lũy. Tích lũy là sự kháng cự tự khép kín, và hiểu biết củng cố sự kháng cự này. Tôn thờ hiểu biết là một hình thức của sùng bái thần tượng, và nó sẽ không xóa sạch xung đột và đau khổ trong sống của chúng ta. Lớp áo của hiểu biết che đậy nhưng không bao giờ có thể giải thoát chúng ta khỏi hoang mang và đau khổ luôn gia tăng. Những phương cách của cái trí không dẫn đến sự thật và hạnh phúc của nó. Biết là khước từ cái không biết được.

 

_________________________________________________

 

Chương 10

KÍNH TRỌNG

 

Ô

ng ấy khẳng định rằng ông ấy không tham lam, rằng ông ấy hài lòng với chút ít, và sống đã quá tốt lành đối với ông ấy, mặc dù ông ấy trải qua những đau khổ thông thường thuộc sự hiện diện của con người. Ông ấy là một người trầm lặng, kín đáo, hy vọng không bị quấy rầy lắm nhờ vào cách sống đơn giản của ông ấy. Ông ấy nói rằng ông ấy không có tham vọng nhưng cầu nguyện Thượng đế ban cho những thứ mà ông ấy có, cho gia đình ông ấy, và thậm chí cho dòng chảy sống của ông ấy. Ông ấy cám ơn vì không bị ngụp lặn trong những vấn đề và những xung đột, như bạn bè và những người thân thuộc. Thật mau lẹ, ông ấy rất được kính trọng và có hạnh phúc trong suy nghĩ rằng ông ấy thuộc về một nhóm người ưu tú của xã hội. Ông ấy không bị quyến rũ bởi những người phụ nữ khác, và có một sống gia đình an bình, mặc dù đã có những cãi cọ thông thường giữa người chồng và người vợ. Ông ấy không có những xấu xa đặc biệt, thường xuyên cầu nguyện và tôn thờ Thượng đế. “Có gì quan trọng với tôi,” ông ấy hỏi, “khi tôi không có những vấn đề gì cả?” Ông ấy không chờ đợi một trả lời, nhưng mỉm cười thỏa mãn và hơi buồn bã rồi tiếp tục kể về quá khứ của ông ấy, điều gì ông ấy đang làm, và loại giáo dục nào ông ấy đang trao cho con cái của ông ấy. Ông ấy tiếp tục nói rằng ông ấy không rộng lượng, nhưng có bố thí chút ít tiền bạc đó đây. Ông ấy cam đoan rằng mỗi người phải đấu tranh để kiếm được một vị trí cho chính họ trong thế giới.

 Kính trọng là một kinh tởm; nó là một “tội lỗi” gây thoái hóa cái trí và quả tim. Nó len lẻn ở trong người ta từ lúc nào không biết được và hủy diệt tình yêu. Được kính trọng là cảm thấy thành công khi tạo ra cho người ta một vị trí trong thế giới, thiết lập quanh người ta một bức tường của vững chắc, của bảo đảm mà theo cùng nó là tiền bạc, quyền hành, khả năng hay đạo đức. Tính loại trừ của sự bảo đảm này nuôi dưỡng thù hận và đối địch trong quan hệ con người, trong xã hội. Những người được kính trọng luôn luôn là tinh hoa của xã hội, vì vậy họ luôn luôn là nguyên nhân của đấu tranh và đau khổ. Những người được kính trọng, giống như những người bị khinh miệt, luôn luôn phó mặc cho những hoàn cảnh; những ảnh hưởng của môi trường sống và trọng tải của truyền thống là vô cùng quan trọng đối với họ, bởi vì những việc này che giấu uy quyền bên trong của họ. Những người được kính trọng luôn luôn là những người phòng vệ, sợ hãi và ngờ vực. Sợ hãi ở trong những quả tim của họ, thế là tức giận là sự chính đáng của họ; đạo đức và niềm tin của họ là sự phòng vệ của họ. Họ giống như cái trống, trống rỗng bên trong nhưng kêu to khi được đánh. Những người được kính trọng không bao giờ có thể mở toang cho sự thật, bởi vì, giống như những người bị khinh miệt, họ bị khép kín trong sự quan tâm của tự hoàn thiện riêng của họ. Hạnh phúc khước từ họ, do bởi họ lẩn trốn sự thật.

 Không tham lam và không rộng lượng có liên quan mật thiết với nhau. Cả hai đều là một qui trình tự khép kín, một hình thức tiêu cực của tự quan tâm về chính mình. Muốn tham lam, bạn phải tích cực, hướng ngoại; bạn phải đấu tranh, ganh đua, hung hăng. Nếu bạn không có năng lượng vô hạn này, bạn không được tự do khỏi tham lam, nhưng chỉ tự khép kín. Hướng ngoại là một quấy rầy, một đấu tranh đau khổ, thế là tự quan tâm về chính mình được che đậy bởi từ ngữ không tham lam. Rộng lượng của bàn tay là một việc, nhưng rộng lượng của quả tim là một việc khác. Rộng lượng của bàn tay là một việc khá đơn giản, lệ thuộc vào khuôn mẫu văn hóa và vân vân; nhưng rộng lượng của quả tim lại có ý nghĩa bao la vô cùng, đòi hỏi đang hiểu rõ và nhận biết tổng thể.

 Lại nữa không rộng lượng là một hướng nội dễ chịu và mù quáng trong cái tôi, mà trong nó không có hướng ngoại. Hướng nội có những hoạt động riêng của nó, giống như những hoạt động của một người nằm mơ, nhưng chúng không bao giờ thức dậy bạn. Tiến hành thức dậy là một tiến trình đau khổ, và thế là, cả khi già nua lẫn khi còn trẻ, bạn thích được bỏ lại một mình để được kính trọng, để chết.

 Không giống như rộng lượng của quả tim, rộng lượng của bàn tay là một chuyển động hướng ngoại, nhưng nó thường là đau khổ, dối gạt và tự phơi bày. Dễ dàng có được rộng lượng của bàn tay; nhưng rộng lượng của quả tim không là một sự việc để được vun quén, nó là sự tự do khỏi mọi tích lũy. Muốn tha thứ phải có một tổn thương; và để bị tổn thương, chắc chắn phải có những thâu lượm của kiêu hãnh. Không có rộng lượng của quả tim chừng nào còn có một ký ức dính dáng, “cái tôi” và “cái của tôi”.

 

_________________________________________________

 

Chương 11

CHÍNH TRỊ

 

Đ

ã có mưa suốt ngày trong những hòn núi cao vút. Nó không là một cơn mưa dịu dàng, hòa nhã, nhưng là một trong những trận mưa trút nước mà rửa sạch đường sá và bật gốc cây cối trên sườn đồi, lở đất và những dòng nước ồn ào mà trở nên yên lặng trong một vài tiếng đồng hồ. Một cậu trai nhỏ, ướt đẫm đang đùa giỡn trong một cái ao nông và chẳng thèm quan tâm đến giọng nói cao tiếng và tức giận của người mẹ. Một con bò đang đi xuống con đường bùn lầy khi chúng tôi vượt qua nó. Những đám mây dường như lan rộng và bao phủ đất đai cùng với nước. Chúng tôi bị ướt nên cởi hết quần áo ngoài, và mưa thật dịu dàng trên làn da. Ngôi nhà ở cao trên sườn núi, và thị trấn nằm phía dưới. Một cơn gió mạnh đang thổi từ phương tây, mang theo những đám mây đen kịt và cuồng nộ.

 Có một lò sưởi trong phòng, và nhiều người đang chờ đợi để nói chuyện về nhiều vấn đề. Mưa, đang đập trên những cửa sổ, đã tạo nên những vũng nước lớn trên nền nhà, và thậm chí nước còn trôi xuống theo ống khói, khiến cho lửa lò sưởi kêu lèo xèo.

 Ông ấy là một người chính trị rất nổi tiếng, thực tế, chân thật cực kỳ và yêu thương tổ quốc mãnh liệt. Không là cái trí nông cạn hay đang tự tìm kiếm cho chính mình, tham vọng của ông ấy không phải cho ông ấy, nhưng cho một ý tuởng và cho nhân dân. Ông ấy không là một diễn giả hùng biện rỗng tuếch hay người đi kiếm phiếu bầu; ông ấy đau khổ vì nguyên nhân của ông ấy và, lạ lùng thay lại không cay đắng. Có vẻ ông ấy là một học giả hơn là một người chính trị. Nhưng chính trị là lương thực cho sống của ông ấy, và đảng của ông ấy vâng lệnh ông ấy, mặc dù khá căng thẳng. Ông ấy là một người mơ mộng, nhưng ông ấy đã gạt đi mọi thứ để hiến dâng cho chính trị. Người bạn của ông ấy, người kinh tế đứng đầu, cũng có mặt; người bạn có những lý thuyết và những thông tin khó hiểu liên quan đến sự phân phối những lợi tức khổng lồ. Dường như người bạn thân thiết với những người kinh tế của cả cánh tả lẫn cánh hữu, và có những lý thuyết riêng để vực dậy nền kinh tế của nhân loại. Người bạn nói chuyện rất thoải mái, và không cần những đắn đo cho những từ ngữ. Cả hai người đã hô hào được những đám đông lớn.

 Liệu bạn đã nhận thấy, trong báo chí, nhiều không gian đã được dành riêng cho chính trị, dành riêng cho những câu nói của những người chính trị và những hoạt động của họ? Dĩ nhiên, cũng có những tin tức khác, nhưng tin tức chính trị thống trị; sống chính trị và kinh tế trở thành quan trọng nhất. Những hoàn cảnh phía bên ngoài, thoải mái, tiền bạc, vị trí và quyền hành – dường như định hình và điều phối sự hiện diện của chúng ta. Sự khoa trương phía bên ngoài – tước hiệu, trang phục, chào mừng, lá cờ – đã trở thành mỗi lúc một quan trọng, và tiến hành tổng thể của sự sống đã bị quên bẵng hay cố ý gạt đi. Quá dễ dàng khi quẳng mình trong hoạt động chính trị và xã hội hơn là đang hiểu rõ sống như một tổng thể; gắn kết với bất kỳ sự suy nghĩ được tổ chức nào, với hoạt động tôn giáo hay chính trị, trao tặng một tẩu thoát được kính trọng khỏi những tầm thường và vất vả của sống hàng ngày. Bằng một quả tim nhỏ nhoi bạn có thể nói về những chủ đề to tát và về những người lãnh đạo thịnh hành; bạn có thể che giấu sự nông cạn của bạn bằng những cụm từ dễ dàng về những vấn đề của thế giới; rất sung sướng và kèm theo sự khuyến khích của công chúng, cái trí náo động của bạn có thể yên tâm để truyền bá học thuyết của một tôn giáo mới mẻ hay của một tôn giáo cũ kỹ.

 Chính trị là điều hòa những kết quả; và bởi vì hầu hết chúng ta đều quan tâm đến những kết quả, phía bên ngoài đã đảm đương sự quan trọng thống trị. Bằng cách thực hiện khéo léo những kết quả chúng ta hy vọng tạo ra trật tự và hòa bình; nhưng, bất hạnh thay, nó không đơn giản như thế. Sống là một tiến hành tổng thể, phía bên trong cũng như phía bên ngoài; rõ ràng phía bên ngoài gây ảnh hưởng phía bên trong, nhưng phía bên trong luôn luôn thắng thế phía bên ngoài. Điều gì bạn là, bạn tạo ra phía bên ngoài. Phía bên ngoài và phía bên trong không thể bị tách rời và bị kềm kẹp trong những cái ngăn kín mít, bởi vì chúng liên tục đang trao đổi lẫn nhau; nhưng sự khao khát phía bên trong, những theo đuổi và những động cơ giấu giếm, luôn luôn mạnh mẽ hơn. Sự sống không lệ thuộc vào hoạt động thuộc kinh tế hay chính trị; sự sống không chỉ là một phô trương phía bên ngoài, giống như một cái cây không chỉ là chiếc lá hay cái cành. Sự sống là một tiến hành tổng thể mà vẻ đẹp của nó được khám phá chỉ trong hiệp thông cùng nó. Hiệp thông này không xảy ra trên mức độ hời hợt của những điều hòa thuộc kinh tế và chính trị; nó sẽ được tìm ra vượt khỏi những nguyên nhân và những kết quả.

 Bởi vì chúng ta đùa giỡn cùng những nguyên nhân và những kết quả và không bao giờ vượt khỏi chúng, ngoại trừ bằng từ ngữ, sống của chúng ta quả là trống rỗng, không có ý nghĩa bao nhiêu. Do bởi lý do này nên chúng ta trở thành những nô lệ cho những phấn khích thuộc chính trị và chủ nghĩa cảm xúc thuộc tôn giáo. Có hy vọng chỉ trong sự hiệp thông vô số tiến trình của tất cả những sự việc mà chúng ta đã được cấu thành từ chúng. Sự hiệp thông này không hiện diện qua bất kỳ học thuyết nào, hay qua tuân theo bất kỳ uy quyền đặc biệt nào, thuộc tôn giáo hay chính trị; nó hiện diện chỉ qua sự nhận biết thăm thẳm và tổng thể. Sự nhận biết này phải thâm nhập vào những tầng sâu thẳm hơn của ý thức chứ không phải mãn nguyện bởi những phản ứng trên bề mặt.

 

_________________________________________________

 

Chương 12

ĐANG TRẢI NGHIỆM

 

T

hung lũng trong bóng râm của những hòn núi, và mặt trời hoàng hôn chạm vào những đỉnh núi xa xa; tia sáng buổi chiều của chúng dường như đến từ phía bên trong. Ở phía bắc của con đường dài, những đỉnh núi trơ trụi không còn cây cối, bị phơi ra bởi trận hỏa hoạn; ở phía nam, những quả đồi xanh tươi đầy bụi rậm và cây cối. Con đường chạy thẳng, phân chia thung lũng dài và đẹp. Buổi chiều đặc biệt này, dường như những hòn núi quá gần gũi, quá mơ mộng, quá thanh thoát và hiền lành. Những con chim nặng nề đang bay lượn đảo vòng trong bầu trời không cần chút nỗ lực. Những con sóc đất đang lười biếng băng ngang qua đường, và có tiếng gầm thét của chiếc máy bay xa xa. Ở cả hai bên của con đường là những vườn cam được trồng rất trật tự và được chăm sóc cẩn thận. Sau ngày nóng bức mùi cây ngải đắng tím rất nồng, và mùi của quả đất lẫn cỏ khô cũng vậy. Những cây cam màu tối, có những quả sáng rực. Con chim cút đang kêu, và một con chim cu biến mất vào bụi cây. Một con rắn thằn lằn dài, bị chọc ghẹo bởi con chó, uốn mình lẩn trong những bụi cỏ dại khô. Yên lặng của chiều tối đang lướt qua đất đai.

 Trải nghiệm là một việc, và đang trải nghiệm là một việc khác. Trải nghiệm là một chướng ngại của trạng thái đang trải nghiệm. Dù trải nghiệm đó dễ chịu hay xấu xa như thế nào, nó ngăn cản nở hoa của đang trải nghiệm. Trải nghiệm đã ở sẵn trong mạng lưới của thời gian, nó ở sẵn trong quá khứ, nó đã trở thành một ký ức được sống lại chỉ như một phản ứng đến hiện tại. Sự sống là hiện tại, nó không là trải nghiệm đó. Trọng tải và sức mạnh của trải nghiệm tỏa bóng lên hiện tại, và thế là đang trải nghiệm trở thành trải nghiệm. Cái trí là trải nghiệm, cái đã được biết, và nó không bao giờ có thể ở trong trạng thái đang trải nghiệm; bởi vì cái gì nó trải nghiệm là sự tiếp tục của trải nghiệm. Cái trí chỉ biết sự tiếp tục, và nó không bao giờ có thể thâu nhận cái mới mẻ chừng nào sự tiếp tục của nó còn tồn tại. Cái gì tiếp tục không bao giờ có thể ở trong trạng thái đang trải nghiệm. Trải nghiệm không là phương tiện dẫn đến đang trải nghiêm, một trạng thái không có trải nghiệm. Trải nghiệm phải kết thúc cho đang trải nghiệm hiện diện.

 Cái trí chỉ có thể mời mọc tự chiếu rọi riêng của nó, cái đã được biết. Chỉ có đang trải nghiệm cái không biết được nếu cái trí không còn trải nghiệm. Suy nghĩ là sự diễn tả của trải nghiệm; suy nghĩ là một phản hồi của ký ức; và chừng nào suy nghĩ còn can thiệp, không thể có đang trải nghiệm. Không phương tiện, không phương pháp nào có thể kết thúc trải nghiệm; bởi vì chính phương tiện là một cản trở cho đang trải nghiệm. Biết sự kết thúc là biết sự tiếp tục, và có một phương tiện dẫn đến sự kết thúc là duy trì cái đã được biết. Ham muốn cho sự thành tựu phải biến mất; chính là ham muốn này mới tạo ra phương tiện và kết thúc. Khiêm tốn là cốt lõi cho đang trải nghiệm. Nhưng cái trí quá hăm hở thẩm thấu đang trải nghiệm vào trải nghiệm! Nó chuyển động thật mau lẹ để suy nghĩ về cái mới mẻ và do đó lại khiến cho cái mới mẻ thành cái cũ kỹ! Thế là nó thiết lập người trải nghiệm và vật được trải nghiệm, mà sinh ra sự xung đột của có hai.

 Trong trạng thái của đang trải nghiệm, không có người trải nghiệm cũng như vật được trải nghiệm. Cái cây, con chó và vì sao hôm phải không được trải nghiệm bởi người trải nghiệm; chúng là chính chuyển động của đang trải nghiệm. Không có khoảng trống giữa người quan sát và vật được quan sát; không có thời gian, không khoảng ngừng thuộc không gian cho suy nghĩ tự đồng hóa. Sự suy nghĩ hoàn toàn vắng mặt, nhưng có đang hiện diện. Trạng thái của đang hiện diện này không thể bị suy nghĩ hay bị thiền định về nó, nó không là một sự việc để đạt được. Người trải nghiệm phải không còn trải nghiệm, và chỉ lúc đó mới có đang hiện diện. Trong yên lặng của chuyển động của nó là cái không thời gian.

_________________________________________________

 

Chương 13

ĐẠO ĐỨC

 

B

iển rất lặng và gần như không có những gợn sóng trên những bãi cát trắng. Quanh khu vịnh rộng rãi, ở phía bắc là thị trấn, và ở phía nam là những cây dừa, hầu như chạm vào nước. Ngay trong tầm mắt ra khỏi cồn cát ngầm là con đầu tiên trong những con cá mập, và xa xa chúng là những chiếc thuyền của dân chài, một vài khúc gỗ buộc vào nhau bằng dây thừng chắc. Họ đang tiến về một cái làng nhỏ ở phía nam những cây dừa. Mặt trời hoàng hôn rực sáng, không phải nơi người ta chờ đợi nó, nhưng ở phía đông; nó là một mặt trời đối nghịch, và những đám mây, đồ sộ và có hình thể đẹp, được thắp sáng cùng tất cả những màu sắc của quang phổ. Nó thực sự quá diễm ảo, và hầu như đau đớn khi phải nhìn về hướng nó. Những dòng nước bắt được những màu sắc rực rỡ và tạo nên một con đường ánh sáng lạ kỳ đến tận đường chân trời.

 Có vài người đánh cá đang từ thị trấn trở lại những cái làng của họ, nhưng bãi biển hầu như bị bỏ hoang và yên lặng. Một vì sao cô đơn lơ lửng bên trên những đám mây. Trên đường chúng tôi quay về, một phụ nữ tham gia cùng chúng tôi và bắt đầu nói về những sự việc nghiêm túc. Bà ấy nói bà ấy thuộc một tổ chức nào đó nơi những thành viên đã thiền định và vun quén những đạo đức cốt lõi. Mỗi tháng một đạo đức đặc biệt được chọn, và suốt những ngày tiếp theo, nó được vun quén và thực hành. Từ thái độ và câu nói của bà ấy, có vẻ rằng bà ấy đã có nền tảng vững chắc trong tự kỷ luật và trong chừng mực nào đó không còn nhẫn nại với những người không quen thuộc tâm tính và mục đích của bà ấy.

 Đạo đức của quả tim và không của cái trí, khi cái trí vun quén đạo đức, nó là sự toan tính ranh mãnh; nó là một tự phòng vệ, một điều chỉnh khôn ngoan đến môi trường sống. Tự hoàn hảo chính là sự phủ nhận của đạo đức. Làm thế nào có thể có đạo đức nếu có sợ hãi? Sợ hãi thuộc cái trí và không thuộc quả tim. Sợ hãi tự che giấu nó dưới những hình thức khác nhau: đạo đức, kính trọng, điều chỉnh, phục vụ và vân vân. Sợ hãi sẽ luôn luôn hiện diện trong những liên hệ và những hoạt động của cái trí. Cái trí không tách rời những hoạt động của nó; nhưng nó tự tách rời, vì vậy cho chính nó sự tiếp tục và vĩnh cửu. Giống như một đứa trẻ luyện tập đàn dương cầm, cái trí cũng ranh mãnh luyện tập đạo đức để khiến cho chính nó được vĩnh cửu và chi phối nhiều hơn trong gặp gỡ sống, hay kiếm được cái gì nó nghĩ rằng tối thượng. Phải có mong manh để gặp gỡ sống chứ không phải bức tường kính trọng của đạo đức tự khép kín. Cái tối thượng không thể kiếm được; không có con đường, không có sự phát triển tăng dần theo toán học để đến được nó. Sự thật phải hiện diện, bạn không thể đi đến sự thật, và đạo đức được vun quén của bạn sẽ không đưa bạn đến với nó. Cái gì bạn kiếm được không là sự thật, nhưng là sự ham muốn tự chiếu rọi riêng của bạn; và trong sự thật, một mình nó, có hạnh phúc.

 Sự thích ứng ranh mãnh của cái trí trong sự tồn tại vĩnh cửu tự tạo riêng của chính nó nuôi dưỡng sự sợ hãi. Chính là sợ hãi này phải được hiểu rõ sâu thẳm, không phải làm thế nào để có đạo đức. Một cái trí tầm thường có lẽ luyện tập đạo đức, nhưng nó vẫn còn tầm thường. Lúc đó đạo đức là một tẩu thoát khỏi sự tầm thường riêng của nó, và đạo đức mà nó thâu lượm sẽ vẫn còn tầm thường. Nếu sự tầm thường này không được hiểu rõ, làm thế nào có thể có được một đang trải nghiệm sự thật? Làm thế nào một cái trí đạo đức, tầm thường có thể mở cửa đến cái không thể đo lường được?

 Trong hiểu rõ qui trình của cái trí, mà là cái tôi, đạo đức hiện diện. Đạo đức không là sự kháng cự được tích lũy; nó là sự nhận biết tự phát và đang hiểu rõ cái gì là. Cái trí không thể đang hiểu rõ; nó có thể diễn giải cái gì được hiểu rõ thành hành động, nhưng nó không thể đang hiểu rõ. Muốn đang hiểu rõ, phải có sự nhiệt tình của nhận ra và thâu nhận, mà quả tim có thể trao tặng chỉ khi nào cái trí yên lặng. Nhưng yên lặng của cái trí không là kết quả của sự toan tính ranh mãnh. Ham muốn được yên lặng là tai ương của sự thành tựu, cùng những xung đột và đau khổ vô tận của nó. Khao khát để hiện diện, tích cực hay tiêu cực, là phủ nhận sự đạo đức của quả tim. Đạo đức không là xung đột và thành tựu, luyện tập lâu dài và kết quả, nhưng một trạng thái của đang hiện diện mà không là kết quả của sự ham muốn tự chiếu rọi. Không có đang hiện diện nếu có một đấu tranh để hiện diện. Trong đấu tranh để hiện diện có kháng cự và phủ nhận, hành xác và từ bỏ; nhưng khuất phục những thứ này không là đạo đức. Đạo đức là yên lặng của sự tự do khỏi khao khát để hiện diện, và yên lặng này của quả tim, không của cái trí. Qua luyện tập, ép buộc, kháng cự, cái trí có thể khiến cho nó yên lặng, nhưng một kỷ luật như thế hủy diệt đạo đức của quả tim, mà không có nó không có an bình, không có hạnh phúc; bởi vì đạo đức của quả tim là đang hiểu rõ.

_________________________________________________

 

Chương 14

ĐƠN GIẢN CỦA QUẢ TIM

 

B

ầu trời khoáng đạt và bao trọn. Không có những con chim cánh rộng to lớn mà bềnh bồng dễ dàng từ thung lũng này sang thung lũng khác, thậm chí không có cả một đám mây trôi qua. Cây cối yên lặng và những đoạn gấp gập ghềnh của những quả đồi đen kịt bóng râm. Con nai háo hức, bị mê mải bởi sự tò mò, đang nhìn ngắm, và bỗng nhiên phóng đi mất dạng khi chúng tôi đến gần. Dưới một bụi cây, có cùng màu sắc như quả đất, là một con ếch có sừng bằng, mắt sáng rực và không động đậy. Ở phía tây những hòn núi sắc nét và rõ ràng tương phản mặt trời hoàng hôn. Xa xa phía dưới là một ngôi nhà lớn; nó có một hồ bơi, và một số người đang tắm trong hồ. Có một cái vườn xinh xinh quanh ngôi nhà; nơi đó trông có vẻ thịnh vượng và tách biệt, và có bầu không khí đặc biệt đó của những người giàu có. Xa hơn một con đường đầy bụi là một cái chòi nhỏ trong cánh đồng cằn cỗi. Nghèo đói, tồi tàn, cực nhọc, thậm chí tại khoảng cách đó, có thể nhìn thấy dễ dàng. Được nhìn thấy từ cao độ đó, hai cái nhà không tách rời nhau lắm; xấu xí và đẹp đẽ đang hiệp thông cùng nhau.

 Đơn giản của quả tim còn quan trọng và có ý nghĩa nhiều hơn đơn giản của những sở hữu. Thỏa mãn cùng một ít sự vật là một việc tương đối dễ dàng. Từ bỏ sự thoải mái, hay từ bỏ hút thuốc và những thói quen khác, không thể hiện đơn giản của quả tim. Khoác vào một cái khố trong một thế giới bị cuốn hút bởi quần áo, những tiện nghi và những giải trí, không thể hiện một hiện diện tự do. Có một người đã từ bỏ thế giới và những phương cách của nó, nhưng những ham muốn và đam mê của anh ấy đang nuốt trọn anh ấy; anh ấy khoác vào những chiếc áo của một thầy tu, nhưng anh ấy không biết đến hòa bình. Đôi mắt của anh ấy luôn luôn đang tìm kiếm, và cái trí của anh ấy rầu rĩ bởi những ngờ vực và những hy vọng của anh ấy. Phía bên ngoài bạn kỷ luật và từ bỏ, bạn lập biểu đồ hướng đi của bạn, từng bước một, để đến được kết thúc đó. Bạn đo lường sự tiến bộ của thành tựu riêng của bạn tùy theo những tiêu chuẩn của đạo đức: bạn đã từ bỏ cái này hay cái kia như thế nào, bạn đã kiểm soát cách cư xử của bạn như thế nào, bạn tử tế và khoan dung như thế nào, và vân vân và vân vân. Bạn đã học hành nghệ thuật của tập trung, và bạn rút lui vào môt cánh rừng, một tu viện, hay một căn phòng tối thui để thiền định; bạn trải qua những ngày của bạn trong cầu nguyện và tỉnh thức. Phía bên ngoài bạn đã đơn giản sống của bạn, và qua sự sắp xếp có tính toán lẫn đầy cân nhắc này bạn hy vọng kiếm được hạnh phúc mà không thuộc thế giới này.

 Nhưng liệu sự thật kiếm được nhờ vào sự kiểm soát và những luật lệ phía bên ngoài? Mặc dù đơn giản phía bên ngoài, gạt bỏ đi sự thoải mái, chắc chắn là cần thiết, liệu sự thể hiện bên ngoài này mở cánh cửa đến sự thật? Bận tâm bởi sự thoải mái và sự thành công đè nặng cái trí và quả tim, và phải có tự do để chuyển động; nhưng tại sao chúng ta lại quá quan tâm đến những biểu hiện bên ngoài? Tại sao chúng ta quá hăm hở quả quyết phải tạo ra một thể hiện bên ngoài về ý định của chúng ta? Liệu nó là sự sợ hãi của tự dối gạt, hay của điều gì người khác có lẽ nói? Tại sao chúng ta ao ước phải tự tin tưởng về sự hiệp thông của chúng ta? Liệu toàn vấn đề này không nằm trong sự ham muốn để được bảo đảm, được thuyết phục về sự quan trọng riêng của chúng ta trong đang trở thành.

 Ham muốn để hiện diện là khởi đầu của sự phức tạp. Bị thúc đẩy bởi sự ham muốn luôn luôn gia tăng của hiện diện, phía bên trong và phía bên ngoài, chúng ta tích lũy hay từ bỏ, vun đắp hay phủ nhận. Thấy rằng thời gian tước đoạt tất cả mọi thứ, chúng ta bám vào cái không thời gian. Đấu tranh để hiện diện này, tích cực hay tiêu cực, qua quyến luyến hay tách rời, không bao giờ có thể được giải quyết bởi bất kỳ sự thể hiện, kỷ luật hay rèn luyện bên ngoài nào; nhưng đang hiểu rõ về đấu tranh này sẽ sáng tạo, một cách tự nhiên và tự phát, sự tự do khỏi tích lũy bên ngoài và bên trong cùng những xung đột của chúng. Sự thật không thể đạt được qua sự tách rời; nó không thể đến được qua bất kỳ phương tiện nào. Tất cả phương tiện và kết thúc là một hình thức của quyến luyến, và chúng phải được xóa sạch cho sự hiện diện của sự thật.

 

_________________________________________________

 

Chương 15

NHỮNG KHÍA CẠNH CỦA CÁ THỂ

 

Ô

ng ấy đến gặp chúng tôi được vây quanh bởi những môn đệ của ông ấy. Họ thuộc mọi loại người, những người giàu có lẫn những người nghèo khổ, viên chức chính phủ cấp cao và những góa phụ, những người cuồng tín và những người trẻ tuổi với một nụ cười. Họ có một số mạng của hạnh phúc và vui vẻ, và những cái bóng đang nhảy múa trên ngôi nhà màu trắng. Trong tán lá dày, những con vẹt đang kêu, và một chiếc xe tải ồn ào đang chạy qua. Người thanh niên sôi nổi và quả quyết vào sự quan trọng của đạo sư, người thầy; những người khác đồng ý cùng anh ấy và mỉm cười thỏa mãn khi anh ấy đưa ra những quan điểm, rõ ràng và khách quan. Bầu trời rất xanh và một con chim ưng có cổ trắng đang bay hầu như không vẫy cánh bên trên chúng tôi. Hôm nay là một ngày đẹp trời. Chúng ta hủy diệt lẫn nhau lạ lùng làm sao, người đệ tử và vị đạo sư, và vị đạo sư người đệ tử! Chúng ta tuân phục, phá vỡ với mục đích định hình lại dễ dàng làm sao! Một con chim đang lôi ra một con trùng dài từ đất ẩm ướt.

 Chúng ta là nhiều và không phải là một. Một chỉ hiện diện khi nhiều không còn. Nhiều rất ầm ĩ, đấu tranh với nhau suốt ngày đêm, và đấu tranh này là sự đau khổ của sống. Chúng ta hủy diệt một, nhưng một khác xuất hiện thay thế nó; và dường như đây là một qui trình vô tận thuộc sống của chúng ta. Chúng ta cố gắng áp đặt một vào nhiều, nhưng chẳng mấy chốc một trở thành nhiều. Tiếng nói của nhiều là tiếng nói của một, và tiếng nói của một đảm đương uy quyền; nhưng nó vẫn còn là huyên thuyên đó của một tiếng nói. Chúng ta là những tiếng nói của nhiều, và chúng ta cố gắng nắm bắt tiếng nói yên lặng của một. Một là nhiều nếu nhiều yên lặng để nghe tiếng nói của một. Nhiều không bao giờ có thể tìm ra một. 

 Nghi vấn của chúng ta là: không phải làm thế nào để nghe tiếng nói của một nhưng phải hiểu rõ cấu trúc, bản chất của nhiều mà chúng ta là. Một khía cạnh của nhiều không thể hiểu rõ nhiều; một thực thể không thể hiểu rõ nhiều thực thể mà chúng ta là. Mặc dù một khía cạnh cố gắng kiểm soát, kỷ luật, định hình những khía cạnh khác, những nỗ lực của nó luôn luôn gây ra tự khép kín, chật hẹp. Tổng thể không thể được hiểu rõ qua mảnh, và đó là lý do tại sao chúng ta không bao giờ hiểu rõ. Chúng ta không bao giờ thấy tổng thể đó, chúng ta không bao giờ nhận biết tổng thể đó, bởi vì chúng ta quá bận tâm với mảnh. Mảnh tự đập vỡ chính nó và trở thành nhiều. Muốn nhận biết tổng thể đó, sự xung đột của nhiều, phải có đang hiểu rõ về ham muốn. Chỉ có một hoạt động của ham muốn; mặc dù có những đòi hỏi và những theo đuổi xung đột khác nhau, tất cả chúng đều là kết quả của ham muốn. Ham muốn có lẽ được thăng hoa hay bị kiềm chế; nó phải được hiểu rõ mà không có anh ấy, người hiểu rõ. Nếu thực thể mà hiểu rõ hiện diện ở đó, vậy thì nó vẫn còn là thực thể của ham muốn. Hiểu rõ không người trải nghiệm là được tự do khỏi một và khỏi nhiều. Tất cả những hoạt động của tuân phục và phủ nhận, của phân tích và chấp nhận, chỉ củng cố người trải nghiệm. Người trải nghiệm không bao giờ có thể hiểu rõ tổng thể đó. Người trải nghiệm là những tích lũy, và không có đang hiểu rõ trong cái bóng của quá khứ. Lệ thuộc vào quá khứ có lẽ trao tặng một phương cách của hành động, nhưng ôm ấp một phương tiện không là đang hiểu rõ. Đang hiểu rõ không thuộc về cái trí, không thuộc về suy nghĩ; và nếu suy nghĩ bị kỷ luật vào sự yên lặng để nắm bắt cái không thuộc về cái trí, vậy thì cái được trải nghiệm chỉ là sự chiếu rọi của quá khứ. Trong nhận biết toàn qui trình này có một yên lặng không thuộc về người trải nghiệm. Chỉ trong yên lặng này, đang hiểu rõ hiện diện.

 

_________________________

 

Chương 16

NGỦ

 

M

ùa đông năm nay lạnh lắm và cây cối xác xơ, những cành cây trụi lá phơi ra bầu trời. Chẳng có bao nhiêu cây cối thuộc loại xanh tươi mãi, và thậm chí nếu có chúng cũng cảm nhận những cơn gió lạnh buốt và những đêm băng giá. Xa xa những hòn núi cao có tuyết phủ dầy, và những đám mây trắng cuồn cuộn treo lơ lửng trên chúng. Cỏ có màu nâu, do bởi đã không có mưa nhiều tháng rồi, và những cơn mưa mùa xuân còn lâu lắm. Quả đất nằm im lìm và bỏ hoang. không có chuyển động reo hò của những con chim đang làm tổ trong những bờ rào xanh tươi, và những con đường khô cứng đầy bụi bặm. Trên hồ có vài con vịt, đang nghỉ ngơi trên đường bay về hướng nam. Những hòn núi hứa hẹn một mùa xuân mới mẻ, và quả đất đang mơ mộng nó.

 Điều gì xảy ra nếu chúng ta phủ nhận giấc ngủ? Liệu chúng ta có nhiều thời gian hơn để đấu tranh, để mưu mô, để tạo ra những ranh mãnh? Liệu chúng ta sẽ hung tợn và tàn nhẫn hơn? Liệu sẽ có nhiều thời gian hơn cho khiêm tốn, từ bi và thanh đạm? Liệu chúng ta sẽ sáng tạo hơn? Ngủ là một việc lạ lùng, nhưng quan trọng cực kỳ. Đối với hầu hết mọi người, những hoạt động của ban ngày tiếp tục qua giấc ngủ chập chờn về đêm của họ; giấc ngủ của họ là sự tiếp tục thuộc sống của họ, đờ đẫn hay phấn khởi, một trải rộng tại một mức độ nào đó của cùng sự vô vị hay đấu tranh vô nghĩa. Cơ thể được làm tươi trẻ lại qua giấc ngủ; cơ quan bên trong, có một sống của riêng nó, tự làm mới mẻ chính nó. Suốt giấc ngủ, những ham muốn không hoạt động, và vì vậy không cản trở các cơ quan; và do bởi cơ thể được tươi trẻ lại, những hoạt động của ham muốn có cơ hội thêm nữa cho phấn khởi và bành trướng. Chắc chắn, người ta càng ít cản trở các cơ quan bên trong nhiều bao nhiêu, chúng càng tươi trẻ hơn bấy nhiêu; cái trí càng ít can thiệp vào các cơ quan nhiều bao nhiêu, sự vận hành của các cơ quan càng tự nhiên và lành mạnh nhiều hơn bấy nhiêu. Nhưng bệnh tật của các cơ quan là một vấn đề khác, được sinh ra bởi cái trí hay bởi sự yếu ớt riêng của nó.

 Giấc ngủ quan trọng cực kỳ. Những ham muốn càng được củng cố nhiều bao nhiêu, ý nghĩa của giấc ngủ càng ít hơn bấy nhiêu. Những ham muốn tích cực hay tiêu cực, tại cơ bản luôn luôn là tích cực, và giấc ngủ là sự ngừng lại tạm thời của tích cực này. Giấc ngủ không là đối nghịch của ham muốn, giấc ngủ không là tiêu cực, nhưng một tình trạng mà ham muốn không thể thâm nhập. Đang yên lặng của những tầng ý thức bên ngoài xảy ra suốt giấc ngủ, và vì vậy chúng có thể thâu nhận những hàm ý của những tầng sâu thẳm hơn; nhưng đây chỉ là một hiểu rõ bộ phận của tổng thể vấn đề. Chắc chắn tất cả những tầng ý thức có thể hiệp thông cùng nhau trong suốt những giờ thức giấc, và cũng cả trong suốt giấc ngủ; và dĩ nhiên đây là điều cốt lõi. Hiệp thông này giải thoát cái trí khỏi tự quan trọng riêng của nó, và thế là cái trí không trở thành nhân tố thống trị. Vì vậy nó không còn, một cách tự do và tự nhiên, những nỗ lực và những hoạt động tự khép kín của nó. Trong tiến hành này, sự thúc đẩy để trở thành hoàn toàn được tan biến, động lực tích lũy không còn nữa.

 Nhưng có cái gì đó còn nhiều hơn nữa mà xảy ra trong giấc ngủ. Có, đã tìm được một đáp án cho những vấn đề của chúng ta. Khi cái trí bên ngoài yên lặng, nó có thể thâu nhận một đáp án, mà là một công việc đơn giản. Nhưng điều gì có ý nghĩa và quan trọng hơn tất cả việc này là sự mới mẻ lại mà không là một vun đắp. Người ta có thể cố ý vun đắp một tài năng, một khả năng, hay phát triển một phương pháp kỹ thuật, một khuôn mẫu của hành động và cư xử; nhưng đây không là mới mẻ lại. Sự vun đắp không là sáng tạo. Mới mẻ sáng tạo này không xảy ra nếu có bất kỳ loại nỗ lực nào của một người trở thành. Tự nguyện, cái trí phải buông bỏ tất cả những thôi thúc tích lũy, xóa sạch đang lưu trữ trải nghiệm như một phương tiện dẫn đến trải nghiệm và thành tựu thêm nữa. Do bởi sự bẻ cong của thời gian mới ngăn cản sự mới mẻ sáng tạo. Như chúng ta biết nó, ý thức thuộc về thời gian, nó là một qui trình của đang ghi lại và đang lưu trữ trải nghiệm tại những mức độ khác nhau của nó. Bất kỳ việc gì xảy ra trong ý thức này là sự chiếu rọi riêng của nó; nó có chất lượng riêng của nó, và nó có thể đo lường được. Suốt giấc ngủ, hoặc ý thức này được củng cố, hoặc cái gì đó hoàn toàn khác hẳn xảy ra. Đối với hầu hết chúng ta, giấc ngủ củng cố trải nghiệm, nó là một qui trình của đang ghi lại và đang lưu trữ mà trong đó có sự bành trướng nhưng không có sự mới mẻ. Sự bành trướng trao tặng một cảm thấy của phấn khởi, của đạt được tất cả, của đã hiểu rõ, và vân vân; nhưng tất cả việc này không là sự mới mẻ sáng tạo. Qui trình của trở thành này phải hoàn toàn kết thúc, không phải như một phương tiện dẫn đến trải nghiệm thêm nữa, nhưng như một kết thúc trong chính nó.

 Suốt giấc ngủ, và thường thường suốt những giờ thức giấc, khi sự trở thành hoàn toàn kết thúc, khi kết quả của một nguyên nhân đã kết thúc, vậy là cái vượt khỏi thời gian, vượt khỏi sự đo lường của nguyên nhân và kết quả, hiện diện.

 

_________________________________________________

 

Chương 17

TÌNH YÊU TRONG SỰ LIÊN HỆ

 

C

on đường băng ngang qua một nông trại và leo lên một quả đồi nhìn xuống vô số những cái nhà nông trại, những con bò cùng những con bê của chúng, những con gà, những con ngựa và những cái máy ở nông trại. Nó là một con đường đẹp, lang thang qua những cánh rừng, và thường được sử dụng bởi những con nai và những con thú hoang khác mà để lại những dấu chân của chúng đó đây và trên mặt đất mềm mại. Khi nó rất yên lặng, những tiếng nói từ nông trại, tiếng cười và âm thanh của chiếc radio, sẽ được mang đến từ xa. Đó là một trang trại được giữ gìn cẩn thận và có một bầu không khí của ngăn nắp quanh nó. Thường thường những tiếng nói được cất lên trong sự giận dữ, được theo sau bởi sự yên lặng của những đứa trẻ. Có một bài hát giữa những cái cây và những tiếng nói giận dữ thậm chí còn lấn át bài hát này. Bỗng nhiên một người phụ nữ ra khỏi ngôi nhà, đóng sầm cửa lại; bà ta bắt đầu đi đến chuồng bò và bắt đầu đánh một con bò bằng một cây gậy. Tiếng ồn ào chát chúa này của sự đánh đập vọng lên trên quả đồi.

 Quá dễ dàng để hủy diệt sự vật mà chúng ta thương yêu! Quá mau lẹ để dựng lên một rào cản giữa chúng ta, một từ ngữ, một cử chỉ, một nụ cười! Sức khỏe, tâm trạng và ham muốn tỏa ra một cái bóng, và cái gì rạng rỡ trở thành nhàm chán và phiền toái. Qua sự sử dụng chúng ta đã tự làm kiệt lực chính chúng ta, và cái mà nhạy bén và rõ ràng trở thành trì trệ và rối loạn. Qua sự xung đột liên tục, hy vọng và thất vọng, cái mà đẹp đẽ và đơn giản trở thành kinh hãi và ngóng trông. Sự liên hệ là phức tạp và khó khăn, và chẳng mấy người có thể thoát khỏi nó mà không bị trầy trụa. Mặc dù chúng ta muốn nó bất động, bền bỉ, tiếp tục, sự liên hệ là một chuyển động, một tiến hành cần phải được hiểu rõ tổng thể thăm thẳm và không bị biến thành sự tuân phục vào một khuôn mẫu phía bên trong hay phía bên ngoài. Sự tuân phục, mà là cấu trúc của xã hội, mất đi trọng lượng và uy quyền của nó chỉ khi nào có tình yêu. Tình yêu trong sự liên hệ là một tiến hành làm tinh khiết bởi vì nó bộc lộ những phương cách của cái tôi. Nếu không có sự bộc lộ này, sự liên hệ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.

 Nhưng chúng ta đấu tranh chống lại sự bộc lộ này biết bao! Đấu tranh mang nhiều hình thức: chi phối hay nhượng bộ, sợ hãi hay hy vọng, ganh tỵ hay chấp nhận, và vân vân và vân vân. Sự khó khăn là rằng chúng ta không thương yêu; và nếu chúng ta có thương yêu chúng ta muốn nó vận hành trong một phương hướng đặc biệt, chúng ta không cho nó tự do. Chúng ta thương yêu bằng những cái trí của chúng ta và không phải những quả tim của chúng ta. Cái trí có thể tự thay đổi chính nó, nhưng tình yêu không thể. Cái trí có thể tự khiến cho chính nó trở thành vô cảm, nhưng tình yêu không thể; cái trí luôn luôn có thể co rút, loại trừ, trở thành cá nhân hay không cá nhân. Tình yêu không thể bị so sánh và bị bao bọc. Sự khó khăn của chúng ta nằm trong điều mà chúng ta gọi là tình yêu, mà thật ra lại là của cái trí. Chúng ta nhét đầy những quả tim của chúng ta bằng những sự việc của cái trí và thế là khiến cho những quả tim của chúng ta luôn luôn trống rỗng và ngóng trông. Chính là cái trí mà bám chặt, mà ganh tỵ, mà giam cầm và hủy diệt. Sống của chúng ta bị chi phối bởi những trung tâm của cơ thể và bởi cái trí. Chúng ta không thương yêu và thả cho nó một mình, nhưng khao khát để được thương yêu; chúng ta ban phát với mục đích nhận lại, đó là sự quảng đại của cái trí và không phải của quả tim. Cái trí đang luôn luôn tìm kiếm vĩnh cửu, an toàn; và liệu tình yêu có thể được làm cho vĩnh cửu bởi cái trí? Liệu cái trí, mà chính bản thể của nó thuộc thời gian, có thể nắm bắt tình yêu, mà là vĩnh cửu riêng của nó?

 Nhưng ngay cả tình yêu của quả tim cũng có những ranh mãnh riêng của nó; bởi vì chúng ta làm thoái hóa quả tim của chúng ta trầm trọng đến độ nó do dự và hoang mang. Chính bởi việc này mới khiến cho sống trở nên đau khổ và phiền muộn. Một tích tắc chúng ta nghĩ rằng chúng ta có tình yêu, và tích tắc sau nó mất rồi. Rồi thì xuất hiện một sức mạnh không thể suy nghĩ được, không thuộc cái trí, những nguồn của nó có lẽ không thể đo lường được. Lại nữa, sức mạnh này bị hủy diệt bởi cái trí; bởi vì trong trận chiến này dường như cái trí luôn là kẻ chiến thắng. Sự xung đột này bên trong chính chúng ta sẽ không được giải quyết bởi cái trí ranh mãnh hay bởi quả tim do dự. Không có phương tiện nào, không có phương cách nào khiến cho xung đột này kết thúc. Chính tìm kiếm một phương tiện là một thôi thúc khác của cái trí để là người thấu triệt, để xua đuổi xung đột với mục đích được an bình, để có tình yêu, để trở thành cái gì đó.

 Khó khăn lớn nhất của chúng ta là nhận biết một cách tổng thể và thăm thẳm rằng không có phương tiện dẫn đến tình yêu như một kết thúc ao ước của cái trí. Khi thực sự và thăm thẳm chúng ta hiểu rõ điều này, vậy thì có một khả năng của thâu nhận cái gì đó mà không thuộc thế giới này. Nếu không có sự hiệp thông của cái gì đó đó, dù chúng ta sẽ thực hiện bất kỳ việc gì, không thể có hạnh phúc vĩnh cửu trong sự liên hệ. Nếu bạn đã nhận được ân lành đó và tôi không nhận được, tự nhiên bạn và tôi sẽ xung đột. Bạn có lẽ không xung đột, nhưng tôi sẽ; và trong đau khổ và phiền muộn của tôi, tôi tự cắt đứt. Đau khổ cũng loại trừ như vui thú, và nếu không có tình yêu đó mà không do sự tạo tác của tôi, sự liên hệ là đau khổ. Nếu có ân lành của tình yêu đó, bạn không thể làm gì cả ngoại trừ thương yêu tôi dù tôi có lẽ là gì, bởi vì lúc đó bạn không định hình tình yêu tùy theo cách cư xử của tôi. Cái trí có lẽ đùa giỡn bất kỳ trò chơi ranh mãnh nào, bạn và tôi là tách rời; mặc dù chúng ta có lẽ hiệp thông cùng nhau tại những mấu chốt nào đó, sự hiệp thông không phải cùng bạn, nhưng bên trong chính tôi. Hiệp thông này không được tạo ra bởi cái trí tại bất kỳ thời gian nào; nó hiện diện chỉ khi nào cái trí hoàn toàn yên lặng, do bởi đã đến được sự kết thúc của trói buộc riêng của nó. Chỉ lúc đó không có đau khổ trong sự liên hệ.

 

_________________________________________________

 

Chương 18

CÁI ĐÃ ĐƯỢC BIẾT và

CÁI KHÔNG BIẾT ĐƯỢC

 

N

hững cái bóng buổi chiều rất dài trên những dòng nước im lìm, và con sông đang trở nên yên lặng sau nguyên ngày náo động. Cá đang nhảy ra khỏi mặt nước, và những con chim to đang bay đến để trú đêm trong những cái cây. Không một đám mây trong bầu trời xanh bạc; một con thuyền đầy người đang trôi theo dòng nước; họ đang ca hát và vỗ nhịp, và một con bò được gọi ở xa xa. Có hương thơm của chiều tối. Một vòng hoa cúc vạn thọ đang bồng bềnh cùng dòng nước, lấp lánh trong mặt trời hoàng hôn. Tất cả đều đẹp đẽ và sinh động làm sao – con sông, những con chim, những cái cây và những người dân làng.

 Chúng tôi đang ngồi dưới một cái cây, nhìn ra con sông. Gần cái cây là một ngôi đền nhỏ, và một vài con bò ốm yếu đi loanh quanh. Ngôi đền rất sạch sẽ, được quét dọn cẩn thận, và những bụi hoa được tưới nước và được chăm sóc. Một người đàn ông đang thực hiện những nghi lễ buổi tối của ông ấy, giọng đọc kinh đầy nhẫn nại và đau khổ. Dưới những tia nắng cuối cùng của mặt trời, nước là màu của những bông hoa mới nở. Chốc nữa một người nào đó sẽ tham gia cùng chúng tôi và bắt đầu kể về những trải nghiệm của ông ấy. Ông ấy nói đã hy sinh sống của ông ấy trong nhiều năm để tìm kiếm Thượng đế, đã thực hành nhiều khổ hạnh và từ bỏ nhiều sự vật quý báu. Ông ấy cũng giúp đỡ rất nhiều trong công tác xã hội, trong xây dựng một ngôi trường, và vân vân. Ông ấy quan tâm nhiều thứ, nhưng quan tâm lớn nhất của ông ấy là tìm được Thượng đế; và bây giờ, sau nhiều năm, tiếng nói của Ngài đang được nghe, và nó hướng dẫn ông ấy trong những việc nhỏ nhoi cũng như những việc to lớn. Ông ấy không có ý muốn của riêng mình, nhưng tuân theo tiếng nói bên trong của Thượng đế. Nó không bao giờ dối gạt ông ấy mặc dù ông ấy thường gây hư hỏng sự rõ ràng của nó; lời cầu nguyện của ông ấy luôn luôn dành cho sự tinh khiết của con thuyền, để cho nó có thể xứng đáng thâu nhận tiếng nói.

 Liệu cái vô hạn có thể tìm được bởi bạn và tôi? Liệu cái không thuộc thời gian có thể tìm được bởi việc đó mà được tạo ra từ thời gian? Liệu một kỷ luật được thực hiện chuyên cần có thể dẫn dắt chúng ta đến cái không biết được? Liệu có một phương tiện dẫn đến cái không khởi đầu và không kết thúc? Liệu sự thật đó bị trói buộc trong mạng lưới những ham muốn của chúng ta? Điều gì chúng ta có thể kiếm được là sự chiếu rọi của cái đã được biết; nhưng cái không biết được không thể bị nắm bắt bởi cái đã được biết. Cái được đặt tên không là cái không thể đặt tên, và bằng đặt tên chúng ta chỉ đánh thức những phản ứng bị quy định. Những phản ứng này, dù cao cả và hài lòng, không là sự thật. Chúng ta phản ứng đến những kích thích, nhưng sự thật không trao tặng sự kích thích: nó là.

 Cái trí chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết, và nó không thể vượt khỏi để vào cái không biết được. Bạn không thể suy nghĩ về cái gì đó mà bạn không biết; việc đó không thể được. Điều gì bạn suy nghĩ hiện diện từ cái đã được biết, quá khứ, dù rằng quá khứ đó xa xôi, hay ngay tại giây phút vừa trôi qua. Quá khứ này bị suy nghĩ, bị định hình và bị quy định bởi nhiều ảnh hưởng, tự thay đổi chính nó tùy theo những hoàn cảnh và những áp lực, nhưng luôn luôn vẫn còn là một qui trình của thời gian. Suy nghĩ chỉ có thể phủ nhận hay khẳng định, nó không thể khám phá hay tìm ra cái mới mẻ. Suy nghĩ không thể bắt gặp cái mới mẻ, nhưng khi suy nghĩ yên lặng, lúc đó có lẽ có cái mới mẻ – mà tức khắc được chuyển vào cái cũ kỹ, vào cái trải nghiệm, bởi suy nghĩ. Suy nghĩ luôn luôn đang định hình, đang thay đổi, đang điểm tô tùy theo một khuôn mẫu của trải nghiệm. Chức năng của suy nghĩ là để truyền đạt nhưng không phải để ở trong trạng thái của đang trải nghiệm. Khi đang trải nghiệm ngừng lại, ngay đó suy nghĩ đảm đương và đặt tên đang trải nghiệm trong bảng phân loại của cái đã được biết. Suy nghĩ không thể thâm nhập cái không biết được, và thế là nó không bao giờ có thể khám phá hay trải nghiệm sự thật.

 Những kỷ luật, những từ bỏ, những tách rời, những nghi lễ, luyện tập đạo đức – tất cà những việc này, dù cao cả đến mức độ nào, là qui trình của suy nghĩ; và suy nghĩ chỉ có thể làm việc hướng đến một kết thúc, hướng về một thành tựu, mà luôn luôn là cái đã được biết. Thành tựu là an toàn, một vĩnh cửu tự phòng vệ của cái đã được biết. Tìm kiếm an toàn trong cái không tên là khước từ nó. Sự an toàn có lẽ được tìm ra chỉ ở trong sự chiếu rọi của quá khứ, của cái đã được biết. Vì lý do này cái trí phải yên lặng tuyệt đối và thăm thẳm; nhưng yên lặng này không thể kiếm được qua hiến dâng, thăng hoa hay kiềm chế. Yên lặng này hiện diện khi cái trí không còn đang tìm kiếm, không còn bị trói buộc trong qui trình của trở thành. Yên lặng này không được tích lũy, nó có lẽ không được thành tựu qua luyện tập. Yên lặng phải không biết được đối với cái trí giống như cái không thời gian; bởi vì nếu cái trí trải nghiệm yên lặng đó, vậy thì có người trải nghiệm mà là kết quả của những trải nghiệm quá khứ, mà đã biết được một yên lặng của quá khứ; và cái gì được trải nghiệm bởi người trải nghiệm chỉ là một lặp lại tự chiếu rọi. Cái trí không bao giờ có thể trải nghiệm cái mới mẻ, và vì vậy cái trí phải tuyệt đối yên lặng.

 Cái trí có thể yên lặng chỉ khi nào nó không đang trải nghiệm, đó là, khi nó không đang quy định hay đang đặt tên, đang ghi lại hay đang lưu trữ trong ký ức. Đang đặt tên và đang ghi lại này là một qui trình liên tục của những tầng khác nhau của ý thức, không chỉ của cái trí bên ngoài. Nhưng khi cái trí bên ngoài yên lặng, cái trí bên trong có thể cống hiến những hàm ý của nó. Khi toàn ý thức yên lặng và bất động, được tự do khỏi tất cả trở thành, tự phát, vậy thì chỉ lúc đó cái vô hạn mới hiện diện. Ham muốn duy trì sự tự do này tạo ra sự tiếp tục cho ký ức của người trở thành, mà là một cản trở cho sự thật. Sự thật không có sự tiếp tục; nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, luôn luôn mới mẻ, luôn luôn trong sáng. Cái gì có sự tiếp tục không bao giờ có thể sáng tạo.

 Cái trí bên ngoài chỉ là một dụng cụ của truyền đạt, nó không thể đo lường cái vô hạn. Sự thật không phải để truyền đạt; và khi nó có thể truyền đạt, nó không còn là sự thật.

 Đây là thiền định.

 

_________________________________________________

 

Chương 19

TÌM KIẾM SỰ THẬT

 

Ô

ng ấy đã đến đây từ rất xa, hàng ngàn dặm bằng tàu thủy và máy bay. Ông ấy chỉ nói được ngôn ngữ riêng của ông ấy, và khó khăn lắm để điều chỉnh bản thân ông ấy với môi trường bực bội và mới mẻ này. Ông ấy hoàn toàn không quen thuộc với loại thức ăn và khí hậu này; được sinh ra và lớn lên trong một cao độ rất cao, sức nóng ẩm ướt đang tác động vào ông ấy. Ông ấy là một người đọc sách nhiều, một người khoa học thuộc loại nào đó, và đã thực hiện vài công việc viết lách. Dường như ông ấy quen thuộc với cả triết lý Phương Đông lẫn Phương Tây, và đã là một người Thiên chúa giáo. Ông ấy nói rằng ông ấy đã bất mãn với tất cả những thứ này lâu lắm rồi, nhưng phải tiếp tục vì gia đình. Hôn nhân của ông ấy là cái gì đó được hiểu như một hôn nhân hạnh phúc, và ông ấy thương yêu hai người con. Chúng đang học đại học trong quốc gia xa xôi đó, và có một tương lai sáng lạn. Nhưng bất mãn này liên quan đến sống và hành động của ông ấy đã gia tăng liên tục qua nhiều năm tháng, và cách đây vài tháng nó đã đạt đến một khủng hoảng. Ông ấy đã từ bỏ gia đình, thực hiện tất cả những sắp xếp cần thiết cho người vợ và con cái, và lúc này ông ấy ở đây. Ông ấy có vừa đủ tiền bạc để tiếp tục, và đã đến để tìm kiếm Thượng đế. Ông ấy nói rằng ông ấy không có cách nào để cân bằng được, và rất rõ ràng trong mục đích của ông ấy.

 Cân bằng không là một vấn đề để được đánh giá bởi những người thất bại, hay bởi những người thành công. Những người thành công có lẽ là những người mất cân bằng; và những người thất bại trở thành cay đắng, yếm thế, hoặc tìm ra một tẩu thoát qua ảo tưởng tự chiếu rọi nào đó. Cân bằng không nằm trong bàn tay của những người phân tích; phù hợp vào một tiêu chuẩn không nhất thiết thể hiện sự cân bằng. Chính tiêu chuẩn có lẽ là sản phẩm của một văn hóa mất cân bằng. Một xã hội tham lợi cùng những khuôn mẫu và những tiêu chuẩn của nó, dù thuộc cánh tả hay cánh hữu, dù sự tham lợi của nó được giao cho Chính thể hay những công dân của nó. Cân bằng là không tham lợi. Ý tưởng về cân bằng và không cân bằng vẫn còn trong lãnh vực của sự suy nghĩ và vì vậy không thể là trọng tài. Chính suy nghĩ, sự đáp trả bị quy định bởi những tiêu chuẩn và những đánh giá của nó, là không đúng đắn. Sự thật không là một ý tưởng, một kết luận.

 Liệu Thượng đế được tìm ra bởi sự tìm kiếm của anh ấy? Liệu bạn có thể đuổi theo cái không thể biết được? Muốn tìm được, bạn phải biết cái gì bạn đang tìm kiếm. Nếu bạn tìm kiếm để tìm được, cái gì bạn tìm được sẽ là một tự chiếu rọi; nó sẽ là cái gì bạn ham muốn, và sự sáng chế của ham muốn không là sự thật. Tìm kiếm sự thật là phủ nhận nó. Sự thật không có nơi ở cố định; không có con đường, không có người hướng dẫn đến nó, và từ ngữ không là sự thật. Sự thật sẽ được tìm ra trong một khuôn mẫu đặc biệt, trong một môi trường đặc biệt, giữa những con người nào đó, hay sao? Liệu sự thật ở đây và không ở đó? Liệu một người đó là người hướng dẫn đến sự thật, và không phải một người khác? Liệu có một người hướng dẫn? Khi sự thật được tìm kiếm, cái gì được tìm ra chỉ có thể có được từ sự dốt nát, bởi vì chính tìm kiếm được sinh ra từ sự dốt nát. Bạn không thể tìm kiếm sự thật; bạn phải ngừng lại cho sự thật hiện diện.

 “Nhưng liệu tôi không thể tìm được cái không tên? Tôi đã đến quốc gia này bởi vì ở đây có một cảm thấy vĩ đại cho sự tìm kiếm đó. Thuộc vật chất người ta có thể được tự do nhiều hơn ở đây, người ta không cần quá nhiều vật dụng; ở đây những sở hữu không quyến rũ người ta như bất kỳ nơi nào khác. Đó là một lý do tại sao người ta đi đến một tu viện. Nhưng có những tẩu thoát thuộc tâm lý trong đến một tu viện, và bởi vì tôi không muốn tẩu thoát vào sự cô lập có trật tự, tôi hiện diện ở đây, đang sống sống của tôi để tìm được cái không tên. Liệu tôi có thể tìm được nó?”

 Liệu nó là một vấn đề của năng lực? Năng lực không hàm ý tuân theo một nguồn của hành động đặc biệt, một con đường được xác định trước, cùng tất cả những điều chỉnh cần thiết, hay sao? Khi bạn đưa ra câu hỏi đó, bạn không đang hỏi bạn, một cá thể bình thường, liệu có phương tiện cần thiết để đạt được điều gì bạn ao ước, hay sao? Chắc chắn, câu hỏi của bạn hàm ý rằng chỉ những người ngoại lệ mới tìm được sự thật, và không phải con người hàng ngày. Liệu sự thật được ban phát chỉ cho một ít người, cho những người thông minh ngoại lệ? Tại sao chúng ta hỏi liệu chúng ta có năng lực để tìm được nó? Chúng ta có cái ví dụ, mẫu mực của cái người mà được nghĩ rằng đã khám phá sự thật; và cái mẫu mực, bởi vì đã được nâng cao vượt khỏi chúng ta, tạo ra sự hoang mang trong chính chúng ta. Vẫn vậy, mẫu mực làm ra vẻ quan trọng vô cùng và có sự ganh đua giữa mẫu mực và chính chúng ta; chúng ta cũng ao ước để là người phá vỡ kỷ lục. Liệu câu hỏi này, “Tôi có năng lực đó hay không?”, nảy sinh từ sự so sánh nhận biết được hay không nhận biết được của người ta giữa người ta là gì và người ta nghĩ rằng mẫu mực là gì?

 Tại sao bạn so sánh chính bạn với lý tưởng? Và liệu sự so sánh mang lại đang hiểu rõ? Lý tưởng khác biệt chúng ta? Liệu nó không là một tự chiếu rọi, một sự việc bị tạo tác ở nhà, hay sao; và thế là liệu nó không ngăn cản đang hiểu rõ về chính chúng ta như chúng ta là, hay sao? Liệu sự so sánh không là một lẩn tránh khỏi đang hiểu rõ về chính chúng ta, hay sao? Có quá nhiều cách tẩu thoát khỏi chính chúng ta, và sự so sánh là một trong những cách đó. Chắc chắn, nếu không đang hiểu rõ về chính người ta, sự tìm kiếm cái tạm gọi là sự thật là một tẩu thoát khỏi chính người ta. Nếu không đang hiểu rõ về chính mình, thượng đế mà bạn tìm kiếm là thượng đế của ảo tưởng; và chắc chắn ảo tưởng mang lại xung đột và đau khổ. Nếu không đang hiểu rõ về chính mình, không thể có suy nghĩ đúng đắn; và lúc đó tất cả hiểu biết đều là dốt nát mà chỉ có thể dẫn đến hỗn loạn và hủy diệt. Đang hiểu rõ về chính mình không là một kết thúc cuối cùng; nó là cái chìa khóa duy nhất mở toang đến cái không thể cạn kiệt.

 “Liệu nhận được đang hiểu rõ về chính mình không gian khổ cực kỳ, hay sao; và liệu nó không mất quá nhiều thời gian, hay sao?”

 Chính nhận biết rằng nhận được đang hiểu rõ về chính mình gian khổ cực kỳ là một cản trở cho đang hiểu rõ về chính mình. Nếu tôi được phép đề nghị, không nên nghĩ rằng nó sẽ gian khổ, hay sẽ tốn thời gian; đừng khẳng định trước nó là gì và nó không là gì. Hãy khởi sự. Đang hiểu rõ về chính mình phải được phát hiện trong hành động của sự liên hệ; và tất cả hành động là sự liên hệ; đang hiểu rõ về chính mình không xảy ra qua tự cô lập, qua rút lui; phủ nhận sự liên hệ là chết. Chết là sự kháng cự cuối cùng. Sự kháng cự, mà là kiềm chế, thay thế hay thăng hoa trong bất kỳ hình thức nào, là một cản trở cho dòng chảy của đang hiểu rõ về chính mình; nhưng sự kháng cự phải được phát hiện trong sự liên hệ, trong hành động. Kháng cự, dù tiêu cực hay tích cực, cùng những so sánh và những bênh vực của nó, những chỉ trích và những đồng hóa của nó, là phủ nhận cái gì là. Cái gì là là cái tuyệt đối; và nhận biết cái tuyệt đối, mà không có bất kỳ chọn lựa nào, là sự bộc lộ của nó. Bộc lộ này là khởi đầu của thông minh. Thông minh là cốt lõi cho sự hiện diện của cái không biết được, cái không cạn kiệt.

 

_________________________________________________

 

Chương 20

NHẠY CẢM

 

M

ột cái vườn dễ thương, cùng những bãi cỏ trũng thấp và những cây cổ thụ có bóng mát. Ngôi nhà lớn, cùng những căn phòng rộng rãi, thoáng khí và cân đối. Những cái cây ban tặng chỗ ẩn náu cho nhiều chim chóc và nhiều con sóc, và những con chim thuộc mọi kích cỡ đang đến suối phun nước, thỉnh thoảng có cả những con chim ưng, nhưng thường là những con quạ, những con sẻ và những con vẹt liến thoắng. Ngôi nhà và cái vườn rất tách biệt, chúng càng tách biệt nhiều thêm khi chúng được bao bọc bên trong những bức tường cao, màu trắng. Thật dễ chịu bên trong những bức tường đó, và vượt khỏi chúng là sự ồn ào của con đường và ngôi làng. Con đường đi ngang qua những cái cổng, và một vài yard dọc theo con đường đó là cái làng, trên vùng phụ cận của một thị trấn lớn. Cái làng bẩn thỉu, với những đường mương không nắp đậy chạy dọc con đường chính, hẹp của nó. Những căn nhà mái tranh, những bậc thềm phía trước được trang trí, và trẻ em đang đùa giỡn trên đường làng. Vài người thợ dệt căng ra những sợi chỉ đầy màu sắc để làm ra vải vóc, và một nhóm trẻ em đang nhìn ngắm họ làm việc. Nó là một quang cảnh vui vẻ, sáng sủa, ồn ào và bốc mùi. Người dân làng mới tắm rửa, và họ mặc mỏng manh bởi vì khí hậu rất nóng. Gần đến tối một số người trong bọn họ say rượu rồi bắt đầu lớn tiếng và lỗ mãng.

 Chỉ là một bờ tường rất mỏng tách rời cái vườn dễ thương khỏi cái làng nhộn nhịp. Phủ nhận cái xấu xa và giam cầm vẻ đẹp là vô cảm. Sự vun đắp những đối nghịch luôn luôn làm chật hẹp cái trí và giới hạn quả tim. Đạo đức không là một đối nghịch; và nếu nó có một đối nghịch, nó không còn là đạo đức. Nhận biết được vẻ đẹp của cái làng đó là nhạy cảm với cái vườn xanh ngát, đang nở hoa. Chúng ta chỉ muốn nhận biết vẻ đẹp, và chúng ta lẩn tránh cái xấu xí. Kiềm chế này chỉ nuôi dưỡng sự vô cảm, nó không tạo ra sự trân trọng vẻ đẹp. Cái tốt lành không ở trong cái vườn, không tách khỏi cái làng, nhưng trong nhạy cảm mà nằm vượt khỏi cả hai. Phủ nhận hay đồng hóa dẫn đến sự nông cạn, mà là vô cảm. Nhạy cảm không phải một việc để được chăm sóc cẩn thận bởi cái trí, mà chỉ có thể phân chia và thống trị. Có tốt lành và xấu xa; nhưng theo đuổi cái này và lẩn tránh cái kia không dẫn đến nhạy cảm đó mà cốt lõi cho sự hiện diện của sự thật.

 Sự thật không đối nghịch ảo tưởng, giả dối, và nếu bạn cố gắng tiếp cận nó như một đối nghịch, nó không bao giờ hiện diện. Sự thật chỉ có thể hiện diện khi những đối nghịch kết thúc. Chỉ trích hay đồng hóa nuôi dưỡng sự xung đột của những đối nghịch, và xung đột chỉ làm tăng thêm xung đột. Một sự kiện được tiếp cận một cách không cảm xúc, không phủ nhận hay bào chữa, không tạo ra xung đột. Một sự kiện, trong chính nó, không có đối nghịch; nó có một đối nghịch chỉ khi nào có một thái độ phòng vệ hay thích thú. Chính thái độ này dựng lên những bức tường của vô cảm và hủy diệt hành động. Nếu chúng ta ưa thích ở trong cái vườn hơn, có một kháng cự với cái làng; và nơi nào có kháng cự không thể có hành động, hoặc trong cái vườn hay hướng về cái làng. Có lẽ có hoạt động, nhưng không phải hành động. Hoạt động được đặt nền tảng trên một ý tưởng, và hành động lại không. Những ý tưởng có những đối nghịch, và chuyển động bên trong những đối nghịch chỉ là hoạt động, dù kéo dài hay được thay đổi đến chừng nào. Hoạt động không bao giờ có thể đang giải thoát.

 Hoạt động có một quá khứ và một tương lai, nhưng hành động lại không. Hành động luôn luôn trong hiện tại, và vì vậy ngay tức khắc. Đổi mới là hoạt động, không phải hành động, và cái gì được đổi mới cần đổi mới thêm nữa. Đổi mới là không hành động, một hoạt động được sinh ra như một đối nghịch. Hành động là từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, và, lạ lùng làm sao, nó không tiềm ẩn sự mâu thuẫn; nhưng hoạt động, mặc dù nó có lẽ hiện diện mà không có một gián đoạn, lại đầy những mâu thuẫn. Hoạt động của cách mạng chất đầy những mâu thuẫn và vì vậy không bao giờ có thể giải thoát. Xung đột, chọn lựa, không bao giờ có thể là một nhân tố giải thoát. Nếu có chọn lựa, có hoạt động và không phải hành động; bởi vì chọn lựa được đặt nền tảng trên ý tưởng. Cái trí có thể buông thả trong hoạt động, nhưng nó không thể hành động. Hành động nảy ra từ một cái nguồn khác hẳn.

 Mặt trăng hiện ra bên trên cái làng, sáng tạo những cái bóng qua cái vườn.

 

_________________________________________________

 

Chương 21

CÁ THỂ VÀ XÃ HỘI

 

C

húng tôi đang dạo bộ dọc theo một con đường đông đúc. Hai bên vỉa hè đông nghẹt người, và mùi của khói thải từ những chiếc xe hơi và xe buýt bịt kín lỗ mũi của chúng tôi. Cửa hàng phơi bày nhiều thứ xoàng xoàng và đắt tiền. Bầu trời màu bạc nhạt, và thật dễ chịu trong công viên khi chúng tôi thoát khỏi khu buôn bán ồn ào đó. Chúng tôi đi sâu hơn nữa vào công viên và ngồi xuống.

 Ông ấy đang nói rằng Chính thể, cùng quân đội và luật pháp của nó, đang cuốn hút những cá thể hầu như khắp mọi nơi, và hiện nay tôn sùng Chính thể đang thế chỗ tôn sùng Thượng đế. Trong hầu hết mọi quốc gia Chính thể đang soi mói vào những sống rất riêng tư của nhân dân của nó; họ đang được dạy bảo phải đọc điều gì và suy nghĩ ra sao. Chính thể đang nhòm ngó những công dân của nó, theo dõi họ cẩn thận, đảm trách chức năng của Giáo hội. Nó là tôn giáo mới. Hồi trước con người là một nô lệ của Giáo hội, nhưng bây giờ họ là một nô lệ của Chính thể. Trước kia nó là giáo hội, và hiện nay nó là Chính thể mà điều khiển sự giáo dục của anh ấy; và không quan tâm gì đến sự giải thoát của con người.

 Sự liên hệ của cá thể với xã hội là gì? Chắc chắn, xã hội tồn tại cho cá thể, và không phải ngược lại. Xã hội tồn tại cho sự nở hoa của con người; nó tồn tại vì mục đích trao tặng sự tự do cho cá thể để cho anh ấy có lẽ có cơ hội được thức dậy thông minh tột đỉnh. Thông minh này không là sự vun đắp thuần túy của một phương pháp kỹ thuật hay của hiểu biết; nó là hiệp thông cùng sự thật sáng tạo đó mà không thuộc cái trí giả tạo. Thông minh không là một kết quả được tích lũy, nhưng sự tự do khỏi thành tựu và thành công liên tục gia tăng.

 Thông minh không bao giờ đứng yên; nó không thể bị sao chép và bị tiêu chuẩn hóa, và vẫn vậy không thể được dạy dỗ. Thông minh sẽ được khám phá trong tự do.

 Ý muốn tập thể và hành động của nó, mà là xã hội, không cống hiến tự do này cho cá thể; bởi vì xã hội, không phải là chất hữu cơ thay đổi, luôn luôn cố định. Xã hội được thiết lập, được sắp xếp vào chung vì sự thuận tiện của con người; nó không có cơ cấu độc lập của riêng nó. Con người có lẽ điều khiển xã hội, hướng dẫn nó, định hình nó, áp chế nó, tùy thuộc vào những trạng thái tâm lý của họ; nhưng xã hội không là ông chủ của con người. Nó có lẽ ảnh hưởng anh ấy, nhưng con người luôn luôn phá vỡ nó. Có xung đột giữa con người và xã hội bởi vì con người xung đột với chính anh ấy; và xung đột đó là giữa cái cố định và cái đang sống. Xã hội là sự thể hiện phía bên ngoài của con người. Sự xung đột giữa chính anh ấy và xã hội là sự xung đột trong chính anh ấy. Xung đột này, bên trong và bên ngoài, sẽ luôn luôn tồn tại cho đến khi thông minh tột đỉnh được thức dậy.

 Chúng ta là những thực thể xã hội cũng như những cá thể; chúng ta là những công dân cũng như những con người, những con người đang trở thành bị tách rời nên phải sống trong đau khổ và vui thú. Nếu muốn có hòa bình, chúng ta phải hiểu rõ sự liên hệ đúng đắn giữa con người và công dân. Dĩ nhiên, Chính thể ưa thích chúng ta là những công dân hoàn toàn; nhưng đó là sự dốt nát của chính thể. Chính chúng ta ưa thích chuyển giao con người sang công dân; bởi vì là một công dân dễ dàng hơn là một con người. Là một công dân tốt là vận hành hiệu quả trong khuôn mẫu của một xã hội được thiết lập sẵn. Hiệu quả và tuân phục được yêu cầu nơi công dân, bởi vì họ tôi luyện anh ấy, khiến cho anh ấy tàn nhẫn; và vì vậy anh ấy có thể hy sinh con người cho công dân. Một công dân tốt không nhất thiết phải là một con người tốt; nhưng một con người tốt chắc chắn là một công dân tốt, không thuộc bất kỳ xã hội hay quốc gia đặc biệt nào. Bởi vì tại cơ bản anh ấy là một con người tốt, những hành động của anh ấy sẽ không chống lại xã hội, anh ấy sẽ không chống lại một con người khác. Anh ấy sẽ sống trong đồng hợp tác cùng những con người tốt lành khác; anh ấy sẽ không tìm kiếm uy quyền, bởi vì anh ấy không có uy quyền; anh ấy có thể hiệu quả mà không có sự tàn nhẫn của nó. Công dân gắng sức hy sinh con người; nhưng tự nhiên con người đang tìm kiếm sự thông minh tột đỉnh sẽ lẩn tránh những dốt nát của công dân. Vì vậy Chính thể sẽ chống lại con người tốt lành, con người của thông minh; nhưng một con người như thế được tự do khỏi tất cả những chính phủ và những quốc gia.

 Con người thông minh sẽ sáng tạo một xã hội tốt lành; nhưng một công dân tốt sẽ không sáng tạo một xã hội mà trong đó con người có thể thuộc về thông minh tột đỉnh. Xung đột giữa công dân và con người là điều không tránh khỏi nếu công dân có uy quyền hơn và bất kỳ xã hội nào mà cố ý lơ là con người đều phải gánh chịu số phận bi thảm. Có sự hiệp thông giữa công dân và con người chỉ khi nào qui trình tâm lý của con người được hiểu rõ. Chính thể, xã hội hiện nay, không quan tâm đến con người phía bên trong, nhưng chỉ quan tâm đến con người phía bên ngoài, công dân. Nó có lẽ phủ nhận con người phía bên trong, nhưng anh ấy luôn luôn khuất phục phía bên ngoài, đang hủy diệt những kế hoạch được sáng chế ranh mãnh cho công dân. Chính thể hy sinh hiện tại cho tương lai, luôn luôn bảo vệ chính nó cho tương lai; nó coi tương lai là quan trọng nhất, và không phải hiện tại. Nhưng đối với con người thông minh, hiện tại có sự quan trọng nhất, cái ngay lúc này và không phải cái ngày mai. Cái gì là có thể được hiểu rõ chỉ bằng cách xóa sạch ngày mai. Đang hiểu rõ cái gì là sáng tạo sự thay đổi trong hiện tại tức khắc. Chính sự thay đổi này có tầm quan trọng cực kỳ, và không phải làm thế nào hòa hợp được công dân với con người. Khi thay đổi này xảy ra, xung đột giữa con người và công dân kết thúc.

_________________________________________________

 

Chương 22

CÁI TÔI

 

 chỗ ngồi đối diện là một người đàn ông có chức vụ và uy quyền. Ông ấy nhận biết rõ ràng về điều này, bởi vì cái nhìn của ông ấy, cử chỉ của ông ấy, thái độ của ông ấy khẳng định sự quan trọng của ông ấy. Ông ấy nắm chức vụ rất cao trong Chính phủ, và những con người quanh ông ấy rất khúm núm. Ông ấy nói lớn tiếng cho người nào đó rằng quấy rầy ông ấy bởi những công việc văn phòng nhỏ nhen là việc rất xúc phạm. Ông ấy đang quát tháo về những việc làm của những nhân viên của ông ấy, và những người lắng nghe trông rất lo lắng và sợ hãi. Chúng tôi đang ở trong máy bay cao trên những đám mây, mười tám ngàn feet, và qua những khoảng trống trong những đám mây là biển cả xanh lơ. Khi những đám mây hơi tan ra, có những hòn núi phủ đầy tuyết, những hòn đảo và những cái vịnh rộng thông ra biển. Những ngôi nhà cô đơn và những cái làng nhỏ xíu trông đẹp đẽ vô cùng và xa xôi quá! Một con sông chảy ra biển từ những hòn núi. Nó chảy qua một thị trấn rất lớn, đầy khói và dơ bẩn, nơi nước của nó bị ô nhiễm, nhưng xa hơn chút xíu lại sạch sẽ và lấp lánh.

 Cách đó vài chỗ ngồi một sĩ quan trong bộ đồng phục, ngực của ông ấy phủ đầy huy chương, tự tin và kiêu hãnh. Ông ấy thuộc một giai cấp tách rời mà tồn tại khắp thế giới.

 Tại sao chúng ta lại khao khát được công nhận, được thâu nhận thêm nhiều công nhận, được khuyến khích? Tại sao chúng ta là những người kênh kiệu như thế? Tại sao chúng ta bám vào cái riêng biệt của tên tuổi, chức vụ, thâu lợi. Liệu vô danh đang thoái hóa, và không được biết đến là hèn hạ. Tại sao chúng ta theo đuổi những nổi tiếng, những ưa chuộng? Tại sao chúng ta không thỏa mãn để là chính chúng ta? Tại sao chúng ta sợ hãi và nhục nhã về chúng ta là gì, tại sao danh tánh, vị trí và thâu lợi đó trở thành quan trọng như thế? Thật lạ lùng khi sự ham muốn được công nhận, được hoan nghênh mạnh mẽ làm sao! Trong sự phấn khích của một trận chiến, người ta làm những việc không thể tin nổi và nhờ đó người ta được tôn vinh; người ta trở thành một anh hùng khi giết chết một người bạn. Qua đặc ân, khôn ngoan hay năng lực và hiệu quả, người ta đến được nơi nào đó gần đỉnh – mặc dù đỉnh không bao giờ là đỉnh, bởi vì luôn luôn có nhiều hơn và nhiều hơn trong say sưa sự thành công. Quốc gia hay kinh doanh là chính bạn; bạn lệ thuộc vào những chủ đề, bạn là uy quyền. Tôn giáo có tổ chức trao tặng vị trí, thanh danh và tôn vinh; cũng vậy, ở đó bạn là người nào đó, tách rời và quan trọng. Hay, lại nữa, bạn trở thành một môn đệ của một người thầy, của một đạo sư hay bậc thầy cõi trên, hay bạn đồng hợp tác cùng họ trong những công việc của họ. Bạn vẫn còn quan trọng, bạn đại diện cho họ, bạn chia sẻ trách nhiệm của họ, bạn có và những người khác thâu nhận. Mặc dù nhân danh họ, bạn vẫn còn là phương tiện. Bạn có lẽ khoác vào một cái khố hay cái áo thầy tu, nhưng chính là bạn mà đang tạo ra hành động, chính là bạn mà đang từ bỏ.

 Trong cách này hay cách khác, tinh tế hay thô thiển, cái tôi được nuôi dưỡng và được duy trì. Cũng như những hoạt động hư hỏng và chống đối xã hội của nó, tại sao cái tôi lại tự khẳng định chính nó? Mặc dù chúng ta đang hỗn loạn và đau khổ, với những niềm vui thoáng chốc, tại sao cái tôi bám vào những thỏa mãn phía bên ngoài và phía bên trong, bám vào những theo đuổi mà chắc chắn mang lại đau khổ và phiền muộn? Sự khao khát thực hiện hoạt động tích cực như đối nghịch với sự tiêu cực khiến cho chúng ta ham muốn để hiện diện; sự khao khát của chúng ta khiến cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang sống, có một mục đích cho sống của chúng ta, do thăng hoa chúng ta sẽ từ từ xóa sạch những nguyên nhân của xung đột và đau khổ. Chúng ta cảm thấy rằng nếu hoạt động của chúng ta không còn, chúng ta sẽ không là gì cả, chúng ta sẽ bị hụt hẫng, sống sẽ không có ý nghĩa gì cả; thế là chúng ta tiếp tục trong xung đột, trong hỗn loạn, trong thù hận. Nhưng chúng ta cũng nhận biết rằng có cái gì đó còn ý nghĩa nhiều hơn nữa, rằng có cái khác lạ mà ở trên và vượt khỏi tất cả đau khổ này. Vẫn vậy chúng ta đang đấu tranh liên tục bên trong chính chúng ta. Bên ngoài chúng ta càng có vẻ vĩ đại bao nhiêu, bên trong chúng ta càng nghèo khó bấy nhiêu; nhưng giải thoát khỏi sự nghèo khó này không là cái khố. Nguyên nhân của trống rỗng phía bên trong này là sự ham muốn để trở thành; và, dù bạn làm bất kỳ việc gì, trống rỗng này không bao giờ có thể được lấp kín. Bạn có lẽ tẩu thoát khỏi nó một cách thô thiển, hay một cách thanh tao; nhưng nó vẫn kề cận bạn như cái bóng của bạn. Bạn có lẽ không muốn nhìn vào trống rỗng này, nhưng vẫn vậy nó hiện diện ở đó. Những tô điểm và những từ bỏ mà cái tôi đảm trách không bao giờ có thể xua đuổi nghèo khó bên trong này. Bằng những hoạt động của nó, phía bên trong và phía bên ngoài, cái tôi cố gắng kiếm được sự giàu có, gọi nó là trải nghiệm hay tặng cho nó một cái tên khác tùy theo sự thuận tiện và sự thỏa mãn của nó. Cái tôi không bao giờ có thể vô danh; nó có lẽ khoác vào chiếc áo mới, nhận vơ những cái tên khác nhau, nhưng đồng hóa là chính bản chất của nó. Qui trình đồng hóa này ngăn cản sự nhận biết được bản chất riêng của nó. Qui trình tích lũy của đồng hóa thiết lập cái tôi, tích cực hay tiêu cực; và hoạt động của nó luôn luôn đang tự khép kín, dù cái vòng khép kín này rộng lớn đến chừng nào. Mọi nỗ lực của cái tôi để hiện diện hay không hiện diện là một chuyển động lẩn tránh cái gì là. Ngoại trừ cái tên, những thuộc tính, những đặc điểm, những sở hữu của nó, cái tôi là gì? Liệu có cái ‘Tôi”, cái ngã, khi những phẩm chất của nó bị xóa sạch? Do bởi sự sợ hãi của không là gì cả mới thúc đẩy cái tôi hoạt động; nhưng nó không là gì cả, nó là một trống rỗng.

 Nếu chúng ta có thể đối diện sự trống rỗng đó, ở cùng sự cô độc đau đớn đó, vậy thì sợ hãi hoàn toàn biến mất và một thay đổi cơ bản xảy ra. Muốn việc này xảy ra, phải có đang trải nghiệm sự trống rỗng đó – mà bị ngăn cản nếu có một người trải nghiệm. Nếu có một ham muốn thực hiện đang trải nghiệm sự trống rỗng đó với mục đích khuất phục nó, thoát lên trên và vượt khỏi nó, vậy thì không có đang trải nghiệm; bởi vì cái tôi, như một nhận dạng, tiếp tục. Nếu người trải nghiệm có một trải nghiệm, không còn trạng thái của đang trải nghiệm nữa. Chính là đang trải nghiệm cái gì là mà không đặt tên mới sáng tạo sự tự do khỏi cái gì là.

 

_________________________________________________

 

Chương 23

NIỀM TIN

 

C

húng tôi ở trên cao trong những hòn núi và thời tiết rất khô khan. Đã không có mưa trong nhiều tháng, và những dòng suối nhỏ yên lặng. Những cây thông đang biến thành màu nâu, và một số cây đã chết rồi, nhưng gió lẫn trong chúng. Những hòn núi duỗi dài, gập ghềnh này kế tiếp gập ghềnh khác, đến tận đường chân trời. Hầu hết động vật hoang dã đã trốn đến những cánh đồng cỏ mát mẻ và màu mỡ hơn, chỉ còn sót lại những con sóc và vài con chim giẻ cùi. Có những con chim nhỏ hơn, nhưng chúng cũng im lặng suốt ngày. Một cây thông chết chuyển thành màu trắng bệch sau nhiều mùa hè. Thậm chí trong chết nó vẫn đẹp đẽ, duyên dáng và mạnh mẽ không bị ô nhiễm bởi cảm tính. Đất khô cứng và những con đường đầy đá lẫn bụi bặm.

 Bà ấy nói rằng bà ấy đã đi theo vô số tổ chức tôn giáo, nhưng cuối cùng đã hài lòng trong một tổ chức. Bà ấy đã làm việc cho nó như một người giảng thuyết và người truyền bá, một cách thực tế khắp thế giới. Bà ấy nói rằng bà ấy đã từ bỏ gia đình, những thoải mái và nhiều sự việc khác chỉ vì lợi ích của tổ chức này; bà ấy tin tưởng những niềm tin của nó, những giáo điều và những giáo lý của nó, đã tuân theo những người đứng đầu của nó, và cố gắng thiền định. Bà ấy được kính trọng bởi những hội viên cũng như những người đứng đầu. Lúc này, bà ấy tiếp tục, khi đã nghe điều gì tôi giải thích về những niềm tin, những tổ chức, những nguy hiểm của tự dối gạt, và vân vân, bà ấy đã rút lui khỏi tổ chức này và những hoạt động của nó. Bà ấy không còn hứng thú nhiệm vụ cứu rỗi thế giới, nhưng lại đang bận tâm bởi gia đình nhỏ nhoi của bà ấy cùng những rắc rối của nó, và chỉ quan tâm chút ít thế giới hỗn loạn này. Bà ấy có vẻ cay đắng, mặc dù phía bên ngoài tỏ ra tử tế và rộng lượng, bởi vì bà ấy nói rằng sống của bà ấy dường như quá lãng phí. Sau tất cả nhiệt thành và công việc quá khứ của bà ấy, lúc này bà ấy ở đâu? Điều gì đã xảy ra cho bà ấy? Tại sao bà ấy lại quá đờ đẫn và mệt mỏi, và tại tuổi tác của bà ấy, tại sao lại quá quan tâm đến những vấn đề tầm thường như thế?

 Chúng ta dễ dàng hủy diệt sự nhạy cảm tinh tế của đang hiện diện của chúng ta. Đấu tranh và xung đột liên tục, những sợ hãi và những tẩu thoát lo âu, chẳng mấy chốc khiến cho cái trí và quả tim đờ đẫn; và cái trí ranh mãnh vội vàng tìm kiếm những thay thế để có sự nhạy cảm của sống. Những vui chơi, gia đình, chính trị, những niềm tin và những thần thánh thay thế vai trò của tình yêu và rõ ràng. Rõ ràng bị mất hút bởi hiểu biết và niềm tin, và tình yêu bị mất hút bởi những cảm xúc. Niềm tin mang lại rõ ràng? Bức tường khép kín của niềm tin tạo ra hiểu rõ? Sự cần thiết của những niềm tin là gì, và liệu chúng không làm tối tăm thêm cái trí đã bị che phủ rồi, hay sao? Hiểu rõ cái gì là không đòi hỏi những niềm tin, nhưng sự nhận biết hiệp thông, nó là nhận biết trực tiếp mà không có sự can thiệp của ham muốn. Do bởi ham muốn mới tạo ra hỗn loạn, và niềm tin là sự mở rộng của ham muốn. Những phương cách của ham muốn rất tinh tế, và nếu không hiểu rõ chúng niềm tin chỉ gia tăng xung đột, hoang mang và thù hận. Một cái tên khác cho niềm tin là trung thành, và trung thành cũng là chỗ ẩn náu của ham muốn.

 Chúng ta nương dựa niềm tin như một phương tiện của hành động. Niềm tin trao tặng chúng ta sức mạnh đặc biệt đó mà đến từ sự loại trừ; và bởi vì hầu hết chúng ta quan tâm đến hành động, niềm tin trở thành một cần thiết. Chúng ta cảm thấy chúng ta không thể hành động nếu không có niềm tin, bởi vì chính niềm tin cho chúng ta cái gì đó để sống nhờ, để làm việc vì nó. Đối với hầu hết chúng ta, sống không có ý nghĩa ngoại trừ cái mà niềm tin cho nó; niềm tin có ý nghĩa lớn lao hơn sống. Chúng ta nghĩ rằng sống phải được sống trong khuôn mẫu của niềm tin; bởi vì nếu không có khuôn mẫu của loại nào đó, làm thế nào có thể có hành động? Thế là, hành động của chúng ta được đặt nền tảng trên ý tưởng, hay kết quả của một ý tưởng; và vậy là, hành động không quan trọng bằng ý tưởng.

 Liệu những sự việc của cái trí, dù khác thường và tinh tế, có khi nào tạo ra sự trọn vẹn của hành động, một thay đổi cơ bản trong hiện diện của người ta và vì vậy trong trật tự xã hội? Liệu ý tưởng là phương tiện của hành động? Ý tưởng có lẽ tạo ra một chuỗi những hành động nào đó, nhưng đó chỉ là hoạt động; và hoạt động hoàn toàn khác hẳn hành động. Chính trong hoạt động này mà người ta bị trói buộc; và khi bởi vì lý do nào đó hay hoạt động khác ngăn cản, vậy thì người ta cảm thấy hụt hẫng và sống trở thành vô nghĩa, trống rỗng. Chúng ta nhận biết được trống rỗng này, có ý thức hay không ý thức, và vì thế ý tưởng và hoạt động trở thành quan trọng nhất. Chúng ta lấp đầy trống rỗng này bằng niềm tin, và hoạt động trở thành một cần thiết gây thoái hóa. Vì lợi ích của hoạt động này, chúng ta sẽ từ bỏ; chúng ta sẽ điều chỉnh chính chúng ta đến bất kỳ sự phiền phức nào, đến bất kỳ ảo tưởng nào.

 Hoạt động của niềm tin đang gây hỗn loạn và hủy diệt; thoạt đầu dường như nó có trật tự và xây dựng, nhưng trong sự thức dậy của nó có xung đột và đau khổ. Mọi loại niềm tin, tôn giáo hay chính trị, ngăn cản đang hiểu rõ về liên hệ, và không thể có hành động nếu không có đang hiểu rõ này.

 

_________________________________________________

 

Chương 24

YÊN LẶNG

 

N

ó là một động cơ mạnh và rất êm ả; nó dễ dàng leo lên những quả đồi, không bị tắt máy, và chiếc xe tải nhỏ thật tuyệt vời. Con đường leo lên rất dốc ra khỏi thung lũng và chạy giữa những vườn cam và những cây óc chó cao tán rộng. Cả hai bên đường những vườn cây vươn dài đến bốn mươi dặm, thẳng đến tận chân những hòn núi. Từ từ thẳng lại, con đường băng qua một hay hai thị trấn nhỏ, và sau đó tiếp tục vào vùng quê trống trải, xanh rực bởi cỏ linh lăng. Lại ngoằn ngoèo qua nhiều quả đồi, cuối cùng con đường dẫn vào sa mạc.

 Nó là một con đường bằng phẳng, tiếng kêu rền rền của động cơ thật bền bỉ, và xe cộ rất ít. Có một nhận biết mãnh liệt được vùng quê, chiếc xe hơi thỉnh thoảng đang vượt qua, hay những bảng chỉ đường, bầu trời xanh kinh ngạc, cơ thể đang ngồi trong chiếc xe; nhưng cái trí rất yên lặng. Nó không là yên lặng của kiệt lực, hay của thư giãn, nhưng một yên lặng nhận biết lạ thường. Không vị trí mà từ đó cái trí được yên lặng; không người quan sát về yên lặng này; người trải nghiệm hoàn toàn không hiện diện. Mặc dù có những linh tinh, không lăn tăn trong yên lặng này. Người ta nghe tiếng gầm thét của gió khi chiếc xe chạy nhanh, tuy nhiên yên lặng này không tách khỏi sự ồn ào của gió, khỏi những âm thanh của chiếc xe, và khỏi từ ngữ được nói ra. Cái trí không nhớ lại yên lặng lần trước, những yên lặng đó mà nó đã biết; nó không nói, ‘Đây là yên lặng.” Không có diễn đạt bằng từ ngữ, mà chỉ là sự công nhận và sự khẳng định về một trải nghiệm tương tự nào đó. Bởi vì không diễn đạt bằng từ ngữ, suy nghĩ bặt tăm. Không ghi lại, và thế là suy nghĩ không thể trói chặt yên lặng để suy nghĩ về nó; vì từ ngữ ‘yên lặng’ không là yên lặng. Khi từ ngữ không còn, cái trí không thể vận hành, và thế là người trải nghiệm không thể giam cầm yên lặng như một phương tiện của vui thú thêm nữa. Không qui trình thâu lượm đang làm việc, và cũng không phỏng chừng hay đồng hóa. Sự chuyển động của cái trí tuyệt đối vắng mặt.

 Chiếc xe ngừng lại tại những ngôi nhà. Tiếng chó sủa, tiếng bốc dỡ hàng của chiếc xe và sự quấy rầy thông thường không cách nào gây ảnh hưởng yên lặng lạ thường này. Không bực bội, và yên lặng tiếp tục. Gió lẫn trong những cây thông, những cái bóng dài, và một con mèo hoang vụt chạy qua giữa những bụi cây. Trong yên lặng này có chuyển động, và chuyển động này không là một xao nhãng. Không có chú ý cố định để từ đó bị xao nhãng. Có xao nhãng khi sự quan tâm chính yếu chuyển hướng; nhưng yên lặng này không có quan tâm, và vì vậy không có lang thang khỏi. Chuyển động không rời xa yên lặng này nhưng thuộc về nó. Nó là yên lặng, không phải của chết, không phải của thoái hóa, nhưng của sống mà tuyệt đối không còn xung đột trong nó. Với hầu hết chúng ta, sự đấu tranh của đau khổ và vui thú, sự thôi thúc của hoạt động, cho chúng ta một ý thức của sống; và nếu sự thôi thúc đó không còn nữa, chúng ta sẽ bị hụt hẫng và chẳng mấy chốc tan rã. Nhưng yên lặng này cùng chuyển động của nó là sáng tạo luôn luôn đang tự làm mới mẻ lại. Nó là một chuyển động không khởi đầu và vì vậy không kết thúc; cũng không có một tiếp tục. Chuyển động hàm ý thời gian; nhưng ở đây không có thời gian. Thời gian là nhiều hơn và ít hơn, xa xôi hơn hay gần gũi hơn, hôm qua hay ngày mai; nhưng trong yên lặng này tất cả so sánh đều kết thúc. Nó không phải một yên lặng mà đến một kết thúc để bắt đầu lại; không có sự lặp lại. Nhiều lừa bịp của cái trí ranh mãnh hoàn toàn vắng mặt.

 Nếu yên lặng này là một ảo tưởng cái trí sẽ có một liên quan nào đó với nó, cái trí sẽ hoặc phủ nhận nó hoặc bám chặt nó, lý luận nó, hay bằng sự thỏa mãn tinh tế đồng hóa cùng nó; nhưng bởi vì cái trí không liên quan với yên lặng này, cái trí không thể chấp nhận hay phủ nhận nó. Cái trí chỉ có thể vận hành bằng những chiếu rọi riêng của nó, bằng những sự việc thuộc về chính nó; nhưng nó không có liên quan với những sự việc mà không thuộc nguồn gốc riêng của nó. Yên lặng này không thuộc cái trí, và vì vậy cái trí không thể vun quén hay trở nên đồng hóa cùng nó. Nội dung của yên lặng này sẽ không đo lường được bởi những từ ngữ.

 

_________________________________________________

 

Chương 25

TỪ BỎ GIÀU CÓ

 

C

húng tôi đang ngồi dưới bóng một cây lớn, nhìn ra một thung lũng xanh. Con chim gõ kiến bận rộn và có những con kiến trong hàng dài đang bò tới lui giữa hai cái cây. Gió từ biển thổi vào, mang mùi của sương mù xa xôi. Những hòn núi xanh đậm và mơ mộng; thường thường chúng dường như quá gần gũi, nhưng lúc này chúng xa xăm lắm. Một con chim nhỏ đang uống nước từ cái vũng nhỏ xíu được tạo ra bởi một ống nước rò rỉ. Hai con sóc màu xám với những cái đuôi lông lù xù đang rượt đuổi nhau lên xuống một cái cây; chúng sẽ leo lên đỉnh cây và vụt xuống mặt đất theo hình xoắn ốc bằng một tốc độ kinh hoàng, và tiếp tục leo lên lại.

 Hồi trước ông ấy là một người giàu có và đã từ bỏ những của cải của ông ấy. Ông ấy đã có nhiều sở hữu và đã nếm trải gánh nặng trách nhiệm của chúng, bởi vì ông ấy là một người từ tâm và quả tim không quá khô cằn. Ông ấy cho đi rất hào phóng và quên bẵng những thứ đã cho đi. Ông ấy tốt lành với những người giúp đỡ ông ấy và lo liệu những lợi ích của họ, và kiếm tiền dễ dàng trong một thế giới mà khẳng định vào việc kiếm tiền. Ông ấy không giống như những người mà tài khoản ngân hàng và những đầu tư của họ còn quan trọng hơn chính họ, mà cô độc và sợ hãi những con người và những nhu cầu của những người khác, mà tự khóa chặt trong bầu không khí đặc biệt của sự giàu có của họ. Ông ấy không là một đe dọa đối với gia đình và cũng không nhượng bộ dễ dàng, và ông ấy có nhiều bạn bè, nhưng không phải bởi vì ông ấy giàu có. Ông ấy đang nói rằng ông ấy đã từ bỏ những của cải bởi vì nó đã gây chấn động ông ấy vào một ngày nào đó, khi ông ấy đang đọc điều gì đó, kiếm tiền và giàu có của ông ấy thật ngu xuẩn làm sao. Lúc này, ông ấy chỉ còn một chút ít vật dụng tùy thân và đang cố gắng theo một sống đơn giản để tìm ra tất cả việc đó là gì và liệu có cái gì đó vượt khỏi những ham muốn của cải vật chất.

 Tương đối dễ dàng để mãn nguyện bởi một chút ít; chẳng khó khăn lắm để được tự do khỏi gánh nặng của nhiều sự việc khi người ta đang thực hiện một chuyến hành trình tìm kiếm cái gì đó. Sự thôi thúc của tìm kiếm phía bên trong khai quang sự hỗn loạn của nhiều sở hữu, nhưng được tự do khỏi những sự vật phía bên ngoài không có nghĩa một sống đơn giản. Đơn giản và trật tự phía bên ngoài không nhất thiết phải là yên lặng và hồn nhiên phía bên trong. Cũng tốt lành lắm khi được đơn giản phía bên ngoài, bởi vì nó trao tặng một tự do nào đó, nó là một hành động thiện ý của hiệp thông tổng thể; nhưng tại sao chúng ta luôn luôn bắt đầu bằng đơn giản phía bên ngoài mà không phải bằng đơn giản phía bên trong. Liệu phải thuyết phục chính chúng ta và những người khác về ý định của chúng ta? Tại sao chúng ta phải thuyết phục mình? Sự tự do khỏi những sự việc cần đến thông minh, không phải những hành động thiện ý và những thuyết phục; và thông minh không thuộc cá nhân. Nếu người ta nhận biết tất cả những hàm ý của nhiều sở hữu, chính nhận biết đó giải thoát, và vì vậy không có nhu cầu cho những khẳng định và những hành động thiện ý. Chỉ khi nào nhận biết thông minh này không vận hành thì chúng ta mới nương dựa vào những kỷ luật và những tách rời. Sự nhấn mạnh không phải vào nhiều hơn hay ít hơn, nhưng vào thông minh; và con người thông minh, bởi vì mãn nguyện bởi chút ít, được tự do khỏi nhiều sở hữu.

 Nhưng mãn nguyện là một việc và đơn giản là một việc hoàn toàn khác hẳn. Ham muốn cho mãn nguyện hay cho đơn giản là đang trói buộc. Ham muốn tạo ra sự phức tạp. Mãn nguyện hiện diện cùng nhận biết cái gì là, và đơn giản hiện diện cùng tự do khỏi cái gì là. Cũng tốt lành khi được đơn giản phía bên ngoài, nhưng đơn giản và rõ ràng phía bên trong lại quan trọng vô cùng. Rõ ràng không hiện diện qua một cái trí có mục đích và khẳng định; cái trí không thể sáng tạo nó. Cái trí có thể tự điều chỉnh, có thể sắp đặt những suy nghĩ của nó vào trật tự; nhưng đây không là rõ ràng hay đơn giản.

 Hành động của ý muốn tạo ra hỗn loạn; bởi vì ý muốn, dù được thăng hoa như thế nào, vẫn còn là dụng cụ của ham muốn. Ý muốn để là, để trở thành, dù xứng đáng và cao cả, có lẽ có một hướng dẫn, có lẽ sáng tỏ một phương cách trong hỗn loạn, nhưng một qui trình như thế dẫn đến cô lập, và rõ ràng không thể hiện diện bởi cô lập. Hành động của ý muốn có lẽ tạm thời thắp sáng nền bề mặt tức khắc, cần thiết cho thuần túy hoạt động, nhưng nó không bao giờ có thể khai quang nền quá khứ; bởi vì chính ý muốn là kết quả của nền quá khứ này. Nền quá khứ nuôi dưỡng và ấp ủ ý muốn, và ý muốn có lẽ mài bén nền quá khứ, nổi bật những tiềm năng của nó; nhưng ý muốn không bao giờ có thể xóa sạch nền quá khứ.

 Đơn giản không thuộc cái trí. Một đơn giản có kế hoạch chỉ là một điều chỉnh ranh mãnh, một phòng vệ chống lại đau khổ và vui thú; do bởi một hành động tự khép kín mới nuôi dưỡng những hình thức khác nhau của xung đột và hỗn loạn. Chính xung đột mang lại tối tăm, phía bên trong lẫn phía bên ngoài. Xung đột và rõ ràng không thể cùng hiện diện; và chính là giải thoát khỏi xung đột mới sáng tạo đơn giản, không phải khuất phục xung đột. Cái gì bị khuất phục phải được khuất phục lặp đi và lặp lại. Đang hiểu rõ xung đột là đang hiểu rõ ham muốn. Ham muốn có lẽ tự làm xao nhãng chính nó như người quan sát, người hiểu rõ; nhưng xao nhãng của ham muốn này chỉ là trì hoãn và không phải hiểu rõ. Hiện tượng của người quan sát và vật được quan sát không là một qui trình phân hai, nhưng là một qui trình hiệp thông; và chỉ trong đang trải nghiệm sự kiện của qui trình hiệp thông này mới có tự do khỏi ham muốn, khỏi xung đột. Nghi vấn của làm thế nào trải nghiệm sự kiện này không bao giờ nên hiện diện. Nó phải xảy ra; và nó xảy ra chỉ khi nào có tỉnh táo và nhận biết thụ động. Bạn không thể biết trải nghiệm thực sự của đối diện một con rắn độc bằng cách tưởng tượng hay phỏng đoán về nó khi đang ngồi yên ổn trong căn phòng của bạn. Muốn gặp gỡ con rắn độc bạn phải mạo hiểm đi ra ngoài vượt khỏi những con đường tráng nhựa và những ánh đèn nhân tạo.

 Suy nghĩ có thể ghi lại nhưng nó không thể trải nghiệm tự do khỏi xung đột; bởi vì đơn giản hay rõ ràng không thuộc cái trí.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn