Phần I Giới Thiệu Một Mảnh Đất Không Lối Vào

17 Tháng Năm 201200:00(Xem: 4104)

J. KRISHNAMURTI
GHI CHÉP tại NHÀ BẾP
1001 Bữa trưa cùng J. Krishnamurti
THE KITCHEN CHRONICLES
1001 Lunches with J. Krishnamurti
 Tác giả: Michael Krohnen
Lời dịch: Ông Không
– Tháng 4-2011–

Phần I

 

GIỚI THIỆU

MỘT MẢNH ĐẤT KHÔNG LỐI VÀO

 

 

Chương 1

NHỮNG BƯỚC ĐẦU TIÊN

 

 

“Tự do là sự quan sát thuần túy

mà không có phương hướng,

mà không có sự sợ hãi của

hình phạt và phần thưởng.

Tự do không có động cơ;

tự do không

tại khúc cuối của sự tiến hóa con người

nhưng ngay khởi đầu

sự hiện diện của anh ấy.”

 

 

 

-J. Krishnamurti

Tâm điểm của những Lời giảng

 

Ô

ng lặng lẽ đi vào căn phòng không tiếng động. Mặc bộ quần áo Ấn độ rộng chảy dài xuống, ông nhanh nhẹn di chuyển dọc theo bức tường, cẩn thận không giẵm phải bất kỳ người nào đang ngồi trên nền nhà. Mặc dù có phong thái cao quý và kiềm chế, dường như ông thực sự, hoàn toàn nhút nhát, khi ông di chuyển đến một không gian chưa bị người nào chiếm trong góc của căn phòng lớn sáng sủa nhờ ánh mặt trời. Ngay khi đã ngồi kiết già trên một tấm thảm nhỏ, ông ngước mắt lên và gặp gỡ những cái nhìn chăm chăm đang chờ đợi của bốn mươi hay năm mươi người trưởng thành còn trẻ, đang ngồi đối diện ông. Hầu hết, đều mặc tươm tất, giống như ông, trong bộ quần áo rộng thùng thình, màu nhạt, và có vẻ căng thẳng lẫn kính trọng.

 Tôi cảm thấy một ý thức dìu dịu của hân hoan bên trong tôi: cuối cùng những hoàn cảnh thuận lợi đã dẫn dắt tôi đến con người mà đã thức dậy sự suy nghĩ của tôi suốt vài năm qua. Đó kìa, ông hiện diện bằng xương bằng thịt, một người đàn ông khoảng giữa những năm bảy mươi, một dợn sóng của mái tóc bạc tạo khung những đường nét trên khuôn mặt đẹp đẽ, như điêu khắc của ông. Bằng hai mắt to phản chiếu lấp lánh đầy hài lòng, một cách điềm đạm ông chăm chú nhìn nhóm thanh thiếu nữ trẻ tuổi trước mặt. Mặc dù tôi đã thấy những bức ảnh của khuôn mặt ông, tôi ngạc nhiên bởi sự sôi nổi trẻ trung của nó và sự kết hợp của cao quý và khoáng đạt mà nó phơi bày.

 Dường như ông không vội vàng để bắt đầu nói chuyện nhưng từ tốn nhìn chăm chú từng khuôn mặt. Khi hai mắt của chúng tôi gặp nhau, tôi cảm thấy một chấn động, như thể một luồng năng lượng đột nhiên bật lên giữa hai chúng tôi. Mặc dù tôi chỉ là một người trong số năm mươi người và ngồi tại vòng ngoài của nhóm người, sự tiếp xúc ngắn ngủi bằng mắt có một tác động hiệp thông lạ thường.

 Sự yên lặng trong căn phòng đang lắng sâu, đang trở thành hầu như cảm thấy được, mặc dù theo đồng hồ nó không kéo dài đến một hay hai phút. Dẫu vậy, dường như nó không bị nặng trĩu; tôi trải nghiệm nó hao hao giống như một yên lặng dễ chịu mà trong đó tôi trở nên lặng lẽ nhận biết được chính tôi, cơ thể của tôi và những chuyển động của nó, những người chung quanh tôi, những tiếng ồn từ con đường phía bên ngoài, hoạt động suy nghĩ liên tục của tôi. Nhưng trên tất cả, tôi trở nên nhận biết được con người đó trong góc phòng đang nghiêm nghị nhìn chúng tôi, tuy nhiên lại theo cùng một yếu tố hóm hỉnh. Tôi kinh ngạc khi thấy cơ thể của ông thật mong manh và bé tí, giống như cơ thể của một cậu trai còn trẻ, và quyền năng tinh tế của sự hiện diện của ông dường như tự chuyển tải mà không cần những từ ngữ.

 Cuối cùng, ông phá vỡ sự yên lặng bằng cách hỏi, ‘Sáng nay chúng ta sẽ nói về điều gì đây?’

 Sau một thoáng ngần ngừ, một người đàn ông Ấn độ trẻ tuổi chỉ cách ông một vài feet cất lời, “Thưa ông, ông nói, ‘Bạn là thế giới, và thế giới là bạn’. Ý nghĩa của câu phát biểu đó là gì?”

 Một người phụ nữ phương Tây, mặc một sari bằng lụa xanh lá cây, đưa ra một đề nghị khác, “Liệu chúng ta có thể bàn luận về bản chất của cái trí tôn giáo?”

 Đầy chú ý, Krishnamurti đang lắng nghe những người đưa ra câu hỏi, và, không còn ai đề nghị thêm bất kỳ câu hỏi nào, ông hỏi, “Liệu chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách thâm nhập vào cái trí tôn giáo? Sau đó chúng ta sẽ đến câu hỏi còn lại. Điều đó được chứ?”

 Có những gật đầu háo hức và một xầm xì mãn nguyện trong nhóm người. Ông bắt đầu bằng cách nhấn mạnh rằng đây là một đối thoại, trong đó mọi người sẽ tham gia, và rằng ông không là uy quyền. Khi đối thoại được khai triển, càng nhiều người tham gia hơn và một trao đổi sinh động của những quan điểm nảy sinh từ đó. Nhưng ông tiếp tục dò dẫm sâu thẳm hơn bằng cách đặt ra những câu hỏi đơn giản và cơ bản, “Tôn giáo là gì? Bạn có ý gì qua từ ngữ ‘đang thâm nhập’?” và đại loại như thế, tập trung sự thâm nhập vào câu hỏi đầu tiên và kiên quyết rằng mọi người phải chầm chậm và cố ý chuyển động cùng nhau. Bỗng nhiên, ông tha thiết nài nỉ chúng tôi đối diện sự thật của điều gì chúng tôi đang bàn luận, “Làm ơn, lắng nghe; chúng ta quan tâm đến đang hiểu rõ về tổng thể của sự hiện diện, không chỉ một góc nhỏ xíu của nó. Bạn phải tìm ra cho chính bạn, khám phá cho chính bạn, sự thật là gì trong sống hàng ngày của bạn, trong sự hiện diện hàng ngày thực sự của bạn.”

 Tôi bị sững sờ bởi sự tức khắc đơn giản của tiếp cận của ông và tánh thực tế của nó, tách khỏi lý thuyết và phỏng đoán trừu tượng. Dường như không trả lời nào gây thỏa mãn ông, không kết luận nào được chấp nhận. Tại một mấu chốt, cuốn hút sự chú ý đến sự kiện rằng suốt lịch sử những tôn giáo có tổ chức đã phân chia nhân loại và gây ra sự xung đột và đau khổ không kể xiết, ông ngừng lại giữa câu nói, và một nụ cười tinh nghịch tỏa ra trên khuôn mặt của ông.

 “Tôi xin phép kể cho các bạn một câu chuyện vui?” ông chen vào. “Một số người các bạn có lẽ đã nghe nó, vì vậy đừng bị nhàm chán. Một con quỷ và bạn của nó đang dạo bộ trên quả đất. Trước mặt họ, họ thấy một người đàn ông cúi xuống và nhặt lên cái gì đó chiếu sáng trên mặt đất. Người đàn ông nhìn nó rất say đắm, bỏ nó vào trong túi và bước đi rất phấn khởi. Bạn của nó hỏi, ‘Người đàn ông đó đã tìm được cái gì mà thay đổi anh ta nhiều như thế?’ Con quỷ trả lời, ‘Tôi biết. Anh ta đã tìm được một mảnh của sự thật.’ Người bạn la lớn, ‘Trời ơi! Đó chắc là việc xui xẻo lắm cho anh ta.’ Con quỷ trả lời bằng một nụ cười ranh ma, ‘Không đâu. Tôi sẽ giúp anh ta tổ chức nó.’”

 Trong khi kể lại câu chuyện đùa, ông thay đổi sắc mặt và những cử chỉ của một người pha trò, thêm thắt những chi tiết của câu chuyện và sẵn sàng tham gia cùng chúng tôi trong tiếng cười bật lên tại điểm gút của câu chuyện. Tôi nghĩ thật lạ thường khi một người mà yêu cầu sự nghiêm túc vô cùng và thâm nhập những nghi vấn mãi mãi về sự hiện diện của con người lại có sự tự do đó để kể những câu chuyện đùa và chia sẻ một tràng cười như thế.

 “Tôi có nhiều chuyện vui lắm, những chuyện vui tốt lành, không phải những chuyện vui thô tục,” ông thêm vào một cách bất thường khi sự vui vẻ chung được lắng xuống. “Cười đùa là bộ phận của sự nghiêm túc, đúng chứ? Có thể thực sự cười đùa về chính người ta, quan sát về chính người ta bằng sự rõ ràng và nghiêm túc vô cùng, và tuy nhiên cùng cười đùa…”

 Tôi đã và đang theo sát sự đối thoại liên tục linh hoạt đó bằng sự nhiệt thành mỗi lúc một gia tăng, đang kinh ngạc bởi ý thức của thoải mái, thanh thản và chiều sâu mà chính nó tự chuyển tải. Mặc dù tôi là một người hoàn toàn mới mẻ đối với tất cả việc này, tôi cảm thấy hiệp thông cùng tất cả những người chung quanh, đặc biệt cùng Krishnamurti. Chưa bao giờ tham gia một đối thoại nhóm thuộc loại này, tôi trải nghiệm một chấn động bởi sự mới mẻ của tình huống và những thoáng gặp bất ngờ của cái gì đó mà có lẽ được diễn tả như ‘trạng thái tổng thể’. Sự tự do vô hạn mà qua đó chúng tôi thâm nhập về những sống hàng ngày của chúng tôi thật là vui vẻ. Từ đầu cho đến khoảnh khắc này, tôi không thốt ra một từ ngữ nào, một phần do bởi nhút nhát, một phần do bởi một cảm thấy của không tổng thể, mặc dù tôi ao ước thực hiện một đóng góp không thể quên được cho dòng chảy của ý nghĩa giữa nhóm người và người nói.

 Vừa lúc đó Krishnamurti phát biểu, bằng một cử chỉ nhấn mạnh của cả hai bàn tay, “Chừng nào còn có đau khổ và xung đột, không thể có thông minh. Vì vậy, liệu bạn có thể sống một sống hoàn toàn không xung đột? Và làm thế nào bạn sẽ tạo ra điều này?”

 Bộ não của tôi bật ra. Tôi biết câu trả lời và, không cần cố ý thêm nữa, thốt ra, “Qua thiền định.”

 Nó là một cảm xúc lạ thường khi nghe chính tôi đang tham gia năng động trong đối thoại. Trong một khoảng ngừng ngắn ngủi, tôi nghe tiếng vang của giọng nói của tôi, thấy những từ ngữ của tôi đang lơ lửng trong không gian trống không. Cái nhìn chăm chú của Krishnamurti tập trung vào tôi. Mặc quần áo phương Tây, cơ thể to lớn của tôi nổi bật khỏi phần còn lại của nhóm, tôi có thể dễ dàng được nhận ra. Cái thoáng nhìn nhạy bén của ông dịu lại, đầu của ông nghiêng một chút xíu, và một nụ cười rạng rỡ quanh nét mặt của ông khi ông nói bằng sự độ lượng nào đó, “Không, người bạn thân yêu!”

 Trong một khoảnh khắc tôi nghĩ rằng tôi đã nghe ông không đúng, sau đó chầm chậm nó thấm vào đầy chắc chắn: ông thực sự đã gọi tôi là ‘người bạn thân yêu’. Tôi phân vân để thâu nhận câu nói này như thế nào đây, sau đó tôi đã chọn chấp nhận nó trong một ý nghĩa cá nhân và tích cực. Điều mà quan điểm của tôi bị khước từ dường như chẳng đặt thành vấn đề bao nhiêu. Ngay khi tôi đã khôi phục mức độ kiểm soát nào đó đối với cơn bột phát thuộc cảm xúc mà tôi đã trải nghiệm bởi sự yêu mến đó, tôi tập trung vào sự thâm nhập đang tiếp tục về gốc rễ của sự xung đột.

 “Khi không có so sánh, không có tuân phục, vậy thì xung đột kết thúc, và sống là thông minh mà không là thông minh của bạn hay thông minh của tôi – đơn giản nó ,” Krishnamurti đang nói, “Và chỉ một cái trí không có xung đột mới là một cái trí tôn giáo.”

 Khi tôi đang lắng nghe những từ ngữ của ông, lối diễn đạt của tiếng nói của ông, dường như mọi thứ ông nói đều quá đúng đắn, một diễn tả chính xác của sự thật – mặc dù lặp đi lặp lại ông chỉ rõ, “Từ ngữ không là sự kiện, sự diễn tả không là vật được diễn tả.” Nó như thể một cái cửa trong cái trí của tôi đã mở toang và tôi đang nhìn ngắm một phong cảnh đẹp đẽ kinh ngạc, bao la và không có những giới hạn.

 “Và khi tôi nhận ra rằng tôi là thế giới, rằng tôi không tách khỏi nó, khi tôi có thể quan sát sự sợ hãi của tôi và được tự do khỏi nó, vậy thì có lẽ thiền định sẽ mở một cái cửa.” Những từ ngữ của ông đã chuyển sang một vang vọng, nghe giống như một bài thánh ca thiêng liêng.

 Mọi người chìm trong yên lặng. Ánh mặt trời đang tuôn vào phòng, cùng vô số hạt bụi đang nhảy múa trong nó, và có một ý thức của cùng nhau. Trong một khoảnh khắc, thời gian và không gian trở thành không cụ thể, như thể mọi nơi đều hiện diện ở đây và mọi tích tắc của giây đều là ngay lúc này. Mất dấu vết của tôi là ai và tôi ở đâu, tôi thấy mình đang nhìn vào phía bên trong, nhìn vào cái trí riêng của tôi nhưng trong một cách khác hẳn với thói quen sục sạo vào kho lưu trữ ký ức của tôi. Nó mới mẻ, mới mẻ lạ thường và sinh động.

 Khi tôi ngước mắt lên, tôi thấy Krishnamurti đang nhìn chúng tôi, thâu nhận tất cả chúng tôi tại cùng thời điểm, như nó hiện diện. Sau đó ông yên lặng ép hai lòng bàn tay vào cùng nhau trong sự chào hỏi namaste giống như cầu nguyện, cách tương đương của ‘hello’ và ‘good-bye’. Mọi người trong nhóm đáp lại. Nhưng khi không ai muốn đứng dậy, ông phác cử chỉ vào những người ngồi gần ông nhất, yêu cầu họ bằng một giọng rất nhỏ, “Các bạn làm ơn đứng lên chứ?”

 Trong khi mọi người đang đứng lên quanh tôi, tôi kinh ngạc khi nhìn đồng hồ: đối thoại của chúng tôi đã kéo dài gần hai tiếng đồng hồ và tuy nhiên dường như nó không có thời gian gì cả. Tôi đã gặp chút ít khó khăn nào đó để khiến cho hai bàn chân của tôi cựa quậy lại. Mặc dù thường xuyên thay đổi vị trí, hai chân của tôi hoàn toàn cứng đơ, và tôi có một cảm giác tê nhói khi tôi lảo đảo đứng thẳng. Nhưng sự chú ý của tôi không quá quan tâm đến sự bất ổn của cơ thể tôi: tôi vẫn còn hoàn toàn bị cuốn hút bởi Krishnamurti, người đang trao đổi vài lời với nhiều người khác. Dáng đi và cử chỉ của ông đầy thanh lịch; hình dáng của ông vẫn tỏa sáng; và trong tất cả mọi khía cạnh ông có vẻ giống như một con người lạ thường: một hoàng tử.

 Hai người phụ nữ Ấn độ trong sari lụa màu sắc đến gần ông, và sau một vài từ ngữ ba người bước đi khỏi để vào căn phòng kế bên, đóng cánh cửa gỗ đằng sau họ.

 Khi tôi mang giầy tại bậc thềm của ngôi nhà, cùng những người đang rời đi hai bên trái phải, hương thơm của đối thoại vẫn còn lần lữa cùng tôi. Nó như thể một ngọn đèn đã được bật lên bên trong bộ não của tôi, hay có lẽ, khác hơn, như thể những giác quan của tôi đã được lau sạch và ngọn đèn có thể đi vào. Suốt phần còn lại của ngày hôm đó, tôi cảm thấy một thanh thoát và hân hoan không thể giải thích được, và sự nhận biết của tôi về thế giới chung quanh cùng sự ồn ào và hỗn loạn của nó dường như, thật lạ lùng, không còn bị vướng bận bởi những lo âu và tự quan tâm.

 

*

Tôi biết tôi khao khát nhiều hơn. Tôi ao ước được nghe nhiều hơn nữa những nói chuyện của ông, tôi ao ước có sự tiếp xúc cá nhân cùng ông. Trong ý nghĩa nào đó, tôi cảm thấy đang thương yêu – không chỉ Krishnamurti, con người – nhưng còn cả điều gì ông đã nói, lời giảng giải thoát của sự tự do và sự trong sáng.

 Tại căn nhà tách khỏi Greenways Road tôi biết rằng Krishnamurti sẽ thực hiện một nói chuyện trước công chúng tại Indian Institute of Technology chiều hôm sau. Một tiếng đồng hồ trước thời gian ấn định tôi vẫy một chiếc xích lô máy nhỏ đưa tôi đến khu học viện nằm giữa vùng cây cỏ thật đẹp. Giảng đường ngoài trời đông nghẹt người: chắc phải có hai ngàn người, hầu hết là sinh viên.

 Khi Krishnamurti hiện diện trên sân khấu, tiếng huyên thuyên giảm dần, và mọi người hướng sự chú ý của họ về ông. Ông dường như cách biệt và khắc khổ nhiều hơn tại gặp gỡ nhóm nhỏ ngày hôm trước. Sau vài nhận xét khá nghiêm khắc về sự hỗn loạn mà con người đã tạo ra từ những sống của họ, mà ông nhằm trực tiếp vào những người trước mặt ông, ông làm giảm căng thẳng bằng một quan hệ tương đắc phù hợp nhiều hơn với khán giả. Đang diễn giải một tình huống mà trong đó thực sự không có sự lựa chọn, ông xen vào một chút ít hài hước bằng câu chuyện vui, “Nó giống như người chồng có người vợ mang bầu sắp sửa sinh con. Khi họ đến bệnh viện, người chồng hỏi vợ, ‘Em yêu, em có chắc chắn rằng em muốn trải qua việc này, hay không?’”

 Một tràng cười nơi khán giả. “Thật tốt lành khi chúng ta có thể cười đùa cùng nhau,” ông nhận xét, “Thật tốt lành khi cười đùa, khi có những câu chuyện vui hay hay cho chính chúng ta. Chúng ta có quá nhiều nước mắt trong những quả tim của chúng ta; có quá nhiều đau khổ.”

 Lắng nghe ông nói trước mặt mọi người giống như đang quan sát một họa sĩ tài giỏi vẽ cùng những từ ngữ của anh ấy một bức tranh toàn cảnh của tinh thần con người, đang chỉ cho chúng ta Nhà nguyện Sistine của ý thức chúng ta. Hình thức của một tập hợp lớn hơn tự nhiên giảm bớt sự ấm áp và ý thức của tình yêu mà tôi đã trải nghiệm trong suốt sự tiếp xúc đầu tiên của tôi cùng ông, nhưng nó không suy giảm sự ảnh hưởng của những từ ngữ của ông. Mặc dù rõ ràng ông vươn tới những người lắng nghe ông, nài nỉ lặp lại và lặp lại tình trạng cùng nhau tham gia, ông không dẫn vào một đối thoại với một vấn đáp qua lại lẫn nhau. Ông bộc lộ sự thấu triệt của ông vào sự quy định của con người một cách rất hiệp thông. Tánh đơn giản và vẻ đẹp của sự thấu triệt này khiến cho nó có thể chuyển tải đến bất kỳ người nào mà sẵn lòng gạt đi những niềm tin và những giáo điều của quá khứ và quan sát mới mẻ lại về đang sống hàng ngày thực sự của anh ấy hay chị ấy.

 Sau nói chuyện tôi bất ngờ gặp hai người bạn cũ của tôi trong số hàng ngàn người đang ra về. Tôi sung sướng khi gặp họ quá bất ngờ và thậm chi còn phấn khởi nhiều hơn khi họ nói cho tôi biết về những nói chuyện sắp tới của Krishnamurti tại Rishi Valley, một trường trung học mà ông đã thành lập trước chiến tranh. Bởi vì nó cách Madras hai trăm dặm và khó đi đến đó, họ đề nghị cho tôi quá giang trong chiếc xe của họ, một chiếc xe chở hàng cũ kỹ của nước Anh.

 Tôi cảm thấy rằng tôi không có sự chọn lựa nào khác trong vấn đề này và sung sướng đồng ý. Kể từ khi tôi tuân theo quả tim của tôi từ Himalayas đến Madras, tôi nghĩ rằng mọi thứ đều có một động lực riêng của chúng, trong phương hướng đúng đắn. Và nếu tôi chỉ cho phép sự khai mở của những sự kiện mà không có quá nhiều sự can thiệp về phần tôi, tôi có lẽ đang nghe nhiều về Krishnamurti. Mà là điều gì tôi ao ước.

 

 

Chương 2

BẮT ĐẦU TÌNH BẰNG HỮU

 

 

 

Tình yêu cũng thực sự, cũng mãnh liệt, như chết.

Nó không liên quan gì đến tưởng tượng,

hay cảm tính, hay lãng mạn;

và dĩ nhiên nó không liên quan gì đến

quyền hành, địa vị, thanh danh.

Nó yên lặng như những dòng nước của đại dương

và cũng vũ bảo như đại dương;

nó giống như những dòng nước đang chảy

của một con sông no nê đang trôi chảy vô tận;

không một khởi đầu hay một kết thúc.”

 

 

 

 

-J. Krishnamurti

Krishnamurti Độc thoại

 

R

ishi Valley là một ốc đảo, một nơi cây cối rậm rạp giữa một phong cảnh cằn cỗi của những quả đồi trơ trụi, những hình thành của những loại đá kỳ lạ và những tảng đá láng khổng lồ. Những cây bồ đề nhiều thế kỷ, những cây xoài và cây me tỏa bóng khắp khuôn viên, những cây cảnh như bức màn đổ xuống hai phía của những căn nhà nhỏ kiểu thuộc địa.

 Ngay sau khi chúng tôi đến, Krishnamurti được sắp xếp chương trình để thực hiện một nói chuyện cùng những học sinh và giáo viên của trường Rishi Valley. Tôi rất phấn khởi, những người khách, gồm cả chúng tôi, cũng được mời. Có một tâm trạng lễ hội khi chúng tôi cùng tham gia với hàng trăm học sinh và những giáo viên kính trọng trong giảng đường lớn. Tại một đầu của giảng đường, mà được để trống bốn phía chung quanh, có một cái bục thấp phủ bằng những tấm thảm màu sắc. Nhiều chậu cây nhỏ được đặt quanh chúng và một cái giá micro trên bục được nối với những cái loa và với một cái bàn có thiết bị ghi lại.

 Khi Krishnamurti đi vào, lại nữa tôi bị chấn động bởi dáng người thanh thanh. Quần áo rộng mà ông mặc tăng thêm sự nhỏ bé của ông, tương phản rõ rệt với những kích thước khổng lồ mà ông đang đảm nhiệm trong cái trí của tôi. Đến bục giảng, ông quay lại và chào hỏi bằng cách chắp hai tay. Tiếng xầm xì phấn khởi của đám đông bỗng nhiên ngừng lại khi cả những giáo viên lẫn những học sinh đồng loạt đáp lễ bằng cùng cử chỉ kính trọng.

 Krishnamurti cởi giầy sandal và cẩn thận từ từ leo lên bục, ngồi xuống theo vị trí kiết già. Ông đối diện khán giả, một nụ cười nhẹ nhàng quanh hai môi của ông, và lại nữa ông chắp hai tay chào hỏi. Cái thoáng nhìn của ông lướt qua những những khuôn mặt trẻ đang hướng về ông. Ông mỉm cười hài lòng khi bắt đầu bằng một câu hỏi, “Chúng ta sẽ nói về điều gì đây?” Sau một khoảng ngừng ngắn ngủi, nhiều học sinh nhỏ, cả nam và nữ, đưa ra vài câu hỏi đơn giản đầy sức thuyết phục, “Thượng đế là gì?” “Tại sao chúng tôi đang được giáo dục?” “Tại sao tôi phải vâng lời giáo viên của tôi?”

 Krishnamurti dịu dàng trả lời những câu hỏi, thích thú sự trao đổi bằng lời cùng những học sinh nhỏ, mà cái trí của các em vẫn còn trong sáng và tương đối không bị cản trở bởi những áp lực của kiếm sống và theo đuổi một nghề nghiệp. Có một bầu không khí của sự khoáng đạt không kiềm chế, sống động thêm bởi thỉnh thoảng được xen vào những tiếng cười hân hoan. Tại một thời điểm, đang cười cởi mở, ông thốt ra, “Tôi chưa bao giờ có nhiều vui vẻ như thế này từ khi bà của tôi chết.” Nhận ra rằng câu ngạn ngữ cổ có thể dễ dàng bị hiểu lầm, ông mau lẹ tự sửa chữa bằng cách nói, “Tôi thực sự không có ý điều đó.”

 Tôi đang ngồi trên cái ghế băng tại ngay phía sau của giảng đường, quan sát người đàn ông trên bục giảng trên vô số những cái đầu có mái tóc đen. Tôi bị cuốn hút không những bởi điều gì ông đang nói nhưng còn cả bởi sự diễn đạt giọng nói của ông. Thăm thẳm và vang rền, thỉnh thoảng nó cất cao vào nốt nhạc quãng tám cao hơn, với một lên xuống trầm bổng hầu như nhẹ nhàng như giọng phụ nữ. Ông có khuynh hướng bỏ bớt những từ ngữ nào đó, khiến cho câu nói của ông một đặc điểm rõ rệt của người Anh.

 Mặc dù có khoảng 500 người hiện diện, tôi cảm thấy rằng ông đang nói hiệp thông cùng tôi, đang diễn giải những quan tâm và những vấn đề cụ thể của tôi. Thật kỳ lạ. Trong khi tôi lắng nghe điều gì ông đang nói bằng một quả tim và cái trí khoáng đạt, có một ý thức của hiệp thông, của sự thanh thoát và hân hoan vô cùng, lạ thường và mới mẻ đối với tôi.

 Khi kết thúc nói chuyện, ông yêu cầu, “Chúng ta sẽ ngồi không cựa quậy và yên lặng trong nhiều phút nhé?” Nó như thể ông đã đưa ra một tín hiệu: mọi người, ngay cả những học sinh nhỏ tuổi, đang ngồi kiết già trên nền nhà và đã cựa quậy suốt nói chuyện, ngay tức khắc bất động. Sau một hay hai phút cùng nhau yên lặng, ông chắp hai bàn tay lại, mà chắc chắn là dấu hiệu cho những học sinh đứng vụt dậy và kèm theo những huyên thuyên đầy sức sống phân tán trong mọi phương hướng.

 Tôi vẫn còn bị mê hoặc trong vị trí của tôi giữa những chuyển động bất thình lình quanh tôi. Khi tôi yên lặng nhìn chung quanh, tôi bỗng nhận biết được ngày hôm đó rực rỡ đầy màu sắc. Có chim chóc với những bộ lông lóng lánh đang bay lượn nhẹ nhàng chung quanh; những bông hoa rực rỡ đang nở trọn vẹn. Thiên nhiên dường như ở khắp mọi nơi đầy quyền năng, ngay cả bên trong chính tôi.

 Khi tôi đứng dậy ra khỏi chỗ ngồi. Tôi nhận thấy rằng một ít người đã ở lại phía sau và đang tụ họp đông đúc quanh hình bóng của Krishnamurti. Nhã nhặn trao đổi một vài từ ngữ với một người, ông quay về người kế bên, bắt tay theo kiểu phương Tây.

 Tôi đang đứng yên lặng, với cái trí trắng xóa, bâng khuâng quan sát hành động trao đổi từ một khoảng cách khoảng hai mươi yard. Ngay tức khắc, Krishnamurti thấy tôi, đang đứng một mình. Không một chút do dự, ông rời khỏi người mà ông đang nói chuyện, và sải bước đến tôi. Bằng một nụ cười thân thiện ông dơ bàn tay ra, và không nói bất kỳ lời nào chúng tôi bắt tay nhau.

 Ảnh hưởng của gặp gỡ bất ngờ này khiến cho tôi không thốt ra được lời nào cả. Ông cũng không nói. Sau điều gì có vẻ là một khoảng ngừng yên lặng thật lâu, sự thôi thúc của truyền thống xã hội để nói điều gì đó, lấn át tôi. Tôi không thể suy nghĩ về bất kỳ điều gì cảm động để diễn tả; những từ ngữ duy nhất mà tôi có thể tập hợp nảy ra từ một cảm giác biết ơn đối với con người khiêm tốn này về việc ban cho tôi một tầm nhìn của cái gì đó mới mẻ tại cốt lõi.

 Tôi lắp bắp, “Cám ơn ông, thưa ông. Cám ơn ông!”

 Ông mỉm cười rạng rỡ, dò hỏi tôi. “Bạn từ đâu đến?”

 Tôi trả lời, “Ồ, tôi có nguồn gốc ở Đức, nhưng tôi đã sống ở Mỹ được nhiều năm cho đến bây giờ, ở California.”

 “À vâng, California,” ông nói, “Thỉnh thoảng tôi có đến đó.”

 Tại khoảnh khắc đó, tôi nhớ lại nhiều bài thơ được sáng tác bởi Krishnamurti trẻ tuổi mà tôi vừa mới đọc và đã gây ấn tượng cho tôi. Bởi vì tôi thích mình là một thi sĩ, tôi nghĩ rằng đây có lẽ là khoảnh khắc thích hợp để nói về thi ca. Vì vậy, tôi hỏi ông, “Tôi đã đọc nhiều bài thơ mà ông đã viết cách đây nhiều năm và thích chúng lắm. Ông còn sáng tác thơ những ngày này?”

 Nó như thể tôi đã chạm vào một dây thần kinh hay đã thay đổi bố cục của lãnh vực mà trong nó chúng tôi đang chuyển động. Dường như ông đang lùi xa khỏi tôi, và một thái độ cách biệt đột ngột bao phủ ông. “Tôi xin lỗi, tôi đã quên rồi,” ông trả lời xa xôi và đi khỏi sau khi bắt tay tôi.

 Mặc dù tôi không bị bối rối bởi cách xử sự của ông, tôi cảm thấy hơi hơi huyền bí bởi nó. Tôi càng đến gần con người lạ thường này nhiều bao nhiêu, tôi càng trở nên tò mò bấy nhiêu. Nó giống như đang nhìn ngắm mỗi lúc một gần gũi hơn một bông hồng, mà mỗi lúc một phơi bày những chi tiết về những nhụy của nó, chiều sâu màu sắc của nó, và hương thơm của nó.

 

*

 

Một vài ngày sau tôi đang dạo bộ trên con đường cây mọc thẳng hàng hai bên của khuôn viên trường, tắm trong ánh sáng mặt trời buổi chiều sớm, khi tôi bất ngờ gặp người hiệu trưởng của trường học. Ông ấy là một người mảnh khảnh đầu bị hói và hai mắt sắc bén, nhanh nhạy và mặc quần áo phương Tây. Sau khi chào hỏi thân thiện, ông ấy hỏi tôi liệu tôi đã tìm hiểu về khả năng gặp gỡ trực tiếp cùng Krishnamurti. Thật ra, sáng hôm đó tôi đã hỏi một trong những giáo viên của trường liệu Krishnamurti sẽ cho những phỏng vấn riêng tư. Nó đã chỉ là một dò hỏi ngẫu nhiên, mà không có bất kỳ sự cấp bách hay dự tính thực sự về phần của tôi. Vì vậy tôi hơi giật mình khi khám phá rằng nó đã được chuyển sang những người đứng đầu thật mau lẹ. Người hiệu trưởng tiếp tục nói với tôi rằng tôi có thể gặp Krishnamurti trong hai mươi phút tại chỗ ở của ông. Đầy phấn khởi tôi đi nhanh về phòng để tắm rửa cho một sự kiện bất ngờ đó. Nhớ lại hai bài thơ tôi vừa sáng tác, tôi nghĩ rằng đây có lẽ là một dịp thích hợp để trao chúng cho Krishnamurti.

 Tôi tìm được đường đến nhà ông. Nó là một ngôi nhà hai tầng được vây quanh bởi những cái cây rất lạ, một trong chúng là một cái cây như lửa có những bông hoa màu đỏ rực. Dường như không ai đang chờ đợi tôi, và tôi cảm thấy nhút nhát lẫn hơi sờ sợ, hầu như giống như một người đang lén lút xâm phạm một nơi tôn nghiêm yên tĩnh. Tôi gõ vào một trong những cái cửa dưới lầu, và một phụ nữ Ấn độ có khuôn mặt thân thiện ra mở nó. Tôi nói với cô ấy rằng tôi có một cuộc hẹn với Krishnamurti. Ngần ngừ trong chốc lát, cô ấy gợi ý rằng ông có lẽ đang nghỉ ngơi. Tôi hòa nhã quả quyết rằng gặp gỡ đã được sắp xếp bởi hiệu trưởng. Bằng một cử chỉ thông thường ở Ấn độ, cô ấy bảo tôi đợi, trong khi cô ấy lên lầu để tìm hiểu về vấn đề.

 Khi tôi đứng tại chân cầu thang, trong sự yên lặng oi ả của buổi chiều nóng nực, tôi cảm thấy bị lơ lửng trong một khoảng không, nơi đoạn đường của thời gian dường như không còn nữa. Một yên lặng lạ thường đang bao bọc tôi khi những qui trình suy nghĩ của tôi chậm dần. Tôi tự hỏi mình tại sao tôi ở đây. Tôi chờ đợi điều gì từ gặp gỡ Krishnamurti? Tôi đã không có bất kỳ câu hỏi đặc biệt nào mà tôi muốn hỏi ông. Ông đã giải thích đầy đủ những quan tâm của tôi trong những nói chuyện của ông. Tại cùng thời điểm, tôi nhận ra rằng tôi ấp ủ một tò mò dày vò về ông sống như thế nào trong sống hàng ngày của ông. Có lẽ tất cả mọi điều mà tôi ao ước chỉ là được ở trong sự hiện diện của ông.

 Một âm thanh xê dịch đến từ bên trên. Nhìn lên, tôi thấy Krishnamurti trong bàn chân trần đang xuống cầu thang bằng những bước chân đều đặn và cẩn thận. Sau khi trườn hai bàn chân vào đôi sandal, ông quay mặt đối diện tôi, và chúng tôi chào hỏi nhau bằng cách chắp hai bàn tay lại. Ông có vẻ khép kín, hầu như không thuộc thế giới này, và khuôn mặt đẹp như điêu khắc mang một diễn tả của sự yên tĩnh an bình, bàng quan. Ông không nói tiếng nào nhưng chỉ đứng đó chờ đợi tôi chuyển động, hay nói điều gì đó, hay có lẽ không.

 Những tế bào não đang rối lên nhặt nhạnh để hình thành một câu nói ý nghĩa. Hít vào một hơi cho thông cuống họng, tôi ngập ngừng nói, “Thưa ông, tôi – tôi muốn cám ơn ông vì, vì – mọi thứ. Tôi có ý, tôi đã đọc những quyển sách của ông, và điều gì ông viết thật tuyệt vời. Tôi có ý, nó đúng thực. Nhưng lúc này, thấy ông và nghe ông sống, thực sự trải nghiệm nó, là – ồ, nó vượt khỏi những từ ngữ – và…”

 Ông phác một cử chỉ dịu dàng, và giọng nói của ông bình thản giống như một cái hồ lúc bình minh. “Được thôi, thưa bạn,” ông nói.

 Tôi rút ra những mảnh giấy từ túi sau của tôi và đưa chúng cho ông. “Xin lỗi,” tôi lắp bắp, “đây là hai bài thơ mà tôi vừa sáng tác. Tôi muốn nhờ ông xem thử.” Một nụ cười mau lẹ lan trên khuôn mặt của ông khi ông nhận tờ giấy mà không nhìn chúng. Thay vì vậy, ông đơn giản nhìn chăm chú vào tôi trong một cách không tập trung, lạ thường – như thể đang nhìn không gian quanh tôi hơn là hình dáng bên trong không gian đó.

 Tôi bỗng nhiên bặt tăm, và khi sau một vài khoảnh khắc nó trở nên rõ ràng rằng tôi đã không có bất kỳ câu hỏi nào thêm nữa, ông nói đơn giản, “Được rồi, thưa bạn, tôi sẽ gặp lại bạn ngày mai.” Cùng nó, ông kẹp những tờ giấy bên một cánh tay, chắp hai tay chào tạm biệt và leo lên cầu thang, sau khi cẩn thận xếp đôi sandal sát nhau trên bệ cầu thang. 

 Khi tôi trầm ngâm đi khỏi, bỗng nhiên tôi nhận ra rằng thật ra có lẽ tôi đã ngắt ngang giấc ngủ trưa của ông. Thậm chí như thế, tôi không thể làm gì khác ngoại trừ một hân hoan phấn chấn bởi sự gặp gỡ ngắn ngủi của chúng tôi.

 

*

 

Cho đến lúc này, một khẳng định đã hình thành trong cái trí của tôi: tôi quả quyết đi nghe Krishnamurti nói chuyện tại bất kỳ nơi nào tôi có khả năng. Nó là một đặc ân vô cùng, một trường hợp may mắn cực kỳ, khi bất ngờ gặp được người nào đó mà nói sự thật, không có bất kỳ loại động cơ trong tương lai và không có khơi dậy giáo điều hay truyền thống.

 Tôi đã nhận thấy rằng có nhiều người, cả Ấn độ lẫn phương Tây, đều đặn có mặt tại tất cả những nói chuyện của ông. Rõ ràng, một vài người là những người thân hữu và những người đồng hợp tác; những người khác dường như là những “những nhân viên tự do” – những người theo phụ giúp, những người nhỏ tuổi, những học trò, mà theo ông khắp mọi nơi. Một vài người đã kể với tôi rằng họ đã lắng nghe ông nhiều năm trong những quốc gia khác nhau khắp thế giới, bởi vì ông tuân theo một lộ trình đều đặn, nói chuyện ở Ấn độ, California, New York, Thụy sĩ và nước Anh. Mỗi năm ông thực hiện những nói chuyện trước công chúng trong cùng địa điểm tại phỏng chừng cùng thời điểm, thỉnh thoảng nói chuyện tại những những địa điểm mới, như ông vừa thực hiện vào tháng mười một, khi ông thực hiện một loạt nói chuyện và đối thoại ở nước Úc.

 Dường như đối với tôi việc theo sau ông khắp mọi nơi khiến cho người ta phải đối diện với một mâu thuẫn, bởi vì ông kịch liệt phủ nhận là một người lãnh đạo tinh thần và quả quyết rằng ông không có bất kỳ người theo sau và đệ tử nào. Thật ra, ông hoàn toàn phủ nhận giá trị của truyền thống Ấn giáo cổ xưa mà nhấn mạnh sự liên hệ tinh túy giữa người thầy và đệ tử. Khẳng định rằng không có sự khai tâm vào, hay một truyền tải của, sự thật, ông quả quyết rằng người ta phải khám phá sự thật bởi và cho chính người ta, và là một ngọn đèn đối với chính người ta. Trong một trong những nói chuyện của ông tại Rishi Valley, ví dụ, ông chế giễu một cách vui vẻ và hòa nhã vào thái độ của người nào đó mà muốn học hành sự thật từ một người khác.

 “Cho phép tôi kể cho bạn một câu chuyện?” ông bắt đầu, một nhấp nháy tinh nghịch trong hai mắt của ông, khi ông quan sát bao quát số khán giả trẻ tuổi. “Một người thanh niên trẻ tuổi rời nhà đi tìm kiếm sự thật. Cậu đến một đạo sư nổi tiếng đang sống trên bờ của một con sông. ‘Làm ơn, thưa ngài,’ cậu thưa người thầy già, ‘cho phép con theo hầu ngài. Con muốn học hành sự thật từ ngài.’ Và vị đạo sư đồng ý. Và thế là cậu giặt giũ quần áo cho ông ấy, nấu nướng cho ông ấy, và thi hành mọi loại nhiệm vụ cho người thầy già. Sau năm năm, cậu nói với người thầy, ‘con đã trải qua năm năm với ngài nhưng con vẫn chưa biết sự thật là gì và đã không học hành được điều gì cả. Vì vậy, nếu ngài không phiền, con sẽ từ giã ngài. Có lẽ con có thể tìm được một đạo sư khác, mà từ người ấy con có thể học hành nhiều thêm nữa về sự thật.’ Người thầy già nua nói, ‘Ta không phiền đâu, hãy đi đi.’ Thế là cậu thanh niên trẻ đi khỏi và theo hầu nhiều vị đạo sư khác, từ những người đó cậu học hành được nhiều trò ranh mãnh. Năm năm khác đã trôi qua, cậu nhớ lại người thầy già và đến thăm ông. ‘Vậy là con đã học hành được điều gì?’ người đạo sư già hỏi cậu. Và cậu học trò cũ kể với ông rằng cậu có thể đi trên than hồng, bay lên và vân vân. ‘Đó là tất cả hay sao?’ ông ấy hỏi tiếp. Cậu thanh niên trẻ chỉ tay vào con sông trước mặt và nói đầy kiêu hãnh, ‘Và con có thể đi trên dòng nước đó để qua bờ bên kia.’ ‘Và con phải mất mười năm để học hành việc đó,’ người thầy già nua thốt lên, ‘khi đằng kia, cách đây năm mươi yard, con có thể đi phà qua mà chỉ tốn có hai xu!’”

 Ngay khi tôi đã tìm hiểu những chi tiết của thời khóa biểu nói chuyện khắp thế giới của Krishnamurti, tôi sắp xếp những kế hoạch riêng của tôi tùy theo nó: người theo sau hay không, tôi ao ước nghe ông nói càng thường xuyên bao nhiêu càng tốt nếu tôi có thể sắp xếp thời gian một cách hợp lý. Sự hiện diện trước công chúng lần kế tiếp sẽ ở Bangalore, một thành phố lớn cách Rishi Valley một trăm dặm ở phía tây, trong kỳ nghỉ cuối tuần tiếp theo. Không khó khăn gì cho tôi khi tìm đường đến đó, bởi vì nhiều người từ Rishi Valley đang đi hoặc bằng xe buýt hoặc bằng taxi đến thành phố thủ đô của Karnataka State.

 Những nói chuyện được tổ chức trong một cái lều lớn ở Lal Bagh Gardens, một công viên mát mẻ, với nhiều cây cối và những bông hoa đang nở rộ. Nhiều ngàn người tham gia nói chuyện, và Krishnamurti rất nghiêm túc, đang nói về sự vui thú và sự sợ hãi, những ý tường của nghiệp lực và đầu thai, và sự vô lý của hy vọng một ‘cuộc đời kế tiếp’ tốt đẹp hơn. “Ngày hôm trước tôi thấy một trang hoạt hình trong một tờ tuần báo,” ông kể lại cho khán giả. “Nó ở New York City, tại một ngã tư rất náo nhiệt trong Times Square. Có hai con chó đang ngồi bên lề đường, đang nhìn ngắm mọi người hấp tấp qua lại, luôn luôn bận rộn chen lấn. Và một con chó nói với con kia, ‘Mày biết không, đầu thai làm cho tao kinh hãi.’”

 Tôi là một trong ít người cười lớn tiếng bởi câu chuyện vui trong khi đa số khán giả giữ yên lặng, hoặc bởi vì họ đã không hiểu nó, hoặc bởi vì sự đầu thai là một chủ đề quá quan trọng khiến họ không thể cười đùa được. Tôi tán thưởng khả năng của Krishnamurti khi giới thiệu sự dí dỏm nhe nhẹ vào những lãnh vực nghiêm túc vô cùng và chỉ ra rằng cười đùa là bộ phận của sự nghiêm túc. Sự quan sát thông cảm, đùa giỡn về những lố bịch trong những sống của chúng ta không chỉ có tầm quan trọng nhất – nó còn là thông minh.

 

*

 

 Những nói chuyện ở Bombay, một thành phố đông đúc, náo nhiệt trên Arabian Sea, thu hút vô số người. Ngồi lẫn trong ba đến bốn ngàn người chen chúc trong một không gian tương đối nhỏ nơi trung tâm thành phố để lắng nghe ông nói cùng sự ồn ào không ngớt của sự giao thông.

 Tôi thấy rằng rất hứng thú khi nghe những nói chuyện của Krishnamurti trong những vị trí khác nhau. Mặc dù lời giảng của ông có vẻ giống hệt nhau, đơn giản và tao nhã vô cùng, những khía cạnh nào đó của nó được rút ra từ sự bố cục thuộc vật chất và số lượng thay đổi của những người tham gia. Không chỉ điều đó, nhưng người ta còn cảm thấy rằng mỗi nói chuyện là một sự kiện đang sống chứ không là một lặp lại máy móc. Vì vậy, luôn luôn nó chứa đựng một yếu tố của sự mới mẻ kinh ngạc, của thay đổi, của đúng lúc và tuy nhiên hướng đến cái gì đó vượt khỏi nó.

 

 

 

Chương 3

HƯƠNG VỊ TRỌN VẸN

 

 

 

“Sự thật không ở nơi chót vót;

sự thật ngay tại nơi bạn hiện diện,

trong việc gì bạn đang làm,

đang suy nghĩ, đang cảm thấy,

khi bạn hôn hít và ôm ấp,

khi bạn trục lợi –

bạn phải thấy sự thật của tất cả điều đó,

không phải một sự thật tại khúc cuối

của vô số qui trình thuộc sống.”

 

 

 

-J. Krishnamurti

Tuyển tập của J. Krishnamurti, Tập 5

 

M

ùa hè năm 1971 lần đầu tiên tôi viếng thăm vùng đất Saanen-Gstaad của Thụy sĩ. Nó là một thung lũng rất đẹp của những con sông, những cánh rừng và những cánh đồng cỏ xanh, được vây quanh bởi những đỉnh núi phủ tuyết. Suốt mười năm qua, Krishnamurti đã thực hiện những nói chuyện và bàn luận dài một tháng ở đây trong hai tháng bảy và tháng tám. Một cái lều khổng lồ với sức chứa hơn một ngàn người đã được dựng lên trên bờ con sông Saanen chảy xiết. Cách mỗi buổi sáng vào lúc 11 giờ, Krishnamurti nói chuyện khoảng chín mươi phút cùng những người trẻ và người già, người giàu và người nghèo, mà đã tập hợp ở đây từ khắp thế giới để lắng nghe lời giảng lạ thường của ông.

 Vẻ đẹp siêu phàm của thiên nhiên, những thị trấn và những con đường sạch sẽ và ngăn nắp, thành phần quốc tế của khán giả, và, quan trọng hơn tất cả, sự thâm nhập cách mạng vào cái trí của con người, được kết hợp lại để sáng tạo một sự kiện độc nhất trong sự rõ ràng và tức khắc của nó. Tôi cảm thấy bị mê mẩn, như thể nhờ vào ma thuật nào đó tôi đã được dẫn dắt vào một kích thước thiêng liêng. Vai chính tại tâm điểm của sự tập hợp phấn khởi này là, dĩ nhiên, Krishnamurti, người mà bằng sự khiêm tốn dịu dàng đã bước lên và rời khỏi bục giảng nơi ông đã nói chuyện. Ông mặc bộ quần áo kiểu phương Tây hoàn hảo. Những cử chỉ của ông, mặc dù rất dè sẻn, đã bộc lộ uy quyền vô cùng, nhấn mạnh phương cách hiệp thông mà cùng nó ông nói chuyện cùng những người lắng nghe.

 Quá dễ dàng khi sáng chế một huyền bí về ông, có lẽ bởi vì chúng ta có nhu cầu vô tận về những huyền bí, những phép lạ và ma thuật trong những sống hàng ngày của chúng ta. Chắc chắn tôi không tránh khỏi sự mê hoặc phải tạo ra một hình ảnh trang nghiêm của ông, đặc biệt bởi vì những dữ kiện về sống cá nhân của ông rất rời rạc. Điều gì tôi thâu lượm, từng chút một, về sống của ông chỉ củng cố sự tin tưởng của tôi rằng chúng tôi đang đối diện một con người giác ngộ. Tôi càng tìm hiểu về điều đó nhiều bao nhiêu, dường như sống của ông càng giống như một chuyện cổ tích thuộc loại kỳ lạ nhất, một thần thoại, một huyền thoại.

 Năm 1909 lúc mười bốn tuổi, ông đã được phát hiện như Phương tiện của Chúa bởi một trong những người lãnh đạo của Theosophical Society Tổ chức Huyền bí, một tổ chức tôn giáo khắp thế giới. Sau khi được thâu nhận bởi họ, ông được nuôi nấng để là Messiah Đấng Cứu thế mới ở Châu âu và nước Mỹ. Nhưng năm 1929, tại một họp mặt lớn ở Ommen nước Hà lan, ông lặng lẽ giải tán tổ chức ‘Trật tự của Vì sao’ ‘Order of the Star’, mà đã được đặc biệt thành lập cho ông, và nói với hàng ngàn người theo sau của ông rằng ông không muốn là người lãnh đạo của họ. Kể từ đó, ông đi khắp thế giới, nói chuyện với bất kỳ người nào mà muốn đến lắng nghe về sự sợ hãi và sự đau khổ, và nhu cầu để kết thúc chúng. Điều này, ông khẳng định, chỉ có thể được thực hiện bằng cách quan sát và tìm hiểu những phương cách của cái trí.

 Tôi đã đọc rằng truyền thống Mahayana của Phật giáo có một ý tưởng đã diễn tả một người giống như Krishnamurti – một Bồ tát, một Đấng Giác ngộ, người nào đó do bởi từ bi khi nhìn thấy sự đau khổ của nhân loại, từ bỏ tất cả sự quan tâm về chính mình và chỉ rõ sự thật. Bằng cách thêm vào ông ý tưởng này, tại cơ bản tôi đang khiến cho ông trở thành huyền bí. Sự hiếu kỳ của tôi bị dồn dập thêm bởi những câu hỏi: những con người giác ngộ sống như thế nào? Liệu họ tham gia những hoạt động đều đều nhàm chán của sống hàng ngày? Và, cụ thể hơn, ông, Krishnamurti làm gì, khi ông không đang thực hiện một nói chuyện hay một đối thoại?

 Trong kho dự trữ quí báu của sự tưởng tượng của tôi, tôi tạo ra một tổng thể sắp xếp theo thứ tự một chuỗi sự kiện có vẻ thích hợp: ông sẽ thâm nhập samadhi, một trạng thái không thời gian của an lành và hạnh phúc, cho đến khi những cần thiết của trần gian yêu cầu ông quay lại để hành động.

 

*

 

Tại một trong nhiều đàm luận tôi có được tại Saanen về Krishnamurti và sống cá nhân của ông, người nào đó đã phát biểu rằng Krishnamurti đã tự đánh bóng đôi giày riêng của ông, rằng ông thích đọc truyện trinh thám và xem những phim Western trên truyền hình thậm chí nghe có vẻ cảm xúc nhiều hơn. Tôi bị choáng váng. Liệu những khẳng định này có thể đúng thực? Nếu như thế, làm thế nào chúng có thể hòa hợp với hình ảnh của tôi về việc gì một Bồ tát đã làm trong thời gian rảnh rỗi của ông ấy?

 Qua sự trùng hợp, Krishnamurti tiếp cận chủ đề này trong suốt một trong những bàn luận dưới đây, “Tôi không đọc bất kỳ quyển sách nào cả, tôi cũng không đọc bất kỳ những quyển sách tạm gọi là thiêng liêng. Tôi thực sự có ý về nó; tôi chỉ đọc những tờ tuần báo và những truyện trinh thám,” ông tuyên bố giữa những tràng cười của khán giả. Tôi nhận ra rằng thông tin của tôi về sự khai sáng và những người giác ngộ được bắt nguồn duy nhất từ những quyển sách thiêng liêng và sự đồn đại truyền thống. Vì vậy, những giả thuyết của tôi có lẽ hoàn toàn sai lầm, và điều duy nhất mà tôi có thể làm là xóa sạch chúng và tìm ra cho chính tôi. Điều này làm gia tăng sự hiếu kỳ của tôi về con người Krishnamurti và sống hàng ngày của ông.

 

*

Sự trải nghiệm của đang hiện diện cùng một ngàn người và đang lắng nghe sự thâm nhập cuốn hút này vào những chiều cao và những chiều sâu của ý thức con người, sáng tạo một ý thức của cùng nhau giữa những người bạn lắng nghe, chính tôi và người nói chuyện.

 Khi, sau một nói chuyện, ông đi ra thật nhanh bằng những sải chân dài và quả quyết dọc theo con đường chật hẹp tôi cảm thấy một thôi thúc phải theo sau ông. Thường xuyên một nhóm người ngưỡng mộ háo hức sẽ vội vã đi đến và vây quanh ông khi ông rời cái lều; ông sẽ mau lẹ tách ra, thân thiện nhưng dứt khoát. Tại những thời điểm khác, người nào đó có lẽ đi cùng ông để trao đổi vài từ ngữ, bày tỏ sự biết ơn của họ hay một cách đơn giản cố gắng kéo dài sự vui thú của trong sự hiện diện của ông. Ông sẽ chấp nhận nó một cách hiền lành, mặc dù người đó có lẽ bị dồn ép mạnh để theo kịp bước chân của ông. Một vài lần tôi thử bắt kịp ông chỉ để thấy ông được dắt đi thật nhanh đến cùng chiếc xe Mercedes mà ông đã đến, được lái bởi một phụ nữ hòa nhã. Trong khi ông đang vội vã sải bước, chiếc xe sẽ lái sát ông, ông sẽ vào xe, và họ sẽ đi khỏi về hướng Gstaad.

 

*

 

Thực hiện những dò hỏi kín đáo, tôi tìm ra rằng Krishnamurti sống trong một chalet trong vùng cao hơn của Gstaad, hơi khá xa Palace Hotel nổi tiếng. Một buổi chiều có nắng tôi đi bộ thẳng lên con đường nhỏ có cây đến khu thanh lịch này, quang cảnh hoành tráng của những dãy núi tuyết xa khỏi những quả đồi xanh bập bềnh được thiên nhiên ban tặng. Tại một khúc quẹo ngặt của con đường, tôi phát giác cái tên ‘Tannegg’, được sơn trong những chữ chiếu sáng rực rỡ trên mặt trước của một tòa nhà bằng gỗ lớn.

 Tim tôi đập nhanh hơn bởi sự phấn khích và hân hoan của sự khám phá. Đây là nơi Krishnamurti sống, và mọi buổi chiều, tôi được bảo, ông hay dạo bộ. Nếu tôi chờ loanh quanh, tôi có lẽ nhìn thấy ông đang rời khỏi hay đang đi vào chalet. Nhưng tôi cảm thấy khá nhút nhát về sự tò mò của tôi và không muốn bị nhìn thấy khi đang thực hiện sự theo dõi bí mật này. Vì vậy, tôi rút lui đến ngôi nhà bên kia đường, mà có vẻ không có người nào trú ngụ tại thời gian đó và có tầm nhìn tốt về lối xe ra và những cửa ra vào của Chalet Tannegg. Tôi núp phía sau một trong những bụi cây lớn đầy hoa trang trí một bồn cỏ hình bầu dục phía trước nhà và chỉ đơn giản chờ đợi. Những tia nắng mặt trời buổi chiều thật dễ chịu trên làn da của tôi khi tôi nằm trên bãi cỏ thơm và ngước nhìn màu xanh của bầu trời, nhìn ngắm những chuyển động của một vài đám mây. Rất thường xuyên tôi sẽ thăm dò con đường để thấy liệu ông có xuất hiện trong tầm nhìn.

 Sau khoảng ba mươi phút, ba người xuất hiện đang đi xuống con đường hướng về chalet. Tôi lom khom núp phía sau bụi hoa màu vàng, nhìn qua bụi hoa đó. Một trong ba người chính xác là Krishnamurti. Hai phụ nữ theo sau ông đang trao đổi với nhau đầy sinh động. Một trong số họ, vóc dáng mảnh khảnh, tôi nhận ra là người lái chiếc xe Mercedes, trong khi người còn lại có vẻ khá khỏe mạnh và cao. Tôi vẫn còn núp kín và tiếp tục theo dõi Krishnamurti gần sát hơn. Mặc dù hoạt động do thám của tôi tạo ra một day dứt tội lỗi của lương tâm, tuy nhiên tôi cảm thấy một hồi hộp lạ lùng khi đang theo dõi ông.

 Bỗng nhiên, ông phản ứng lại, như thể ông nhận biết người nào đó đang theo dõi ông. Ông hơi giật mình, nhìn quanh quất thật mau và bắt đầu đi nhanh hơn. Giữ cơ thể gần với bức tường bằng đá của lối xe ra vào, như thể đang tìm kiếm sự bảo vệ của nó, ông vội vàng hướng về cửa ra vào của chalet và mau lẹ bước vào. Sau khi hai người phụ nữ đã đi vào chalet, tôi ló ra khỏi bụi rậm và đi thẳng lên đồi hướng về cánh rừng nơi họ vừa đến.

 

*

 

Một vài ngày sau, vào giữa buổi sáng có nắng. Tôi đi mua một bản sao của International Herald Tribune tại kiosk nhà ga ở Gstaad. Trước khi băng qua con đường đông đúc, tôi nhìn phía bên phải, tiếp theo phía bên trái – và ngay tức thì ông ở đó, đang đứng kế cận tôi.

 Đầy vui mừng, tôi la toáng lên, “Krishnaji, thưa ông! Ông khỏe không?”

 Tôi không chắc liệu ông có nhớ bất kỳ những gặp gỡ thình lình của chúng tôi ở Rishi Valley và Madras cách đây nhiều tháng, nó cũng không quan trọng tại khoảnh khắc này. Ông mỉm cười khi chúng tôi bắt tay thân thiện và giải thích, “Tôi đang thực hiện vài nói chuyện ở Saanen.”

 Sự đơn giản và khiêm tốn khi ông thốt ra câu nói đó gây xúc cảm vô cùng.

 “Vâng, thưa ông,” tôi đáp lại đầy nhiệt thành, “Tôi đã tham gia những nói chuyện. Chúng thực sự hay ho lắm. Cám ơn ông, thưa ông.”

 Ông nhìn chăm chú khuôn mặt của tôi, “Bạn từ California đến, đúng chứ?” ông hỏi.

 “Ồ, vâng,” tôi trả lời, đang bước đi cạnh ông khi ông băng qua vỉa hè đối diện. “Tôi đã sống ở đó được một vài năm.”

 Khi chúng tôi đang sải bước dọc theo vỉa hè, cùng nhiều người đi bộ và xe cộ chung quanh, bỗng nhiên tôi không hiểu ông đang làm gì một mình ở đây. Ông trả lời câu hỏi của tôi như thể tôi đã lớn tiếng thốt ra, “Tôi đang chờ vài người bạn.”

 Tại khoảnh khắc đó, một chiếc xe hơi phóng vọt qua bằng một tiếng gầm và một đám khói đen xả ra. Krishnamurti lắc đầu chê bai. “Những ngày này họ lái xe quá nhanh.”

 Tôi bày tỏ sự đồng tình, “Vâng, nó rất nguy hiểm, thậm chí ngay trung tâm thành phố. Và sự ô nhiễm khủng khiếp…”

 Bỗng nhiên ông ngừng lại, chỉ vào một chiếc xe Mercedes vừa ngừng bên kia đường, trước cửa sân hiên của Hotel Berner Hof. “Họ kia rồi,” ông la lên. “Họ đến đón tôi. Chào bạn, thưa bạn.”

 Ông mau lẹ bắt tay tôi, và tôi chỉ có thể nói, “Chào ông, thưa ông. Cám ơn ông rất nhiều!”

 Và ông đã băng qua đường hướng về chiếc xe hơi. Tôi bâng khuâng nhìn dáng đi nhanh nhẹn của ông, với thân mình thẳng đứng và hai cánh tay dài lắc lư trong một nhịp điệu thư giãn.

 Khi tôi nhìn chiếc xe hơi lái đi khỏi, tôi nhận biết được một ý thức không tìm kiếm của hân hoan đang tuôn ra bên trong tôi. Tôi phát giác rằng thường xuyên tôi đã trải nghiệm loại cảm xúc này khi đến tiếp xúc cùng Krishnamurti, và chính sự gặp gỡ ngẫu nhiên của chúng tôi cách đây vài khoảnh khắc dường như đã gia tăng sự mãnh liệt của nó.

 

*

 

Mùa hè đầu tiên đó ở Saanen là sự kỳ diệu hoàn toàn cho tôi, một thời gian của khám phá những sự việc mới mẻ, của thâm nhập sự phức tạp về những qui trình thuộc cảm xúc và tinh thần của tôi, có những người bạn mới, và hiệp thông cùng thiên nhiên. Nhưng hít thở hương thơm kỳ lạ mà tỏa ra từ những buổi sáng cùng Krishnamurti của chúng tôi trong cái lều lớn bên cạnh dòng sông là mấu chốt tối quan trọng. Nó là một họp mặt hiệp thông, vĩ đại của những con người sẵn lòng thâm nhập những phương cách của xã hội và chính họ. Tại cuối họp mặt dài một tháng này, người ta không cảm thấy buồn bã do bởi sắp kết thúc nó, nhưng trái lại cảm thấy được phong phú phía bên trong vượt khỏi mọi giới hạn và mở toang khoảnh khắc đang sống.

 *

 

Khi ở Saanen, tôi hiểu ra rằng cách đây hai năm, năm 1969, một trường nội trú quốc tế đã được bắt đầu ở Anh bởi Krishnamurti. Được gọi là Brockwood Park, nó nằm gần thủ đô cũ Winchester, trong thị xã vùng trũng của Hampshire, cách London khoảng sáu mươi dặm. Sắp sửa có bốn nói chuyện và hai bàn luận ở đó vào đầu tháng chín. Tôi chẳng mất bao nhiêu thời gian để quyết định viếng thăm miền nam nước Anh vào dịp đó.

 Từ Thụy sĩ đến Đức không xa lắm, nơi hai tuần lễ tôi viếng thăm mẹ tôi, đang sống trong một thành phố được gọi là Krefeld ở phía bắc Rhineland. Từ đó tôi đi đến Anh. Ngoại trừ sự kiện rằng giao thông chạy bên tay trái của con đường, tôi không gặp khó khăn lắm để tới Petersfield, chỉ cách Brockwood Park vài dặm.

 Con đường tách khỏi xa lộ chính được viền trên hai lề bởi những cây sồi màu đồng uốn cong. Nó dẫn đến một cổng vào, từ nơi đó một lối xe chật vòng vèo giữa những cánh đồng cỏ đến một biệt thự trắng của thế kỷ mười tám. Kế cận biệt thự là một tháp nước bằng gạch đỏ tiếp giáp bởi một cái vườn lớn và một vườn hoa hồng. Xa xa khỏi khu nhà, một vườn ươm cây, được gọi là Grove, có phong phú đủ mọi cây đẹp từ khắp thế giới, kể cả nhiều cây sequoias to. Trên vườn cỏ phía sau, một cây sedar hai trăm tuổi đồ sộ của Lebanon chiếm lĩnh bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận. Rõ ràng Brockwood Park là thiên đàng của những người yêu thương cây cối.

 Kế cận một vườn táo nhỏ, một cái lều lớn đã được dựng lên cho Họp mặt, mà thu hút trên một ngàn người khách, một vài người dựng trại trên những cánh đồng gần bên. Suốt hai tuần lễ một bầu không khí lễ hội làm sinh động khu đất.

 Những nói chuyện và những bàn luận ở Brockwood Park có một cảm giác bằng hữu, hầu như thân mật quanh chúng, cùng những tiếng cười và sự thanh thản và một ý thức tự nhiên của sự đúng đắn. Vào những ngày có những gặp gỡ, bữa ăn trưa sẽ được phục vụ sau nói chuyện hay đối thoại trong một lều thứ hai được nối liền với lều nói chuyện. Vào những dịp đó, thật ngạc nhiên vô cùng khi thấy Krishnamurti hòa cùng những người khách. Lắng nghe “ông già đó trên bục”, như ông thỉnh thoảng nói về ông, là một trải nghiệm sâu thẳm, nhưng quan sát ông trong hành động trao đổi hàng ngày cùng những người khác thêm vào một yếu tố đặc biệt. Trang phục bằng sự thanh lịch bình thường, cân bằng một cái đĩa giấy đựng thức ăn trong một tay, ông có thể được nhìn thấy đang trao đổi thật nhã nhặn với bất kỳ người nào tiếp cận ông. Nó cảm thấy như thể chúng tôi đã được mời vào tổ ấm của ông để chia sẻ trong sống của ông.

 Bởi vì tôi đang giúp đỡ như một người tự nguyện trong lều và ngoài vườn, thỉnh thoảng tôi được mời ăn trưa tại phòng ăn của khu nhà chính. Hơn một trăm giáo viên, những học sinh đem bữa trưa của họ đến đó. Tôi xúc động khi thấy Krishnamurti lẫn trong họ. Vì lý do nào đó, tôi phát giác quá cuốn hút khi quan sát ông trong những tình huống bình thường, hàng ngày, có lẽ bởi vì tôi liên tưởng ông quá nhiều với điều gì chúng ta nghĩ rằng những theo đuổi cách biệt. Thái độ và cử chỉ của ông, và cách ông giữ vững chính ông, là mẫu mực dẫn chứng. Tại những khoảnh khắc khi tôi kín đáo quan sát ông ăn uống, hay trao đổi và nói chuyện với một người gần bên, hay lặng lẽ nhìn qua những người đang ngồi tại những bàn ăn dài bằng gỗ trước mặt ông, tôi cảm thấy một ý thức của lạ lùng và biết ơn vô cùng. Tôi nghĩ tôi đã hiệp thông cùng sự tốt lành, mà đang thể hiện qua con người này. Bỗng nhiên nó có thể thấy được chung quanh tôi.

 

*

 

Sau khi những nói chuyện Brockwood Park chấm dứt, tôi tiếp tục ở lại một tháng khác, làm việc như một người tự nguyện trong vườn rau. Nó là một trải nghiệm mới mẻ cho tôi khi sống và làm việc trong một môi trường chung tại một ngôi trường tổ chức như một nhà riêng. Điều gì khiến cho nó có ý nghĩa đặc biệt là những gặp gỡ đều đặn mà Krishnamurti có với những giáo viên và học sinh, và những người tự nguyện cũng được mời tham gia. Tôi cảm thấy rằng sống của tôi đang bắt đầu mới mẻ lại mỗi lúc một mãnh liệt nhiều hơn mỗi buổi sáng.

 Thậm chí như thế, thời gian cũng đến để chào tạm biệt, và tôi quay lại California mùa thu năm 1971. Tôi có nhiều điều để suy ngẫm, và một sống mới mẻ trong sự cô đơn tương đối đã cuốn hút tôi. Suốt mùa đông dài tôi đã sống một hiện diện đơn giản, giống như ẩn dật trong một cabin nhỏ ở cánh rừng gần Mendocino, một trăm dặm phía bắc của San Francisco. Thỉnh thoảng tôi sẽ tham gia lại nền văn minh và viếng thăm bạn bè ở San Francisco và Berkeley. Trong suốt một trong những lần ra ngoài này vào mùa xuân năm 1972, tôi đi đến Los Angeles và biết rằng Krishnamurti đang ở California vào thời gian đó. Ông sẽ thực hiện một loạt nói chuyện trước công chúng đầu tiên tại Santa Monica Civic Auditorium và sau đó tại Libbey Bowl ở Ojai. Từ lúc này còn gần một tháng nữa, và tôi quyết định ở lại trong khu vực đó.

 Một trong những người bạn của tôi từ Ojai bảo với tôi rằng anh ấy đã tham gia một bàn luận nhóm nhỏ cùng Krishnamurti tại một căn nhà ở Malibu trước bàn luận một vài ngày. Khi nghe tin tức này, một ý thức mãnh liệt của sự hiếu kỳ nảy ra trong tôi, và đầy phấn khởi tôi dò hỏi nó diễn ra ở đâu. Mặc dù người bạn của tôi không thể nhớ nổi địa chỉ chính xác, anh ấy có thể miêu tả những vùng khác nhau, mà giúp đỡ tôi dò theo vị trí phỏng chừng của căn nhà dọc theo Pacific Coast Highway, nơi chắc chắn Krishnamurti đang cư ngụ. Do sự trùng hợp, tôi đang ở cùng bạn bè tại Topanga Canyon, chỉ cách đó vài dặm ở phía nam. Vì những lý do mà tôi đã không phân tích, tôi cảm thấy rằng sẽ cả tuyệt vời lẫn quan trọng phải có được sự tiếp xúc cá nhân trực tiếp cùng Krishnamurti nếu có thể được.

 *

 

Tách khỏi đường xa lộ bốn làn xe đông đúc, một lối xe dốc nghiêng thẳng lên hướng về một cái cổng giữa cái chòi nhỏ của người coi nhà và một bãi cỏ với cây cối và bụi nhỏ. Một tòa nhà hiện đại bằng gạch và gỗ nằm trên khu đất nhô cao ra biển, với một quang cảnh choáng mắt của biển Thái bình dương mênh mông. Khi tôi rung chuông, một phụ nữ trung niên đeo tạp dề mở cửa cái chòi nhỏ. Tôi nói, “Chào bà, làm ơn tha thứ cho tôi, nhưng liệu ông Krishnamurti sống ở đây?”

 “Làm ơn chờ một chút,” bà trả lời, và không cần bất kỳ câu hỏi nào thêm nữa bà hối hả hướng về tòa nhà chính.

 Tôi nhìn quanh, ấn tượng bởi vẻ đẹp của chung quanh. Sau một thời gian ngắn, người nào đó đi về phía tôi từ tòa nhà. Trong tích tắc tôi tưởng lầm ông là một cậu trai nhỏ tuổi, mặc quần jeans xanh, áo sơ mi bằng vải màu xám, tay dài, và mang dép sandals. Một cơn sóng ấm áp và vui mừng trỗi dậy trong tôi khi tôi nhận ra Krishnamurti.

 Dải tóc bạc phất phơ bởi gió khi ông đến gần. Ngần ngừ, tôi tiến vài bước hướng về ông. Và, ngay lập tức, chúng tôi ôm chầm nhau. Dường như không thể tin nổi. Tôi không có ý tưởng liệu ông nhớ lại bất kỳ những gặp gỡ từ trước nào của chúng tôi. Đơn giản nó chỉ là một cử chỉ của sự thương yêu lạ lùng, và tôi cảm thấy giống như một con gấu đang ôm một đứa bé mỏng manh. Hoàn toàn bị tràn ngập bởi sự biểu lộ thương yêu thanh thoát tự nguyện này, tôi chỉ có thể ấp úng, “Thật tốt lành khi gặp được ông, Krishnaji!” Kể từ lúc ở Ấn độ và Brockwood Park, tôi đã sử dụng hình thức xưng hô như thế này, mà dường như mọi người đều đang sử dụng. Hậu tố -ji thể hiện sự kính trọng và yêu mến. Có một nụ cười lạ thường trên khuôn mặt của ông khi ông đập nhe nhẹ trên vai tôi và hỏi, “Lúc này bạn đang từ đâu đến vậy, thưa bạn?”

 Mỗi lần tôi nhìn vào khuôn mặt của ông tôi bị ấn tượng mới mẻ lại bởi ý thức của thương yêu và sự thông minh tột đỉnh mà nó thể hiện. “Tôi đang sống ở Mendocino County, phía bắc California, được sáu tháng qua. Tôi đã đến đây để tham gia những nói chuyện của ông ở Santa Monica và Ojai. Lúc này, tôi đang ở cùng những người bạn ở Topanga Canyon, cách đây vài ba dặm về hướng nam,” tôi giải thích.

 Ông điềm đạm nhìn tôi chăm chú với hai mắt có hình quả hạnh trông giống như hai cái gương sẫm đen. “Bạn bao nhiêu tuổi, thưa bạn?” ông hỏi khi ông quay lại, dẫn đường vào nhà.

 “Tôi hai mươi tám tuổi, thưa ông,” tôi trả lời, theo ông đi qua bãi cỏ cắt tỉa gọn gàng.

 “A, bạn còn trẻ quá,” ông nhận xét.

 Trong khi ông đang mở cái cửa kính kéo trượt, tôi rút một miếng giấy được gấp lại ra khỏi túi áo của tôi và đưa nó cho ông. Ông chăm chú nhìn nó bằng một diễn tả bối rối khi ông nhận nó.

 “Nó là một bài thơ, thưa ông,” tôi giải thích, đang thêm vào bằng sự ngập ngừng ngượng ngập, “tôi đã viết nó dành tặng cho ông.”

 “A, cám ơn bạn,” ông nói, “Liệu bạn có phiền nếu tôi đọc nó sau?”

 “Dĩ nhiên không, thưa ông,” tôi trả lời, “nó là của ông.”

 “Được rồi, thưa bạn,” ông nói, dẫn đường vào nhà bếp.

 Nó là một nhà bếp hiện đại, được trang bị đầy đủ. Người phụ nữ mang miếng tạp dề đã tiếp đón tôi, đang bận rộn tại chậu rửa ly tách.

 “Bạn muốn dùng trà hay cà phê không?” Krishnamurti hỏi.

 Tôi do dự một chốc lát, bị ngạc nhiên bởi sự mời mọc của ông. Sau đó tôi trả lời, “Ồ, có, thưa ông. Chút cà phê sẽ tốt lắm.”

 Ông chỉ vào một trong những chiếc ghế đẩu cao bên cạnh quầy nhà bếp, muốn tôi ngồi ở đó. “Cô ấy sẽ pha cho bạn cà phê,” ông nói. Kèm theo đó, ông duỗi tay ra và nói, “Làm ơn tha thứ cho tôi, tôi phải bận vài việc.”

 Một phần sung sướng và một phần thất vọng rằng sự cùng nhau của chúng tôi đã kết thúc đột ngột như thế, tôi chỉ có thể ấp úng, “Cám ơn ông, Krishnaji!”

 Và rất mau lẹ và yên lặng ông đi khỏi. Trong một lóe sáng, tôi có một cảm giác của hụt hẫng và trống không.

 “Anh dùng kem và đường?” người phụ nữ hỏi từ phía bên kia cái quầy.

 “Vâng, làm ơn,” tôi trả lời và bắt đầu quấy cà phê cô ấy đặt trước mặt tôi.

*

 

Nói chuyện tại Santa Monica là lần đầu tiên trong những nói chuyện của Krishnamurti mà tôi tham gia tại nước Mỹ. Nó cũng là lần đầu tiên đã có một lệ phí vào nghe cho một nói chuyện: những nói chuyện trước hoàn toàn được chi phí bởi những số tiền tặng. Phí tổn thuê Santa Monica Auditorium chắc chắn rất cao và cần được thanh toán trực tiếp.

 Đó là một buổi sáng thứ bảy có nắng vào tháng ba, và sảnh có bao lơn rộng đầy ắp khán giả mà đa phần là người miền nam California. Tôi ngạc nhiên khi thấy Krishnamurti mặc một bộ com lê, ngồi trên một cái ghế giữa sân khấu, với một cái microphone trước mặt ông. Ông bắt đầu khá nghiêm nghị và, suốt nói chuyện, duy trì một trạng thái nghiêm túc tương phản với tâm trạng bình thường của khán giả.

 

*

 

Hai tuần sau, ngay trước Nói chuyện ở Ojai, tôi lại cảm thấy một thôi thúc mạnh mẽ phải gặp Krishnamurti tại ngôi nhà ở Malibu. Tôi đã suy nghĩ nhiều lắm để hình thành một câu hỏi độc đáo mà có lẽ ràng buộc ông trong loại đối thoại nào đó. Nhưng điều đó không dễ dàng lắm, bởi vì trong những nói chuyện của ông, ông đã đưa ra đầy đủ rồi, và đã trả lời hoàn toàn, tất cả những câu hỏi cơ bản mà tôi có thể hình dung. Ngay cả những nghi vấn mà tôi hoàn toàn không nhận biết được, nằm im lìm trong ngõ ngách sâu kín nào đó của cái trí tôi, có vẻ ông đã mang nó ra ngoài và hình thành trong ngôn ngữ rất đơn giản và dễ hiểu.

 Điều gì tôi thực sự muốn hỏi ông là chính con người của ông và sống hàng ngày của ông, nhưng tôi nghĩ có lẽ không phù hợp khi đưa ra những câu hỏi thuộc một bản chất rất cá nhân. Ngoài ra, bất kỳ trả lời bằng từ ngữ nào hầu như sẽ không thể đáp ứng, cũng, bởi vì bộ não hiếu kỳ của tôi muốn nhìn thấy, quan sát và cảm thấy ông một cách hiệp thông. Tôi muốn tận hưởng sự kiện thực sự. Và, tại khoảnh khắc, ông là sự kiện thực sự.

 

*

 

Đó là một buổi sáng có nắng khác khi tôi đến ngôi nhà dễ thương tách khỏi Pacific Coast Highway và rung chuông cửa. Chính Krishnamurti ra mở cửa và đón tôi vào phòng khách. Khi chúng tôi đi vào, tôi đang điên cuồng ôn lại câu hỏi mà tôi đã cấu trúc. Những cửa sổ cỡ bức tường cung cấp một quang cảnh kinh ngạc của biển xanh sậm, đang phản ảnh ánh mặt trời rực rỡ giống như một cái gương khổng lồ. Trong khi chúng tôi vẫn còn đang đứng giữa phòng, tôi quay về phía ông và hỏi, “Krishnaji, liệu tôi được phép đưa ra cho ông một câu hỏi?”

 Câu hỏi đơn giản đầu tiên của tôi dường như nạp năng lượng trong vùng chung quanh ông: một khoảnh khắc nó yên lặng, khoảnh khắc kế tiếp nó giống như cái gương và tập trung.

 Ông đối diện ngay tôi và nói, “Tự nhiên đi, thưa bạn.”

 Tôi đưa ra câu hỏi của tôi, trong đó tôi đã pha trộn một quan tâm cá nhân và một phỏng đoán khoa học giả tạo. “Lâu lắm rồi tôi đã bị quấy rầy bởi sự huyên thuyên không ngừng nghỉ của bộ não tôi,” tôi nói, “có những hoạt động suy nghĩ liên tục, những lo âu, những sợ hãi, những ham muốn, những kế hoạch và những giấc mộng đang xảy ra. Nhưng ông nói rằng sự suy nghĩ chỉ là một qui trình thuộc vật chất.”

 Đang lắng nghe của ông rất mãnh liệt, và ông đang quan sát tôi kỹ càng trong khi tôi nói, “Vâng, thưa bạn,” ông nói, “Câu hỏi của bạn là gì?”

 “Liệu không thể rằng nó là chuyển động không ngừng nghỉ của những điện tử trong những nguyên tử của bộ não mà gây ra sự huyên thuyên liên tục này, hay sao?” tôi hỏi.

 Trong những tích tắc nhất của những khoảnh khắc tôi nghĩ tôi đã phát giác một lóe sáng của sự ngạc nhiên trong hai mắt ông khi nghe câu hỏi của tôi. Ông ngừng một chốc lát, như thể vẫn còn đang lắng nghe; sau đó ông chỉ đơn giản nói, “Hãy tìm ra, thưa bạn.”

 Điều mà câu hỏi của tôi bất chợt thoát khỏi ông một cách rất dễ dàng làm mất tự tin nơi tôi một chút ít, và tôi hoàn toàn không thể tìm được một quan điểm để theo đuổi chuỗi lý luận của tôi. Tôi lúng túng sục sạo những từ ngữ, và dường như ông nhận biết sự vô vọng của tôi và giảm bớt sự căng thẳng trong nói chuyện của chúng tôi về những vấn đề hàng ngày nhiều hơn. Ông hỏi tôi liệu đã sẵn sàng để dùng bữa trưa. Khi tôi từ chối khá miễn cưỡng, ngay lập tức ông dắt tôi vào nhà bếp, ấn tôi ngồi xuống trên một trong những cái ghế đẩu.

 “Cô ấy sẽ tiếp đãi bạn chút ít thức ăn,” ông nói, hướng về người đầu bếp đang rửa chén đĩa phía sau quầy.

 Tôi vẫn còn đang cám ơn ông không tiếc lời khi ông bắt tay từ giã. Như một ý nghĩa nảy ra sau, ông thêm vào bằng một nụ cười “Auf Wiedersehen!” Trước khi tôi biết nó ông đã rời nhà bếp, và tôi ngồi lại ăn một salad. Mặc dù tại một mức độ tôi bị thất vọng khi tôi đã không thành công trong việc thực hiện một đối thoại cùng ông, tuy nhiên tôi cảm thấy một trạng thái lâng lâng và một ý thức lạ lùng của ngây ngất.

 

 

Chương 4

LẦN THỨ HAI LOANH QUANH

 

 

“Thời gian luôn luôn đang lặp lại sự thách thức của nó

và những vấn đề của nó: những phản hồi và những đáp trả

liên quan đến cái lập tức.

Chúng ta thân thiết với

sự thách thức lập tức

và trả lời lập tức cho nó.

Trả lời lập tức này

đến thách thức lập tức

là thế gian, cùng tất cả

những vấn đề không thể giải đáp và những khốn khổ…

…đáp án vượt khỏi cái lập tức.”

 

 

 

 

 

-J. Krishnamurti

Sổ tay của Krishnamurti

 

N

ăm 1972 là năm tôi đang theo sát, trong chừng mực nào đó, những bước chân của Krishnamurti. Sau khi tham gia hai nói chuyện tại Libbey Bowl ở Ojai vào đầu tháng tư, tôi đi đến Châu âu cho Những Họp mặt vào tháng bảy và tám, theo sau bởi Những Nói chuyện Brockwood Park vào tháng chín. Tôi ở lại trường như một công nhân tự nguyện khoảng hai tháng, suốt thời gian này tôi có thể tham gia những gặp gỡ Krishnamurti thực hiện đều đặn cùng khối giáo viên và học sinh. Chúng là những đối thoại cởi mở và thương yêu mãnh liệt, và hơn tất cả bất kỳ nơi nào khác, ở đây tôi trải nghiệm Krishnamurti như một người cha già nhân đức.

 Không lâu sau khi ông rời đây để đến Ấn độ, tôi cũng khởi hành đi tiểu lục địa Châu á, vào tháng mười một. Sau một loạt nói chuyện ở New Delhi, nó lại tiếp tục ở miền nam, đến Madras. Tôi phát giác rằng Krishnamurti đang ở tại cùng ngôi nhà tách khỏi Greenways Road nơi lần đầu tiên tôi đã lắng nghe ông cách đầy một năm. Nhờ vào nhiều trùng hợp nhỏ này, người chủ nhà duyên dáng của ông, một phụ nữ kinh doanh, mở rộng sự hiếu khách của bà đối với tôi, cho phép tôi ở lại một tuần trong cái nhà tạm thời đang được xây dựng trong khuôn viên rộng lớn của ngôi nhà. Nó là một cấu trúc bằng gỗ với một mái lợp tranh, bốn bên trống không, và một cái bục ở phía cuối; khu cỏ dưới nó được phủ bằng những tấm thảm. Krishnamurti sẽ thực hiện những nói chuyện ở đây; và, ngoài ra, nhiều buổi trình diễn nhạc sẽ được lên sân khấu để tôn vinh ông. Căn phòng riêng của ông chỉ cách đó bốn mươi yard, ở phía bên trái cái sân. Tôi cảm thấy một hồi hộp vô cùng, và một ý thức của đặc ân, khi có thể sống gần gũi cùng ông như thế. Không khí ban đêm vùng nhiệt đới rất dìu dịu khi ngủ ngoài trời, và người phụ nữ của ngôi nhà không những lo liệu cho tôi sử dụng một buồng tắm, nhưng còn sắp xếp cho những người giúp việc phục vụ tôi trà và những bữa ăn đều đặn trong nơi cư ngụ tạm thời của tôi.

 Điều gì tôi đặc biệt yêu mến về hoàn cảnh tạm thời này là rằng, trong suốt những đêm ngày theo sau, tôi có thể quan sát Krishnamurti tại những khu nhà gần hơn. Từ vị trí xây dựng tạm thời phía dưới, tôi có thể quan sát ông rõ ràng qua cửa sổ lưới mắt cáo và cửa ra vào mở của phòng ông, khi ông di chuyển loanh quanh, ngồi viết tại bàn giấy của ông, đến và đi. Nó gây cảm hứng cho tôi khi quan sát ông ở không gian cá nhân của ông, mà không hiểu tại sao tôi lại tưởng tượng là bao la hơn, tự do hơn, và trống không hơn không gian của tôi, mặc dù cùng lúc tôi thấy sự vô lý khi buông thả trong những so sánh thuộc loại này.

 Tôi cố gắng giữ một khoảng cách kính trọng, mong muốn không gây bận tâm cho ông trong bất kỳ cách nào, mặc dù người nữ chủ nhà chắc chắn đã báo cho ông về sự hiện diện của tôi, và ông nhận biết rõ ràng được việc này. Thỉnh thoảng, khi ông ra ngoài vào lúc bình minh, hay vào buổi chiều sau giấc ngủ trưa của ông. Ông chào hỏi tôi bằng một cái vẫy tay thân thiện. Và tôi thường yên lặng đáp lại bằng một cử chỉ tương tự từ đầu cuối của sân nhà. Không có cảm giác như thể có bất kỳ khoảng cách nào giữa chúng tôi, trái lại một loại gần gũi cùng nhau.

 

*

 

Suốt ngày thứ hai của chuyến ở lại tại ngôi nhà, tôi đang sắp sửa đi dạo qua vùng lân cận. Ánh sáng của hoàng hôn đang ập xuống rồi, bao phủ quả đất trong tia sáng lan tràn đó, đặc trưng cho những vùng nhiệt đới. Bỗng nhiên tôi đụng đầu Krishnamurti, người cũng vừa rời ngôi nhà một mình.

 Tôi chào hỏi ông theo truyền thống namaste của Ấn độ, “Chào buổi tối, Krishnaji!”

 Cái nhìn chăm chú của ông lặng lẽ thâu nhận tôi trước khi có một lóe sáng của sự nhận ra, và, chìa hai bàn tay của ông ra, ông cầm hai bàn tay của tôi, lắc lắc chúng nhẹ nhàng theo truyền thống phương Đông. Sự tiếp xúc mát mẻ và êm ả của những ngón tay ông thật mềm mại như lụa.

 “A, chào bạn, thưa bạn,” ông nói. “Bạn đã đến rồi. Bạn đến đây bằng cách nào?”

 Nghĩ rằng ông không phiền khi nói chuyện chút ít, tôi trả lời, “Xin lỗi, thưa ông, ông đang trên đường dạo bộ buổi chiều phải không? Liệu ông vui lòng cho phép tôi theo sau?”

 Ông mỉm cười thân ái. “Được rồi, thưa bạn, đi cho vui. Tôi chỉ dạo bộ rất ngắn chiều nay thôi: đến góc đường rồi quay lại.”

 Tôi lại trải nghiệm ý thức đặc biệt của được dẫn dắt vào một cánh đồng của khoáng đạt và rõ ràng, không rào chắn nhưng được che chở và an toàn, một cảm xúc tôi thường cảm thấy trong sự hiện diện của ông.

 Trong vài khoảnh khắc chúng tôi đi bộ yên lặng dọc theo Greenways Road nhá nhem tối. Những chiếc xích lô ba bánh và xe hơi vụt qua chúng tôi ở hai phía đường, bóp còi inh ỏi. Những chiếc xe bò kéo có hai bánh thật to chậm chạp lết qua. Và đằng trước quầy bán nước trà ở góc đường, lấp lánh bởi những ngọn đèn dầu và những cái bóng đèn không nắp chắn gió, những người đàn ông đang ngồi bó gối và tán chuyện với nhau, hút thuốc và nhấp trà. Dường như mọi nơi đều có trẻ em, chạy nhốn nháo cùng những tiếng la hét và cười đùa, hay khóc lóc và tìm kiếm sự dỗ dành nơi bà mẹ của chúng.

 Tôi bắt đầu kể chuyện làm thế nào tôi đi đến Ấn độ được. “Đặc biệt ở Châu âu, tôi thích quá giang từ một thành phố này qua một thành phố khác,” tôi nói.

 “Bạn làm việc đó bằng cách nào?” ông hỏi.

 Tôi giải thích một cách vắn tắt dễ hình dung về phương pháp quá giang của tôi bằng cách bước trên đường và giơ ngón tay cái lên. Việc này khiến ông cười vui vẻ.

 “Liệu bạn đi cùng bất kỳ chiếc xe hơi cũ nào ngừng lại?” ông hỏi.

 “Dĩ nhiên, nó phải đi đến nơi nào nó dự tính, hay ít nhất trong phương hướng đó. Và nó cũng phải an toàn khi đi cùng những người trong xe đó,” tôi giải thích. Khi tôi tiếp tục kể cho ông một số chi tiết về chuyến đi vất vả từ Central Europe đến South India qua Greece. Asian Minor, Iran, Afghanistan và Pakistan, có vẻ ông bị ấn tượng bởi câu chuyện kể của tôi về chuyến hành trình mạo hiểm. Ông tò mò về vài quốc gia mà ông chưa bao giờ viếng thăm, như Iran và Afghanistan, đưa ra những câu hỏi khiến cho tôi phải rối lên để trả lời chính xác.

 Khi những bóng đêm đang trở nên đậm hơn, những ánh đèn đang xuất hiện dọc theo con đường và trong những ngôi nhà. Ngừng lại phía trước khu cư ngụ chung của chúng tôi, Krishnamurti nắm chặt cánh tay của tôi bằng một trong những cử chỉ thương yêu riêng của ông.

 “Ngủ ngon, thưa bạn,” ông nói, “gặp bạn ngày mai.”

 Và đi vào nhà, ông nhẹ nhàng khép cánh cửa đằng sau ông.

 “Ngủ ngon, Krishnaji,” tôi chúc lại.

 

*

 

Ở gần ông không những cho tôi một cơ hội để quan sát sống hàng ngày của ông; nó cũng thấm nhuần sống riêng của tôi bằng một nhịp điệu của sự tĩnh lặng suy tư, sự ưa thích mà trước kia tôi chưa bao giờ biết đến.

 Tại một mức độ nào đó, sống của ông dường như là chính sự đơn giản. Ông tập thể dục buổi sáng của ông, yoga và pranayama, và dùng những bữa ăn ở nhà, thường có bạn bè; ông viết tại bàn giấy điều gì tôi nghĩ có lẽ là thư từ và nhật ký, bởi vì ông không chuẩn bị trước những nói chuyện của ông nhưng nói một cách tùy ứng, từ bản thể của hoàn cảnh sẵn có. Sau bữa trưa, ông nghỉ ngơi một chút. Một hay hai tiếng đồng hồ trước hoàng hôn ông sẽ dạo bộ, thường cùng bạn bè, những người đưa ông bằng xe hơi đến bãi biển Adyar. Ngoài việc thực hiện những nói chuyện trước công chúng và những đối thoại, ông có những gặp gỡ thường xuyên cùng những người hợp tác. Những người khách khác mà ông tiếp đến để bày tỏ sự kính trọng, thường kèm theo sự dâng tặng theo nghi lễ gồm những bông hoa và những giỏ trái cây. Nó là một phần thuộc truyền thống của Ấn độ để tìm kiếm darshan, sự hiện diện của một người thầy tôn giáo hay đạo sư, và sùng kính nhiều đối với con người đó.

 Tôi quan sát một loại sùng kính này suốt một trong vài buổi trình diễn nhạc có sân khấu để tôn vinh Krishnamurti. Một trong những ca sĩ nổi tiếng nhất vùng South India. M. S. Subbulakshmi, một phụ nữ có một giọng hát thiên thần, hát những bài hát tôn giáo trên sân khấu trước số đông khán giả, kể cả Krishnamurti. Sau sự trình diễn đầy cuốn hút suốt hai tiếng đồng hồ, người phụ nữ xuống sân khấu và bày tỏ sự kính trọng ông bằng cách quỳ xuống và chạm vào bàn chân của ông bằng những đầu ngón tay. Mặc dù ông không ưa thích cử chỉ như thế, ông tử tế chấp nhận sự phô bày sùng kính trước công chúng này, đáp lại bằng cách quàng một vòng hoa nhài và những bông hoa plumeria quanh cổ cô ấy.

 

*

 

Một ngày sau những nói chuyện ở Madras. Tôi biết rằng Krishnamurti sẽ rời đây để đến Rishi Valley rất sớm vào buổi sáng và tôi đã chuẩn bị chắc chắn cho cơ hội này. Vẫn còn tối lắm, và tôi nhìn từ xa khi chiếc xe hiệu Ambassador chạy từ từ đến phía trước cái hồ sen và vòi phun nước nhỏ, được trang trí bởi bức tượng bằng sắt của Shiva Nataraj. Những ngọn đèn được bật lên và những người giúp việc bắt đầu chất hành lý lên xe. Hơi se se lạnh trong không khí, và khi tôi nhìn những vì sao sáng trên cao, tôi có thể thấy được sự thể hiện rất nhỏ nhiệm của bình minh, một vệt sáng ở phương Đông. Bỗng nhiên, tất cả những người giúp việc xếp hàng thẳng bên cạnh chiếc xe hơi, và người tài xế mở cửa phía giành cho hành khách. Tôi mau lẹ sải bước và đứng cách họ vài feet. Được theo cùng bởi người nữ chủ nhà và một trong những người kết giao của ông, Krishnamurti đi thẳng đến chiếc xe và yên lặng đáp lại tử tế sự kính trọng namaste mà chúng tôi đang bày tỏ. Ông trông yếu ớt khi bước vào xe, được phủ trong cái khăn choàng bằng len. Khi chiếc xe từ từ ra khỏi cái sân, tôi cảm thấy một ý thức lạ lùng của hụt hẫng và trống không. Một tuần lễ sống gần gũi vật chất với ông giúp tôi có thể thoáng hiểu sống tỏa sáng và đơn giản của ông nhưng cũng tạo ra một hình thức quyến luyến đối với tôi. Và lúc này nó kết thúc, tôi cảm thấy vừa được phong phú lẫn bị tước đoạt, mặc dù ngày kế tiếp tôi sẽ theo ông đến Rishi Valley.

 

*

 

Tại Rishi Valley, và vài tuần sau tại Bangalore, tôi ít thấy Krishnamurti, ngoại trừ vào những ngày nói chuyện. Tại Bombay, thủ đô đông đúc trên Arabian Sea, ông sống trong một vùng của thành phố được gọi là Malabar Hill, gần Towers of Silence, khu nghĩa trang Zoroastrian, tôi rung chuông cửa với hy vọng được gặp ông. Người nữ chủ nhà, một phụ nữ quý phái, khỏe mạnh nồng nhiệt tiếp đón tôi, và, sau khi mời tôi uống trà, bảo cho tôi rằng ông đang ở trong nhà nhưng không gặp bất kỳ ai. Tuy nhiên, bà tiết lộ rằng vào những buổi chiều muộn ông thường dạo bộ trong Hanging Gardens gần bên, và rằng tôi có lẽ gặp được ông ở đó.

 Việc này đủ kích thích tôi để tìm đường đến công viên công cộng nhìn qua vịnh hình bán nguyệt, đầy những cao ốc. Hanging Gardens hóa ra lại là một cái vườn nghệ thuật, những bụi cây của nó được túm vào những hình thể trang hoàng của những con voi, con cọp và những thú vật khác. Ngay trước hoàng hôn, những đám đông lớn, không có ngoại lệ, hầu như đều mặc chiếc áo trắng rộng, kéo đến chật ních những con đường nhỏ của cái vườn. Trong khoảnh khắc tôi thắc mắc liệu tất cả đều đến để thấy Krishnamurti. Loại bỏ nhận thức này vì không thể như thế, tôi tự nhủ với mình làm thế nào tôi có thể phát hiện ông trong số người đông đúc như thế này.

 Bỗng nhiên tôi thấy ông. Ông đang đi rất nhanh, gần như đang chạy, quanh bãi cỏ trung tâm của cái vườn. Năm hay sáu người đang vội vàng cố gắng theo sát, nhưng không thể nào bắt kịp ông. Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, dường như sẽ thật vô lý khi muốn chào hỏi ông, vì vậy tôi chỉ quan sát ông từ khá xa. Tôi kinh ngạc bởi thể lực ổn định của ông, làm thế nào, không chậm lại bất kỳ thời điểm nào, ông bước đi chung quanh bãi cỏ lặp đi lặp lại khoảng nửa tiếng đồng hồ, trước khi rời đó để về nhà, những người bạn theo sau, trong khi ánh sáng màu vàng của hoàng hôn tràn ngập mọi nơi cùng sự yên lặng mênh mang.

 *

 

Sau những nói chuyện ở Bombay, trước hết tôi đến Châu âu và từ đó tiếp tục đến California, bởi vì tôi đã biết rằng Krishnamurti sẽ nói chuyện ở cả San Francisco và Ojai. Vào đầu tháng ba, năm 1973, ông thực hiện bốn nói chuyện trước công chúng tại Masonic Temple ở thành phố bên cạnh vịnh. Thật là một mãn nguyện đặc biệt khi lắng nghe ông trong thành phố kỳ diệu này, nơi tôi đã sống nhiều năm.

 Những cơn mưa ào ào mùa xuân đã biến California thành một mảnh đất của những quả đồi và những thung lũng xanh rì, với những tấm thảm hoa poppy vàng rực và những hoa đậu lupin xanh sáng dọc theo xa lộ. Suốt chuyến xe về miền nam đến Ojai, tôi nghĩ rằng tôi chưa từng trải nghiệm quả đất và vẻ đẹp của nó sâu sắc nhiều như thế.

 Quẹo khỏi đường cao tốc 101 tại Ventura, tôi vào Ojai Valley trên xa lộ 33. Bức tranh toàn cảnh đầy màu sắc đang thay đổi trước mặt tôi cuốn hút tất cả những giác quan của tôi. Cái chén thung lũng cùng tất cả những đường vòng của nó và những khuôn mẫu theo địa hình của những cánh rừng cam được tắm trong những tia sáng của mặt trời hoàng hôn. Những triền núi và những đường gấp của những hòn núi được khắc viền sắc nét trong những cái bóng màu tím và màu tía, tương phản với những mảng sáng rực của màu xanh da trời và xanh lá cây. Một ý thức mênh mang của sự tĩnh lặng bao phủ quả đất và bầu trời dạ quang. Tôi cảm thấy như thể đang đi vào một quang cảnh của vẻ đẹp ma thuật và thăm thẳm.

 Vào một buổi sáng thứ bảy có mặt trời rực rỡ trong tháng tư, Krishnamurti đang thực hiện nói chuyện đầu tiên trong bốn nói chuyện tại Libbey Bowl ở Ojai. Một cơn gió nhẹ đang xào xạc những chiếc lá cây ngô đồng, khi một cánh cửa hông mở ra và một hình bóng mảnh mai, nhỏ xíu bước vào ánh đèn sân khấu của giảng đường có những bậc ngồi, những bậc của nó đang được ngồi chật ních bởi khoảng một ngàn người hay hơn thế. Ông trang phục nhã nhặn và khiêm tốn trong cái quần dài xám sậm có nếp sắc nét, đôi giầy da thuộc mềm màu nâu đỏ được đánh bóng láng, và một áo sơ mi thêu tay dài. Tôi nhận thấy rằng màu đỏ Bordeaux của chiếc áo sơ mi của ông giống như màu của chiếc áo tôi đang mặc. Khi ông bước về phía trước, tôi kinh ngạc khi thấy ông xuất hiện trong chính ông trọn vẹn ra sao và ý thức của sự tĩnh lặng tập trung bao phủ quanh ông.

 Khi được mời ngồi trên cái ghế dựa chính giữa sân khấu lớn, một cái microphone nhỏ trước mặt ông, ông nhìn chăm chú bằng một bình thản không chút bối rối vào nhiều khuôn mặt đang quan sát ông.

 Cuối cùng khi ông bắt đầu nói, dường như ông đang nói chuyện đồng loạt cùng một người duy nhất và mọi người tại cùng một thời điểm. Ông nói về sự suy nghĩ và sự phân chia mà chúng đã gây ra trên mọi mức độ của sự hiện diện; ông nói về sự vui thú và sự sợ hãi, về vẻ đẹp của thiên nhiên, của chết, tình yêu và thiền định, tháo gỡ toàn cảnh sống của con người. Tiếp theo, sau một khoảng ngừng kết thúc của sự yên lặng, ông phác cử chỉ cho mọi người đứng dậy, bởi vì ông thấy không lễ phép khi đứng dậy trước khi họ đứng dậy.

 Bỗng nhiên tôi nhớ lại một bài thơ mà tôi vừa viết và dự tính trao cho ông. Tôi đang ngồi hàng thứ ba và nhận thấy một lối ra từ sân khấu đến con đường, bị che khuất bởi một cái cửa bằng gỗ. Tôi vội vã đi đến đó và thấy rằng cửa không bị khóa. Không có ai cả ngoại trừ tôi – khác với Saanen và Ấn độ – dường như sau-nói chuyện đang nhốn nháo tìm kiếm sự tiếp xúc cùng người nói. Tôi lặng lẽ lách qua cái cửa và, đang quay lại, phát giác chính mình mặt đối mặt với Krishnamurti.

 Cảm xúc đầu tiên của tôi là sự chấn động yên lặng và một nhịp tim đập nhanh vô cùng của sự nhận ra. Sau đó, theo bản năng tôi lùi lại, sợ hãi rằng tôi đã xâm nhập vào lãnh vực riêng tư của ông. Ông đang đứng một mình, dựa một cánh tay trên bàn, như thể đang lấy lại hơi thở sau một lần chạy marathon. Có một ửng đỏ nhạt khắp khuôn mặt ông, và hai mắt của ông có một tia sáng lạ lùng. Tuy nhiên, dường như ông cũng không ngạc nhiên và không bực bội bởi sự hiện diện bất ngờ của tôi, nhưng chỉ nhìn tôi bằng một xa cách yên lặng.

 Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông như thế: nhút nhát và mỏng manh vô cùng. Tôi cảm thấy bị bối rối bởi sự đồ sộ của tôi. Cử chỉ trao cho ông mảnh giấy có bài thơ trên nó của tôi dường như lố bịch trong tình huống đó. Nhưng không hiểu vì sao tôi đã thực hiện, ấp úng, “Cám ơn ông, thưa ông. Cám ơn ông.”

 Ông nhận mảnh giấy với hai bàn tay run rẩy, và nhìn nó, thắc mắc, như thể không thể giải đoán nó.

 “Nó là một bài thơ tôi đã viết tặng ông, thưa ông,” tôi giải thích bằng một giọng nói khá xa lạ đối với tôi.

 “Được rồi, thưa bạn. Tôi sẽ đọc nó sau, nếu bạn không phiền.”

 Tôi không biết nói gì thêm. Sau một khoảng thời gian yên lặng dường như vô tận ông bắt tay tôi, nói, “Cám ơn bạn, thưa bạn. Chào bạn.”

 Tôi cảm thấy vô cùng biết ơn và thân thiện đối với ông khi ông quay lại và đi ra ngoài về hướng con đường.

 

*

 

Cùng năm đó, tôi lại bị cuốn hút vào những nói chuyện mùa hè tại Saanen. Tôi giúp đỡ công việc dựng lều bên cạnh bờ sông. Một buổi chiều, nhiều người chúng tôi đang bận rộn hoàn tất công việc, bởi vì những nói chuyện bắt đầu ngày mai. Tôi đang đào một đường mương chung quanh cái lều. Ngay lúc đó, một chiếc xe Mercedes chạy đến và từ từ ngừng lại trước lối vào bên hông. Một ngạc nhiên choáng váng đầy phấn khởi ngập tràn trong tôi khi tôi nhận ra Krishnamurti đang bước ra khỏi chiếc xe hơi. Người phụ nữ theo cùng ông, có chiều cao và vóc người tương đối bằng ông, mặc thanh lịch nhưng kín đáo một cách tinh tế. Khi họ đi quanh lều, cẩn thận tìm hiểu những chi tiết bên ngoài và bên trong, Krishnamurti chào hỏi mọi người ông gặp. Tôi ở bên trong lều khi họ vào không gian cân đối rộng lớn đó. Cả hai người nhận ra tôi từ những lần gặp gỡ bất ngờ lúc trước, và tôi cảm thấy một cơn sóng của hân hoan khi Krishnamurti xưng hô với tôi bằng tên gọi của tôi. Tôi ấp úng, “Thật tuyệt vời khi gặp lại ông, thưa ông. Chúng tôi hầu như hoàn tất công việc dựng lều cho ngày mai.”

 “Công việc khá vất vả, phải không?” ông nhận xét.

 Sau khi trao đổi một vài lời với người theo cùng, ông hỏi tôi, “Bạn làm ơn, thưa bạn, lên trên bục đó và ngồi trên ghế dựa trong chốc lát?”

 “Dĩ nhiên không sao đâu, thưa ông,” tôi trả lời, hơi bị bối rối bởi lời yêu cầu. Khi tôi bước lên sân khấu, tôi cảm thấy hơi ngượng ngùng, và những tín hiệu suy nghĩ mâu thuẫn nảy ra trong cái trí của tôi về mục đích của sự thực tập.

 “Vâng, làm ơn, thưa bạn, hãy ngồi trên ghế,” ông lặp lại, khi ông nhận thấy tôi hơi do dự.

 Hạ thấp mình trên cái ghế gỗ, trong chốc lát tôi bị quyến rũ khi đảm trách một trong những tư thế đặc trưng của Krishnamurti: cầm hai gờ của chiếc ghế bằng cả hai tay và ngồi xuống. Krishnamurti và người phụ nữ đi theo dãy ghế thẳng đến đầu cuối của lều, kiểm soát lại những góc độ của tầm nhìn, trong khi tôi ngồi đó trong sự yên lặng bất động, nhìn ra ngoài qua những dãy ghế băng bằng gỗ.

 “Bạn làm ơn di chuyển cái ghế qua bên trái một chút xíu?” Krishnamurti gọi vọng tới từ hàng ghế sau cùng.

 Di chuyển cái ghế, tôi yên lặng nhìn khi họ hỏi ý kiến lẫn nhau. Khi tôi đang ngồi đó trên cái bục, tại nơi của diễn giả, tôi bỗng phát giác là quá mâu thuẫn khi bắt chước ông, hay bất kỳ người nào khác. Cùng lúc, tôi cũng nhận ra rằng tôi có ao ước giống như ông, hay giống như bất kỳ điều gì mà tôi tưởng tượng về ông. Tôi muốn theo một sống không xung đột, có một cái trí yên lặng của sự từ bi và thanh thản, và tuy nhiên lại đầy năng lượng và sinh động lạ thường.

 Trong khi những suy nghĩ này đang nảy ra trong cái trí của tôi, Krishnamurti vẫy tay từ phía cuối lều, nói vọng qua những dãy ghế dài trống, “Cám ơn bạn, thưa bạn.”

 “Không có gì đâu, thưa ông,” tôi trả lời và đi khỏi sân khấu để tiếp tục công việc chuẩn bị.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn