Phần I Những Đoạn Văn Ngắn

06 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 7267)

J. KRISHNAMURTI
GẶP GỠ CUỘC SỐNG
MEETING LIFE 
Biên soạn: Mary Lutyens
Lời dịch: Ông Không
[www.thuvienhoasen.org]
– Tháng 11-2011 –

PHẦN I
NHỮNG ĐOẠN VĂN NGẮN

Cái hồ

 

C

ái hồ rất sâu, có những vách đá vút cao cả hai bờ. Bạn có thể thấy bờ bên kia, đầy cây, cùng những chiếc lá non mùa xuân; và phía bên này cái hồ lại dốc đứng hơn, có lẽ rậm rạp hơn bởi những tán lá, và cây cối dầy dặc. Sáng hôm đó nước êm ả và có mầu xanh sẫm. Nó là một cái hồ đẹp. Có những con thiên nga, những con vịt và những chiếc thuyền chở hành khách thỉnh thoảng trôi qua.

 Khi bạn đứng trên bờ, trong công viên được giữ gìn cẩn thận, bạn ở rất gần nước. Nó không bị ô nhiễm, và vẻ đẹp cùng kết cấu của nó dường như thâm nhập vào bạn. Bạn có thể ngửi nó – không khí thơm dịu, bãi cỏ xanh – và bạn cảm thấy là một cùng nó, đang chuyển động cùng dòng chảy chậm rãi, những phản ảnh, và sự yên lặng sâu thẳm của con sông.

 Điều lạ thường là bạn cảm thấy một ý thức vô hạn của ân cần, không dành cho bất kỳ thứ gì hay bất kỳ người nào, nhưng sự phong phú của cái gì đó có lẽ được gọi là tình yêu. Vấn đề duy nhất phải quan tâm là thâm nhập vào chính chiều sâu của nó, không phải bằng một cái trí nhỏ nhen dốt nát cùng những huyên thuyên vô tận của sự suy nghĩ của nó, nhưng bằng sự yên lặng. Sự yên lặng là phương tiện duy nhất, hay dụng cụ, mà có thể xuyên thấu vào cái gì đó vượt khỏi cái trí quá bị ô uế.

 Chúng ta không biết tình yêu là gì. Chúng ta biết những dấu hiệu tồn tại của nó, sự vui thú, sự đau khổ, sự sợ hãi, sự lo âu và vân vân. Chúng ta cố gắng chữa trị những triệu chứng, mà trở thành một lang thang trong sự tối tăm. Chúng ta trải qua suốt ngày đêm trong việc này, và chẳng mấy chốc nó kết thúc trong chết.

 Kia kìa, khi bạn đang đứng trên bờ nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng nước, tất cả những vấn đề của con người và những học viện, sự liên hệ của con người với con người, mà là xã hội – tất cả sẽ tìm được vị trí đúng đắn của chúng nếu bạn có thể thông suốt cái sự việc được gọi là tình yêu này.

 Chúng ta đã nói nhiều về nó. Mỗi người trẻ tuổi đều nói anh ấy thương yêu người phụ nữ nào đó, vị linh mục thương yêu Thượng đế của anh ấy, người mẹ thương yêu con cái của bà ấy, và dĩ nhiên những người chính trị đùa giỡn với tình yêu này. Thật ra, chúng ta đã làm hư hỏng từ ngữ đó và chất đầy nó bằng những ý tưởng vô nghĩa – ý tưởng của những cái tôi nhỏ nhen chật hẹp riêng của chúng ta. Trong cái tôi nhỏ nhen chật hẹp này chúng ta cố gắng tìm ra cái khác lạ, và thật đau khổ khi được đáp lại bằng sự hoang mang và phiền muộn hàng ngày của chúng ta.

 Nhưng nó đó kìa, trên dòng nước, tất cả quanh quanh bạn, trong chiếc lá, và trong con vịt đang cố gắng nuốt một miếng bánh mì lớn, trong người đàn bà khập khiễng đi ngang qua. Nó không là một đồng hóa lãng mạn hay một diễn đạt từ ngữ có lý luận ranh mãnh. Nhưng nó hiện diện ở đó, cũng thực sự như chiếc xe hơi đó, hay cái thuyền đó.

 Nó là một việc duy nhất mà sẽ trao tặng một đáp án cho tất cả những vấn đề của chúng ta. Không, không phải một đáp án, bởi vì lúc đó sẽ không có những vấn đề. Chúng ta có những vấn đề của mọi diễn tả hàng ngày và chúng ta cố gắng giải quyết chúng mà không có tình yêu đó, và thế là chúng gia tăng và nảy nở gấp bội. Không có phương cách nào tiếp cận nó, hay nắm chặt nó, nhưng thỉnh thoảng, nếu bạn có thể đứng trên lề đường, hay bên bờ hồ, đang nhìn ngắm một bông hoa hay một cái cây, hay người nông dân đang cày cấy mảnh đất của anh ấy, hay nếu bạn yên lặng, không mộng mơ, không mơ màng, hay âu sầu, nhưng cùng sự yên lặng trong mãnh liệt của nó, vậy thì có lẽ nó sẽ đến với bạn.

 Khi nó đến, đừng ấp ủ nó, đừng nâng niu nó như một trải nghiệm. Một lần nó tiếp xúc bạn, bạn sẽ không bao giờ giống như cũ. Hãy để cho cái khác lạ vận hành, và không phải tham lam của bạn, tức giận của bạn hay sự cao quý đức hạnh do xã hội tạo ra. Thật ra nó hoàn toàn hoang dại, không thuần phục được, và vẻ đẹp của nó không đáng kính gì cả.

 Nhưng chúng ta không bao giờ ao ước nó, bởi vì chúng ta có một cảm thấy rằng nó có lẽ quá nguy hiểm. Chúng ta là những động vật được thuần hóa, quay cuồng trong một cái cũi mà chúng ta đã tự dựng lên cho chính chúng ta – cùng những mãn nguyện của nó, những cãi cọ của nó, những người lãnh đạo chính trị quá quắt của nó, những đạo sư của nó mà trục lợi sự tự phụ của chúng ta và của riêng họ bằng sự trau chuốt tinh tế hay thô thiển phía bên ngoài. Trong cái cũi đó bạn có thể có hỗn loạn hay trật tự, mà luân phiên nhường chỗ cho vô trật tự; và việc này đã xảy ra suốt nhiều thế kỷ – đang bùng nổ, đang rơi lại, đang thay đổi những khuôn mẫu của cấu trúc xã hội, có lẽ đang chấm dứt sự nghèo khổ đó đây. Nhưng nếu bạn xếp đặt tất cả những điều này như những điều cốt lõi nhất, vậy thì bạn sẽ mất đi cái khác lạ.

 Thỉnh thoảng hãy ở một mình, và nếu bạn may mắn nó sẽ đến cùng bạn, trên một chiếc lá đang rơi, hay từ cái cây cô đơn xa xôi đó trong một cánh đồng trơ trụi.

 

  Từ Bản tin I, 1968

Chết đi mọi ngày hôm qua

 

C

hết chỉ dành cho những người mà có, và dành cho những người mà có một nơi dựa dẫm. Sự sống là một chuyển động trong liên hệ và hợp nhất; sự phủ nhận của chuyển động này là chết. Có một chỗ ẩn náu phía bên ngoài hoặc phía bên trong; có một căn phòng hay một ngôi nhà, hoặc một gia đình, nhưng đừng cho phép nó trở thành một nơi trú ẩn, một tẩu thoát khỏi chính bạn.

 Nơi ẩn náu an toàn mà cái trí của bạn đã thực hiện trong vun quén đạo đức, trong sự mê tín của niềm tin, trong khả năng ranh mãnh và trong hoạt động, chắc chắn sẽ mang lại chết. Bạn không thể lẩn tránh chết nếu bạn phụ thuộc thế giới này, xã hội mà bạn sống. Cái người đã chết ở nhà bên cạnh hay cách xa một ngàn dặm là bạn. Bằng sự chu đáo vô cùng, anh ấy đã và đang chuẩn bị suốt nhiều năm để chết, giống như bạn. Giống như bạn, anh ấy đã gọi sống là một đấu tranh, một đau khổ, hay một trình diễn rất vui vẻ. Nhưng chết luôn luôn hiện diện ở đó, đang nhìn ngắm, đang chờ đợi. Nhưng cái người mà chết hàng ngày vượt khỏi chết.

 Chết là tình yêu. Vẻ đẹp của tình yêu không ở trong những hồi tưởng quá khứ hay trong những hình ảnh của ngày mai. Tình yêu không có quá khứ và không có tương lai; cái gì có, là ký ức, mà không là tình yêu. Chính xác, tình yêu cùng sự đam mê của nó vượt khỏi ranh giới của xã hội, mà là bạn. Chết, và nó hiện diện ở đó.

 Thiền định là một chuyển động ở trong và của cái không biết được. Bạn không hiện diện ở đó, chỉ sự chuyển động. Bạn quá nhỏ nhoi hay quá to lớn cho sự chuyển động này. Nó không có gì đằng sau nó hay phía trước nó. Nó là năng lượng đó mà vật chất-suy nghĩ không thể tiếp xúc. Sự suy nghĩ là sự biến dạng bởi vì nó là sản phẩm của ngày hôm qua; nó bị trói buộc trong những lao dịch của nhiều thế kỷ và vì vậy nó bị rối loạn, không rõ ràng. Dù làm bất kỳ điều gì, cái đã được biết không thể vươn tới cái không biết được. Thiền định là chết đi cái đã được biết.

 Từ sự yên lặng, nhìn ngắm và lắng nghe. Sự yên lặng không là sự kết thúc của ồn ào. Sự huyên thuyên liên tục của cái trí và quả tim không kết thúc trong sự yên lặng; nó không là một sản phẩm, một kết quả của sự ham muốn, nó cũng không được sắp xếp vào chung bởi ý muốn. Tổng thể của ý thức là một chuyển động ồn ào, nhiễu loạn bên trong những biên giới của đang tạo tác riêng của nó. Bên trong biên giới này, sự yên lặng hay bất động này không là gì cả ngoại trừ sự kết thúc trong chốc lát của sự huyên thuyên; nó là sự yên lặng bị tiếp xúc bởi thời gian. Thời gian là ký ức và đối với nó sự yên lặng là lâu dài hay mau lẹ; nó có thể đo lường. Trao cho nó không gian và sự tiếp tục, và vậy thì nó trở thành một đồ chơi khác. Nhưng đây không là sự yên lặng. Mọi thứ được sắp xếp vào chung bởi sự suy nghĩ đều ở trong cánh đồng của sự nhiễu loạn, và không cách nào sự suy nghĩ có thể tự làm yên lặng chính nó. Nó có thể dựng lên một hình ảnh của sự yên lặng và qui phục, tôn sùng hình ảnh đó, như nó luôn luôn thực hiện cùng quá nhiều hình ảnh mà nó đã sáng chế, nhưng công thức của sự yên lặng của nó chính là sự tiêu cực của nó; những biểu tượng của nó chính là sự phủ nhận của thực tế. Chính sự suy nghĩ phải bặt tăm cho sự yên lặng hiện diện. Sự yên lặng luôn luôn là ngay lúc này, khi sự suy nghĩ không hiện diện. Sự suy nghĩ, luôn luôn cũ kỹ, không thể thâm nhập sự yên lặng đó mà luôn luôn mới mẻ. Cái mới mẻ trở thành cái cũ kỹ khi sự suy nghĩ tiếp xúc nó. Từ yên lặng này, nhìn ngắm và nói chuyện. Từ yên lặng này, có sự vô danh thực sự và không còn sự khiêm tốn nào khác. Kiêu ngạo luôn luôn là kiêu ngạo, mặc dù nó khoác vào vỏ ngoài của sự khiêm tốn, mà khiến cho nó khắc nghiệt và cáu kỉnh thêm. Nhưng từ yên lặng này, từ ngữ ‘tình yêu’ có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Yên lặng này không ở ngoài đó nhưng hiện diện nơi toàn nhiễu loạn của người quan sát kết thúc.

 Hồn nhiên, một mình nó, có thể là đam mê. Hồn nhiên đó không có đau khổ, không có chịu đựng, mặc dù nó đã có hàng ngàn trải nghiệm. Không phải những trải nghiệm gây thoái hóa cái trí, nhưng chính là những gì chúng lưu lại đằng sau, cặn bã, những vết sẹo, những kỷ niệm. Những thứ này tích lũy, chất chồng thứ này trên thứ khác, và thế là đau khổ bắt đầu. Đau khổ này là thời gian. Nơi nào đau khổ hiện diện, hồn nhiên không còn. Đam mê không bị sinh ra từ đau khổ. Đau khổ là trải nghiệm, trải nghiệm của sống hàng ngày, sống của khó nhọc và những vui thú thoáng chốc, những sợ hãi và những chắc chắn. Bạn không thể chạy trốn những trải nghiệm, nhưng chúng không cần bám rễ trong mảnh đất của cái trí. Những gốc rễ này là nguyên nhân cho những vấn đề, những xung đột và sự đấu tranh liên tục. Không có phương cách thoát khỏi cái này nhưng hàng ngày chết đi mọi ngày hôm qua. Cái trí rõ ràng, một mình nó, có thể là đam mê. Nếu không có đam mê bạn không thể thấy cơn gió nhe nhẹ len lỏi giữa những chiếc lá hay ánh mặt trời trên dòng nước. Nếu không có đam mê, không có tình yêu.

 Đang thấy là đang làm. Khoảng trống giữa đang thấy và đang làm là sự lãng phí của năng lượng.

 Tình yêu chỉ có thể hiện diện khi sự suy nghĩ bặt tăm. Sự bặt tăm này không thể nào bị sáng chế bởi sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ chỉ có thể sắp xếp vào chung những hình ảnh, những công thức, những ý tưởng, nhưng sự bặt tăm này không bao giờ có thể bị tiếp xúc bởi sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ luôn luôn cũ kỹ, nhưng tình yêu lại không.

 Cơ thể có sự thông minh riêng của nó, mà bị làm tê liệt qua những thói quen của vui thú. Những thói quen này hủy hoại sự nhạy cảm của cơ thể, và không nhạy cảm này khiến cho cái trí đờ đẫn. Một cái trí như thế có lẽ tỉnh táo trong một phương hướng giới hạn và chật hẹp và vẫn vậy không nhạy cảm. Chiều sâu của một cái trí như thế có thể đo lường được và bị trói buộc bởi những hình ảnh và những ảo tưởng. Sự hời hợt của nó là sự thông minh duy nhất của nó. Một cơ thể thông minh và nhẹ nhàng là điều cần thiết cho thiền định. Sự tương tác giữa cái trí thiền định và cơ thể của nó là một điều chỉnh liên tục trong sự nhạy cảm; bởi vì thiền định cần đến sự tự do. Sự tự do là kỷ luật riêng của nó. Trong sự tự do, một mình nó, có thể có sự chú ý. Nhận biết được không-chú ý là chú ý. Sự chú ý tổng thể là tình yêu. Một mình nó, có thể thấy, và đang thấy là đang làm.

 Ham muốn và vui thú kết thúc trong đau khổ; và tình yêu không có đau khổ. Cái gì có đau khổ là sự suy nghĩ – suy nghĩ mà cho sự tiếp tục đến vui thú. Sự suy nghĩ nuôi dưỡng vui thú, củng cố sức mạnh cho nó. Mãi mãi sự suy nghĩ đang tìm kiếm vui thú, và thế là đang mời mọc đau khổ. Đạo đức mà sự suy nghĩ vun quén là phương cách của vui thú và trong nó có nỗ lực và thành tựu. Nở hoa của tốt lành không ở trong mảnh đất của sự suy nghĩ nhưng trong sự tự do khỏi đau khổ. Sự kết thúc của đau khổ là tình yêu. 

 Từ Bản tin 4, 1969

 

Cái vườn

 

N

ó là một cái vườn rất rộng khoảng nhiều mẫu ngay phía bên ngoài một thị trấn mở rộng lộn xộn trong vùng ngoại ô. Có những cái cây rất to và những cái bóng dầy – những cây me, cây xoài, cây dừa và những cây đầy hoa. Có màu sắc khắp mọi nơi, và một cái ao cùng những bông hoa loa kèn trong nó. Và có những cây non mới trồng mà sẽ lớn lên thành những cây to vút cao. Cái vườn được bao quanh bởi những dây kẽm gai đứt khoảng và người ta phải đuổi những con dê đi lạc vào và thỉnh thoảng, một hay hai con bò.

 Ngôi nhà lớn lắm, không nhiều tiện nghi và căn phòng nhìn ra một bãi cỏ cần phải tưới nước hai lần một ngày, bởi vì mặt trời quá gắt cho những cọng cỏ mỏng manh. Và luôn luôn có những con chim – vẹt, sáo đá, sẻ, quạ, và một con chim đốm to có cái đuôi dài thường đến mổ những quả dâu, và cả một con chim vàng rực thường vùn vụt qua lại giữa những chiếc lá.

 Rất yên lặng trong cái vườn đó, nhưng mỗi buổi sáng khoảng bốn giờ rưỡi sẽ có tiếng ca hát, những cái radio om sòm từ bờ sông bên kia và những khoảnh khắc ngắn ngủi của tiếng cầu kinh bằng tiếng Phạn – bởi vì nó là một tháng lễ hội. Tiếng cầu kinh rất hay, nhưng phần âm nhạc lại khó chịu lắm. Một buổi chiều, cách vài trăm yard trong khu cư xá nghèo nàn, họ đang mở nhạc phim trong cái máy hát đĩa, vặn âm thanh hết cỡ. Nó tiếp tục mãi đến tối; ồn ào nhất khoảng chín giờ.

 Có một tiếp xúc thuộc chính trị và có những ánh đèn neon sáng rực và một người chính trị đang diễn thuyết. Chắc chắn ông ấy đang hứa hẹn những điều kỳ diệu nhất. Ông ấy cũng luôn luôn thay đổi như khán giả, mà sẽ bầu tùy theo những ưa thích của họ. Thật ra nó là một giải trí, kéo dài suốt nhiều tiếng đồng hồ.

 Lại nữa vào sáng sớm âm nhạc tôn giáo sẽ bắt đầu; bạn thấy chòm sao Thập tự nam trên những cây dừa; và có sự yên lặng của đất đai.

 Qua chính ông ấy, người chính trị đang tìm kiếm quyền hành cho đảng phái của ông ấy. Sự ham muốn thống trị, vâng lời và được vâng lời dường như quá gần gũi với con người. Bạn thấy điều này trong một em bé và trong một người tạm gọi là trưởng thành – cùng tất cả tinh tế, tàn nhẫn và xấu xa của nó. Những người độc tài, những người giáo sĩ và người đứng đầu gia đình, dù đó là một đàn ông hay một phụ nữ, dường như đòi hỏi sự vâng lời này. Họ đảm trách uy quyền mà họ đã chiếm đoạt hay được trao cho bởi truyền thống, hay họ kiếm được bởi vì tình cờ họ lớn tuổi hơn. Khuôn mẫu này được lặp lại khắp mọi nơi.

 Sở hữu và bị sở hữu là đầu hàng cấu trúc của quyền hành này. Từ niên thiếu sự ham muốn quyền hành, vị trí và thanh danh này được khuyến khích qua so sánh và đo lường. Từ điều này sinh ra xung đột, đấu tranh để đạt được, để trở thành một người thành công và để thành tựu. Và cái người được kính trọng quá nhiều đang biểu lộ sự bất kính đối với những người khác. Người giám đốc có chiếc xe đẹp đẽ nhận được sự kính trọng, và anh ấy, luân phiên, có sự kính trọng nhiều cho chiếc xe đẹp đẽ hơn, ngôi nhà khang trang hơn, lợi tức nhiều hơn.

 Cũng giống hệt trong cấu trúc thuộc tôn giáo của hàng giáo sĩ và cả trong thứ bậc của những thần thánh. Cách mạng cố gắng phá sập điều này nhưng chẳng mấy chốc cùng khuôn mẫu được lặp lại với những người độc tài ngồi chót vót. Phô trương sự khiêm tốn trở thành một việc xấu xa trong phương cách sống này.

 Vâng lời là bạo lực, và khiêm tốn không liên quan với bạo lực. Tại sao một con người phải có sợ hãi, kính trọng, và bất kính này? Anh ấy sợ hãi sống cùng tất cả những rối loạn và những lo âu của nó, và anh ấy sợ hãi những thần thánh của cái trí riêng của anh ấy. Do bởi sợ hãi mới dẫn đến quyền hành và hung hăng.

 Mảnh trí năng nhận biết điều này nhưng không làm gì cho nó, và thế là nó dựng lên một xã hội, một nhà thờ, nơi sợ hãi này được nuôi dưỡng và duy trì, cùng nhiều tẩu thoát của nó. Sợ hãi không thể được khuất phục bởi sự suy nghĩ, bởi vì sự suy nghĩ đã nuôi dưỡng sợ hãi. Chỉ khi nào sự suy nghĩ yên lặng thì mới có cơ hội cho sợ hãi kết thúc. Chắc chắn, cái người ganh đua và có quyền hành không có tình yêu, mặc dù anh ấy có lẽ có một gia đình và con cái mà anh ấy quả quyết rằng anh ấy thương yêu.

 Nó thực sự là một thế giới của sự đau khổ vô cùng, và người ta phải là một người ngoài cuộc để thương yêu. Là một người ngoài cuộc là ở sống một mình, không ràng buộc. 

 

  Từ Bản tin 5, 1970

Vấn đề của sống

Malibu, California, ngày 3 tháng 3 năm 1970

 

N

hững hòn núi cô đơn quá. Đã có mưa suốt nhiều ngày và những hòn núi xanh lá cây lóng lánh. Hầu như chúng đã trở thành xanh sẫm, và trong no đủ chúng đang khiến cho bầu trời trở thành đẹp đẽ và rạng rỡ. Có sự yên lặng thăm thẳm, mà gần gần giống âm thanh của những con sóng vỗ bờ khi bạn giẵm trên bãi cát ướt sũng của bãi biển. Gần biển không có sự yên lặng ngoại trừ trong quả tim của bạn, nhưng lẫn trong những hòn núi, trên con đường uốn khúc, sự yên lặng hiện diện khắp mọi nơi. Sự ồn ào của thị trấn, tiếng gầm thét của xe cộ và tiếng ầm ầm của những con sóng không thể nghe được.

 

Người ta luôn luôn lúng túng về hành động, và mỗi lúc nó càng bối rối hơn khi người ta thấy sự phức tạp của sống. Có quá nhiều việc nên được làm và có những việc cần hành động tức khắc. Thế giới quanh chúng ta đang thay đổi mau lẹ – những giá trị của nó, luân lý của nó, những chiến tranh và hòa bình của nó. Người ta hoàn toàn không hiểu rõ sự tức khắc của hành động. Nhưng vẫn vậy người ta luôn luôn đang tự hỏi rằng, người ta nên làm gì khi bị đối diện với vấn đề to tát của sống. Người ta đã mất đi sự trung thành trong mọi thứ – trong những người lãnh đạo, trong những người thầy, trong những niềm tin – và người ta thường ao ước có được một nguyên tắc rõ ràng nào đó mà sẽ thắp sáng con đường, hay một uy quyền để chỉ bảo người ta phải làm gì. Nhưng trong những quả tim của chúng ta, chúng ta biết rằng đây sẽ là cái gì đó chết rồi và kết thúc. Luôn luôn chúng ta quay lại để tự hỏi chính mình tất cả việc đó là gì và chúng ta phải làm gì.

Như người ta có thể quan sát, chúng ta luôn luôn hành động từ một trung tâm – một trung tâm mà thu rút và lan rộng. Thỉnh thoảng nó là một vòng tròn rất nhỏ và tại những thời điểm khác nó lại bao quát, riêng biệt và hoàn toàn thỏa mãn. Nhưng luôn luôn nó là một trung tâm của phiền muộn và đau khổ, của những hân hoan thoáng chốc và những bất hạnh, những mê say hay quá khứ buồn bã. Nó là một trung tâm mà một cách có ý thức hay không ý thức, hầu hết chúng ta đều biết, và từ trung tâm này chúng ta hành động và có được gốc rễ của chúng ta. Vấn đề của phải làm gì, bây giờ hay ngày mai, luôn luôn được hỏi từ trung tâm và giải đáp phải luôn luôn có thể được công nhận bởi trung tâm. Khi đã nhận được sự giải đáp hoặc từ một người khác hoặc từ chính chúng ta, chúng ta tiến tới để hành động tùy theo sự giới hạn của trung tâm. Nó giống như một con thú bị cột vào một cái cột, hành động của nó phụ thuộc vào chiều dài của sợi dây cột. Hành động này không bao giờ được tự do và vì vậy luôn luôn có đau khổ, bất an và rối loạn.

 Vì nhận ra điều này, trung tâm tự nói với chính nó: làm thế nào tôi sẽ được tự do, được tự do để sống hạnh phúc, trọn vẹn, khoáng đạt, và hành động mà không có đau khổ hay hối tiếc? Nhưng nó vẫn còn là trung tâm đang đưa ra câu hỏi. Trung tâm là quá khứ. Trung tâm là ‘cái tôi’ cùng những hoạt động ích kỷ của nó mà biết hành động chỉ dựa vào phần thưởng và hình phạt, thành công hay thất bại, và những động cơ, những nguyên nhân và những hậu quả của nó. Nó bị trói buộc trong sợi dây xích này và sợi dây xích này là trung tâm đó và ngục tù đó.

 Có một hành động khác mà hiện diện khi có một không gian mà không có một trung tâm, một kích thước trong nó không có nguyên nhân và hậu quả. Từ cái này, đang sống là hành động. Ở đây, vì không có trung tâm, bất kỳ việc gì được làm là tự do, hân hoan, không đau khổ và không vui thú. Không gian và tự do này không là một kết quả của nỗ lực và thành tựu, nhưng khi trung tâm kết thúc, cái còn lại hiện diện.

 Nhưng chúng ta sẽ hỏi làm thế nào trung tâm này có thể kết thúc, tôi sẽ làm gì để kết thúc nó, tôi sẽ thực hiện những kỷ luật nào, những hy sinh nào, những nỗ lực to tát nào? Không, chỉ thấy mà không chọn lựa những hoạt động của trung tâm, không phải như một người quan sát, không phải như một người đứng ngoài đang nhìn vào phía bên trong, nhưng chỉ quan sát mà không có người kiểm duyệt. Vậy thì, bạn có lẽ nói tôi không thể thực hiện nó, tôi luôn luôn đang nhìn bằng đôi mắt của quá khứ. Vậy thì, hãy nhận biết nhìn bằng đôi mắt của quá khứ, và ở lại cùng nó. Đừng cố gắng làm bất kỳ việc gì về nó; hãy đơn giản và biết rằng bất kỳ việc gì bạn cố gắng làm sẽ chỉ củng cố trung tâm đó và là một phản hồi của sự ham muốn riêng để tẩu thoát của bạn.

 Thế là không tẩu thoát, không nỗ lực và không tuyệt vọng. Vậy thì, bạn có thể thấy ý nghĩa trọn vẹn của trung tâm đó và sự nguy hiểm vô cùng của nó, và từng đó đã đầy đủ rồi.

 

 Từ Bản tin 6, 1970

Cây sồi

 

S

áng hôm đó cây sồi rất yên lặng. Nó là một cái cây khổng lồ trong rừng; nó có một cái thân thật to và những cái cành của nó thật cứng cáp phía trên mặt đất, tỏa ra mọi phương hướng, yên lặng, vững vàng và bất động. Nó là bộ phận của quả đất giống như những cái cây khác chung quanh nó. Những cây khác sẽ la hét cùng gió, đùa giỡn cùng nó, và mỗi chiếc lá sẽ là bộ phận của gió. Những chiếc lá nhỏ nhắn của cây sồi cũng đùa giỡn cùng nó, nhưng có sự cao quý vô cùng và một chiều sâu của sự sống mà bạn cảm thấy khi bạn nhìn ngắm. Cây thường xuân đang bám vào nhiều cái cây, leo thẳng đứng lên ngọn của những cành cao nhất, nhưng cây sồi lại không có dây tầm gửi nào. Thậm chí những cây thông cũng có cây thường xuân dai dẳng ăn bám này, mà, nếu được cho phép, sẽ hủy diệt chúng. Và trong cánh rừng đó có bảy hay tám cây gỗ đỏ đồ sộ, cao vút mà chắc đã mọc lên cách đây nhiều thế kỷ. Chúng được vây quanh bởi những cây hoa sơn lựu, và trong mùa xuân cái rừng này là nơi thiêng liêng không những dành cho chim chóc và những con thỏ, con gà lôi và những động vật nhỏ khác, nhưng còn cả cho những con người ưa thích đến đó. Bạn có thể ngồi lặng lẽ hàng tiếng đồng hồ cùng những cây thủy tiên có hoa màu vàng nhạt và những cây hoa đỗ quyên đầy màu sắc và nhìn ngắm bầu trời xanh qua những chiếc lá. Nó là một nơi mê đắm và tất cả những cái cây to lớn này là những người bạn của bạn, nếu bạn muốn bạn bè.

 Nó là một nơi của vẻ đẹp lạ thường, yên lặng, biệt lập, và con người đã làm hư hỏng nó. Lạ lùng biết bao khi con người đã xúc phạm thiên nhiên bằng sự giết chóc của họ, bằng sự ồn ào và thô tục của họ. Nhưng ở đây, cùng những cây gỗ đỏ và những cây sồi và tất cả những bông hoa mùa xuân, nó là một nơi thiêng liêng cho cái trí yên lặng, cho một cái trí mà kiên định và vững vàng như những cái cây đó – không phải từ niềm tin nào đó, giáo điều nào đó hay trong mục đích hiến dâng nào đó; cái trí tự do không cần đến những thứ này. Đang nhìn ngắm những cái cây đó mà yên lặng lạ thường vào buổi chiều đó – bởi vì bạn không thể nghe tiếng xe cộ – con đường ở khá xa và những căn nhà gần bên yên lặng; có một yên lặng tuyệt đối. Thậm chí cơn gió nhe nhẹ đã ngừng thổi và không một chiếc lá lay động. Lá cỏ mùa xuân là một màu xanh thanh thoát; hầu như bạn không dám chạm vào nó. Quả đất, những cái cây và con chim trĩ mà nhìn ngắm bạn, không thể tách rời được. Nó là tất cả bộ phận của chuyển động lạ thường của sự sống và đang sống, chiều sâu của nó sự suy nghĩ không bao giờ có thể tiếp xúc được. Mảnh trí năng có lẽ quay cuồng vô vàn lý thuyết quanh nó, thiết lập một cấu trúc triết học quanh nó, nhưng sự diễn tả không là vật được diễn tả. Nếu bạn ngồi yên lặng, xa khỏi quá khứ, vậy thì có lẽ bạn sẽ cảm thấy cái này; không phải bạn như một con người tách rời đang cảm thấy nó, nhưng trái lại bởi vì cái trí yên lặng tuyệt đối đến độ có một nhận biết vô hạn mà không có sự phân chia bởi người quan sát.

 Và nếu bạn lang thang ra xa một chút xíu, có một trang trại với những con heo thật to – những núi thịt tươi đang sẵn sàng tung ra chợ. Họ nói đó là một ngành kinh doanh rất béo bở. Bạn sẽ thấy một chiếc xe tải ló dạng trên con đường nông trại gồ ghề khúc khủy và sẽ có vài con heo ngày hôm sau. ‘Nhưng chúng tôi phải sống’, họ nói, và vẻ đẹp của quả đất bị lãng quên.

 Từ Bản tin 8, 1970

 

Tự do là trật tự

 

N

ếu bạn là một người thành phố, có lẽ bạn sẽ không bao giờ trải nghiệm sự đe dọa lạ lùng của cánh rừng ít người qua lại. Nó là một khu bảo tồn hươu nai, khá gần thành phố xấu xí cùng sự tồi tàn, dơ bẩn, ồn ào của nó, và những đường phố, nhà cửa chật hẹp. Chẳng có bao nhiêu người đến khu rừng này. Người ta hiếm khi nào bắt gặp bất kỳ ai ngoại trừ một hay hai dân làng, và đây là những người rất yên lặng, không nhận biết sự quan trọng riêng của họ. Bị kiệt sức bởi lao động, thu vào cái vỏ, họ gầy còm và khá đói, và có đau khổ trong hai mắt của họ.

 Khu bảo tồn này được bao bọc bởi những cái cọc cao và dây kẽm gai, và hươu nai trong nó cũng nhút nhát như những con rắn. Chúng sẽ thấy bạn xuất hiện và nhẹ nhàng biến mất vào những bụi cây. Có những con hươu có đốm, đầy vẻ quyến rũ hiền lành, cùng sự tò mò vô bờ bến, nhưng sự sợ hãi con người của chúng còn mãnh liệt hơn sự tò mò của chúng. Một số khá to lớn. Tiếp theo có những con màu đen với những cái sừng cong cong đâm thẳng về phía trước. Thậm chí chúng còn nhút nhát hơn nhiều. Và bên ngoài hàng rào có những con khác khá thuần phục. Chúng sẽ cho phép bạn đến rất gần. Dĩ nhiên bạn không thể chạm vào chúng, nhưng chúng thực sự không sợ hãi. Chúng sẽ ngừng lại trong vài phút để quan sát bạn với hai tai của chúng vểnh ngược lên và cái đuôi cụt ngủn ve vẩy liên tục. Những con bên trong sẽ tập họp lại vào chiều tối trong một bãi cỏ nhỏ. Có lẽ bạn sẽ thấy một trăm con hay khoảng từng đó. Trong cái rừng này không thứ gì bị giết chết bởi con người, không con chim hay con rắn nào và dĩ nhiên, không con hươu nào bị giết.

 Người ta hiếm khi thấy những con rắn nhưng ở đó có nhiều lắm – vô số loại nguy hiểm và cũng cả những con vô hại. Một lần, khi chúng tôi đang đi trên ụ mối nhỏ được tạo ra bởi những con kiến, chúng tôi thấy một con rắn. Chúng tôi đi thẳng đến nó, khá gần, có lẽ cách vài feet. Nó là một con rắn dài, to, sáng rực trong ánh sáng buổi chiều, cái lưỡi đen bóng của nó thụt ra thụt vào. Vài người lao động đi ngang qua nói rằng nó là một con rắn hổ mang và chúng tôi nên tránh xa nó.

 Chiều tối đầu tiên khi chúng tôi ở trong khu bảo tồn này, sự đe dọa lạ lùng của cái rừng được cảm thấy rất mãnh liệt. Mặt trời đã lặn, và đã rất tối. Bạn cảm thấy sự đe dọa này đang bao vây bạn, và nó theo cùng bạn trên con đường bạn đang đi. Nhưng ngày thứ hai và thứ ba bạn hoàn toàn được nghênh đón ở đây.

 

Những người thông minh không cần kỷ luật; chỉ những người mất cân bằng mới cần phải kiềm chế, kháng cự, và bị cám dỗ. Những người thông minh nhận biết những ham muốn của họ, những thôi thúc của họ, và thậm chí sự cám dỗ không nảy ra trong họ. Những người lành mạnh rất mạnh mẽ mà không biết sự mạnh mẽ. Chỉ những người yếu ớt mới biết sự yếu ớt riêng của họ, và thế là sự lôi cuốn và sự đấu tranh chống lại sự cám dỗ. Thật ra không có sự cám dỗ nếu bạn cho phép hai mắt của bạn khoáng đạt – không chỉ mắt thuộc tinh thần nhưng còn cả mắt thuộc giác quan. Những người không chú ý bị trói buộc trong những vấn đề mà không chú ý của họ nuôi dưỡng. Nó không có nghĩa rằng những người thông minh và những người lành mạnh không có những ham muốn. Đối với họ nó không là một vấn đề. Vấn đề nảy sinh chỉ khi nào sự ham muốn bị biến thành vui thú bởi sự suy nghĩ.

 Do bởi chống lại sự tìm kiếm vui thú này nên con người mới dựng lên sự kháng cự, bởi vì anh ấy nhận biết rằng có đau khổ dính dáng với nó, hay nói khác đi, chính là môi trường sống, văn hóa, đã mang vào trong anh ấy sự sợ hãi của vui thú tiếp tục.

 Sự kháng cự trong bất kỳ hình thức nào là bạo lực và tất cả sống của chúng ta được đặt nền tảng trên sự kháng cự này. Sau đó sự kháng cự trở thành kỷ luật. Từ ngữ ‘kỷ luật’, giống như quá nhiều từ ngữ khác, đã bị lạm dụng, bị diễn giải tùy theo những gia đình, những cộng đồng, những văn hóa khác nhau. Kỷ luật có nghĩa học hành. Học hành không có nghĩa một thực tập, một bắt chước, tuân phục. Học hành về cách cư xử, cách hành động trong sự liên hệ, là sự tự do để quan sát về chính bạn, về tư cách của bạn.

 Nhưng đang thấy này về chính bạn như bạn là, không thể xảy ra nếu tự do bị phủ nhận. Vì vậy tự do là cần thiết để học hành về bất kỳ thứ gì, về con hươu đó, con rắn đó, và về chính bạn.

 Sự luyện tập thuộc quân đội và sự tuân phục vào vị giáo sĩ đều giống hệt nhau, và sự vâng lời là kháng cự lại tự do. Thật lạ lùng làm sao khi chúng ta đã không vượt trên và vượt khỏi cánh đồng chật hẹp của sự kiềm chế, kiểm soát, vâng lời, và uy quyền của quyển sách. Bởi vì trong tất cả điều này, cái trí không bao giờ có thể thăng hoa. Làm thế nào bất kỳ thứ gì có thể thăng hoa bên trong sự tối tăm của sợ hãi?

 Nhưng tuy nhiên, người ta phải có trật tự; nhưng sự trật tự của kỷ luật, sự trật tự của luyện tập, là cái chết của tình yêu. Người ta phải đúng giờ, ý tứ. Nhưng sự ý tứ này, nếu nó bị bắt buộc, trở thành hời hợt, một lễ phép thuộc nghi thức. Trật tự sẽ không tìm được trong vâng lời. Có trật tự tuyệt đối, như trong toán học, khi sự hỗn loạn của vâng lời được hiểu rõ. Không phải là trật tự trước tiên và sau đó tự do, nhưng tự do trật tự.

 Không ham muốn là vô trật tự, nhưng hiểu rõ ham muốn, cùng sự vui thú của nó, là trật tự.

 Chắc chắn, trong tất cả việc này, việc duy nhất mà tạo ra một trật tự nhạy cảm – không có ý muốn mà sắp xếp, tuân theo, khẳng định – là tình yêu. Và nếu không có tình yêu sự trật tự được thiết lập là sự hỗn loạn.

 Bạn không thể vun quén tình yêu, vì vậy bạn không thể vun quén trật tự. Bạn không thể nhắc nhở và học hành tình yêu bằng cách luyện tập nó. Sự hung hăng đến từ sự luyện tập này, và cả sự sợ hãi.

 Vì vậy, người ta sẽ làm gì? Bạn thấy tất cả điều này; bạn thấy sự tổn hại vô cùng mà con người đang gây ra cho con người. Bạn không thấy sự tích cực lạ thường khi phủ nhận; sự phủ nhận của cái giả dối là sự thật. Không phải rằng bạn thay thế sự phủ nhận bởi sự thật – nhưng chính hành động của sự phủ nhận là sự thật. Đang thấy là đang làm, và bạn không phải làm bất kỳ việc gì nữa.

 Từ Bản tin 10, 1974

Thông minh và hành động tức khắc

 

S

áng hôm đó còn rất sớm và thung lũng yên lặng vô cùng. Mặt trời vẫn chưa ló dạng đằng sau những quả đồi và những đỉnh núi tuyết vẫn còn tối thui. Suốt nhiều ngày mặt trời rất rõ ràng, chói chang và khá nóng. Nó sẽ không kéo dài lâu lắm, và tuy nhiên sáng nay bầu trời lại rất xanh, mặt trời bắt đầu chạm đỉnh núi tuyết, và ở phía tây có những đám mây đen kịt. Không khí trong lành. Tại độ cao đó những hòn núi dường như rất gần. Chúng đứng tách biệt, cô đơn, và đã có cảm thấy lạ thường của sự gần gũi và một ý thức của khoảng cách vô hạn. Khi bạn nhìn ngắm chúng, bạn nhận biết tuổi tác của quả đất và sự mỏng manh riêng của bạn. Bạn chết đi và chúng vẫn còn, những hòn núi, những quả đồi, những cánh đồng xanh rì và con sông. Chúng sẽ luôn luôn hiện diện ở đó, và bạn cùng những lo âu của bạn, những nghèo khó và đau khổ của bạn sẽ chết đi.

 Luôn luôn do bởi sự không vĩnh cửu này nên con người mới tìm kiếm cái gì đó vượt khỏi những quả đồi, trao cho nó sự vĩnh cửu, sự cao cả, vẻ đẹp, mà chính anh ấy không có. Nhưng việc này không xóa sạch những phiền muộn của anh ấy, lắng dịu sự đau khổ hay bất an của anh ấy. Ngược lại nó trao sức sống mới cho sự bạo lực và những độc ác của anh ấy. Thần thánh của anh ấy, những hoang tưởng của anh ấy, sự tôn sùng chính thể của anh ấy không kết thúc sự đau khổ của anh ấy.

 Con chim ác là trên cây thông trông thấy một con chuột nhỏ đang chạy qua đường, và trong tích tắc con chuột bị chộp lấy và mang đi. Chỉ có âm thanh xa xa của tiếng chuông đeo trên cổ con bò và của một con suối đang đổ xô vào thung lũng, nhưng từ từ buổi sáng yên lặng đã mất đi trong tiếng ồn ào của xe cộ và tiếng ầm ầm bên kia con đường nơi một cái nhà đang được xây dựng.

 Liệu có tánh cá thể? Hay chỉ là một tập thể của vô số hình thức khác nhau của tình trạng bị quy định? Rốt cuộc, cái gì tạm gọi là cá thể là thế giới, văn hóa, môi trường thuộc kinh tế và xã hội. Anh ấy là thế giới và thế giới là anh ấy; và tất cả sự bất an và đau khổ bắt đầu khi anh ấy tự tách khỏi thế giới và theo đuổi tài năng hay tham vọng, khuynh hướng và vui thú riêng của anh ấy. Dường như một cách sâu thẳm chúng ta không nhận ra rằng chúng ta là thế giới, không chỉ tại mức độ bên ngoài, nhưng còn cả tại tâm điểm của thân tâm chúng ta. Trong thực hiện một tài năng đặc biệt dường như chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang tự thể hiện như những cá thể và, đang kháng cự mọi hình thức của xâm phạm, quả quyết vào sự thực hiện nó. Không phải do bởi tài năng, vui thú hay ý muốn mà khiến cho chúng ta thành những cá thể. Ý muốn, dù người ta chẳng có tài năng bao nhiêu, và sự thôi thúc của ham muốn là bộ phận của toàn cấu trúc của thế giới này.

 Chúng ta không chỉ là những nô lệ của văn hóa mà chúng ta được nuôi nấng trong đó; chúng ta còn là những nô lệ cho đám mây dầy dặc của đau khổ và phiền muộn của tất cả nhân loại, cho sự mênh mông của rối loạn, bạo lực và tàn ác của nó. Dường như chúng ta không bao giờ chú ý đến sự đau khổ chồng chất của nhân loại. Chúng ta cũng không nhận biết sự bạo lực kinh hoàng mà đã và đang tập hợp từ thế hệ sang thế hệ. Chúng ta quan tâm đúng đắn đến sự thay đổi hay đổi mới phía bên ngoài của cấu trúc xã hội cùng sự bất công, sự nghèo khổ, những chiến tranh của nó, nhưng chúng ta lại cố gắng thay đổi nó qua bạo lực hay phương cách từ từ của sự lập pháp. Trong khoảng giữa có nghèo khổ, chiến tranh, đói khát và sự bất hòa mà tồn tại giữa con người và con người. Dường như chúng ta hoàn toàn không chú ý đến những đám mây chồng chất rộng lớn mà con người đã tập hợp suốt hàng thế kỷ trên hàng thế kỷ – sự đau khổ, sự thù hận và những khác biệt giả tạo của tôn giáo và chủng tộc. Những việc này hiện diện ở đó, như cấu trúc bên ngoài hiện diện ở đó, đầy thực tế, đầy sinh lực, đầy hiệu quả. Chúng ta lơ là những tích lũy giấu giếm và tập trung vào sự đổi mới phía bên ngoài. Có lẽ sự phân chia này là nguyên nhân cốt lõi nhất của sự thoái hóa của chúng ta.

 Điều gì quan trọng là suy nghĩ về sự sống không phải như một phía bên trong và phía bên ngoài, nhưng như một tổng thể, như một chuyển động kết dính tổng thể. Vậy thì, hành động có một ý nghĩa khác hẳn, bởi vì lúc đó nó không là từng phần. Chính là hành động tách rời hay từng phần mới chồng chất đám mây của sự đau khổ. Tốt lành không là sự đối nghịch của xấu xa. Tốt lành không liên quan với xấu xa. Nó nở hoa chỉ khi nào sự đau khổ kết thúc.

 Vậy thì, làm thế nào con người sẽ tự giải thoát khỏi sự hỗn loạn, sự bạo lực và sự đau khổ này? Chắc chắn không phải nhờ vào sự vận hành của ý muốn cùng tất cả những nhân tố và khẳng định, kháng cự và xung đột của nó. Sự nhận biết hay sự hiểu rõ của điều này là thông minh. Chính là thông minh này mới xua tan tất cả những kết hợp của đau khổ, bạo lực và xung đột. Nó giống như đang thấy một nguy hiểm. Vậy thì có hành động tức khắc – không phải hành động của ý muốn mà là sản phẩm của sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ không là thông minh. Thông minh có thể sử dụng sự suy nghĩ, nhưng khi sự suy nghĩ xoay sở để giam cầm thông minh này cho những sử dụng riêng của nó, vậy thì nó trở thành xảo quyệt, ranh mãnh, hủy hoại.

 Vì vậy, thông minh không là thông minh của bạn hay thông minh của tôi. Nó không phụ thuộc vào người chính trị, người giáo viên, hay đấng cứu rỗi. Thông minh này không thể đo lường được. Thật ra nó là một trạng thái của trống không. 

 Từ Bản tin 11, 1971

Con sông

Amsterdam, Hà lan, tháng 5 năm 1968

 

N

ơi này con sông đặc biệt rộng, sâu và sạch. Ở xa xa trên cao là thành phố rất cổ, có lẽ một trong những thành phố cổ nhất trong thế giới. Nhưng nó ở cách xa khoảng chừng một dặm, và mọi bẩn thỉu của thành phố dường như đã được tẩy rửa bởi con sông, và ở đây nước rất sạch, đặc biệt giữa dòng sông. Phía bờ này của con sông có nhiều tòa nhà, không đẹp lắm, nhưng bên bờ kia là lúa mì mùa đông mới gieo, bởi vì nước sông dâng cao hai mươi hay ba mươi feet trong suốt mùa mưa và đất đai cả hai bờ được đắp bồi phù sa – và xa xa khỏi hai bờ là làng mạc, cây cối và những cánh đồng lúa mì và một loại hạt lương thực khác.

 Nó là một vùng quê đẹp, thoáng đãng, bằng phẳng và trải dài đến tận chân trời. Đặc biệt cây cối rất già nua – cây me, cây xoài – và vào chiều tối, ngay khi mặt trời đang lặn, sẽ ập xuống đất đai một ý thức của an bình lạ thường – một ân lành mà bạn sẽ không bao giờ tìm thấy trong bất kỳ nhà thờ hay đền chùa nào.

 Trên bờ này của con sông có bốn vị khất sĩ, thầy tu, mỗi vị đang bán vật dụng riêng của anh ấy – những thượng đế. Họ đang kêu gào và một đám đông tụ họp quanh mỗi người. Nhưng cái người kêu gào to nhất, lặp lại những từ ngữ tiếng Phạn và được bao bọc bởi những chuỗi hạt và những vật biểu hiệu cấp bậc khác của nghề nghiệp anh ấy, thu hút nhiều người nhất, và đến lúc này bạn thấy ba thầy tu khác len lẻn đi khỏi, còn lại duy nhất vị thầy tu này cùng những thượng đế, những câu kinh kệ và những xâu chuỗi.

 Sự tưởng tượng và sự lãng mạn khước từ tình yêu, bởi vì tình yêu là sự vĩnh hằng riêng của nó. Con người đã tìm kiếm qua vô vàn những thượng đế, những học thuyết và những hy vọng, cái gì đó mà không bị trói buộc bởi thời gian. Sự sinh ra của một em bé không là sự thể hiện của cái gì đó mới mẻ. Sự sống đến và đi. Có chết, có đau khổ và tất cả những ranh mãnh mà con người có thể sáng chế, và chuyển động của thay đổi này, chết đi và sinh ra vẫn còn ở bên trong chu kỳ của thời gian.

 Thời gian là sự suy nghĩ; và sự suy nghĩ là kết quả của quá khứ. Cái mà có sự tiếp tục – nguyên nhân mà sản sinh hậu quả và luân phiên hậu quả mà trở thành nguyên nhân – là bộ phận của chuyển động thời gian này. Trong cái bẫy của chuyển động thời gian này con người đã bị trói buộc và anh ấy tận dụng mọi công cụ của lãng mạn và tưởng tượng để sáng chế một giả tạo của điều gì anh ấy gọi là vĩnh cửu. Và từ việc này nảy sinh sự ham muốn, cùng vui thú của nó, cho cái bất diệt, một tình trạng không chết mà anh ấy hy vọng trải nghiệm qua những hình ảnh của cái trí.

 Những tôn giáo đã cống hiến một giả mạo của sự thật. Vấn đề khẩn cấp nhất là nhận biết tất cả điều này và sự ranh mãnh hiện diện qua cái giả mạo. Có một trạng thái không là sự tưởng tượng và sự ưa thích thuộc lãng mạn, không thuộc thời gian cũng như không là sản phẩm của sự suy nghĩ và sự trải nghiệm. Nhưng muốn bắt gặp nó, tất cả những kho báu giả mạo mà chúng ta đã ấp ủ phải được quẳng đi – chôn vùi thật sâu đến độ một người khác không thể tìm được nó. Bởi vì những người khác nghĩ rằng anh ấy phải trải qua những sự việc đó mà bạn đã quẳng đi, và đó là lý do tại sao điều gì bạn quẳng đi phải không bao giờ được phát hiện bởi những người khác. Bởi vì từ việc này nảy sinh sự bắt chước, và những kho báu giả mạo được sáng chế. Muốn phủ nhận chúng không cần nỗ lực, không ý muốn mãnh liệt cũng như không sự quyến rũ của cái gì đó to tát hơn; bạn quẳng đi rất nhẹ nhàng bởi vì bạn thấy sự giả mạo của chúng, sự nguy hiểm của chúng và giá trị phiền toái cũng như sự thô thiển vốn có sẵn của chúng.

 Cái trí không thể sáng chế cái được gọi là vĩnh cửu – giống như nó không thể vun quén tình yêu. Vĩnh cửu cũng không thể được khám phá bởi một cái trí đang tìm kiếm nó. Và cái trí không đang tìm kiếm vĩnh cửu là một cái trí lãng phí. Cái trí là một dòng chảy, rất sâu tại trung tâm và rất nông tại ngoại vi – giống như một con sông mà có dòng chảy mạnh mẽ ở giữa và những luồng nước lặng lẽ tại hai bờ của nó.

 Nhưng dòng chảy sâu có khối lượng của ký ức đằng sau nó, và ký ức này là sự tiếp tục mà trôi qua thị trấn, mà bị ô uế, mà được tẩy sạch lại. Khối lượng của ký ức cho sức mạnh, thôi thúc, hùng hổ và chọn lọc. Chính là ký ức sâu thẳm này mà tự biết nó là tro bụi của quá khứ, và chính là ký ức này mà phải kết thúc.

 Không có phương pháp để kết thúc nó, không kho báu nào sẽ mua được trạng thái mới mẻ. Đang thấy của tất cả điều này là sự kết thúc của nó. Chỉ khi nào khối lượng khổng lồ này kết thúc thì mới có thể có được một khởi đầu mới mẻ. Từ ngữ không là sự thật; sự đo lường của từ ngữ phủ nhận cái thực sự. 

 Từ Bản tin 12, 1971-2

 

Sự liên hệ là gì?

 

L

oan báo tại phi trường đã nói rằng chuyến bay vẫn chưa rời Milan do bởi sương mù và yêu cầu tất cả chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi một tiếng đồng hồ hay hơn nữa; và chúng tôi chờ đợi. Tất cả chúng tôi đang đi đến Rome và có 0một đám đông lớn trong phòng chờ, những người rất thông minh bảnh bao, những người để tóc dài và những người để tóc ngắn; một cậu trai ôm một cô gái, hoàn toàn không chú ý đến tất cả những người khác, và một cau trai khác với cây đàn ghi ta bắt đầu gõ bập bùng trên nó. Một số người hút thuốc và rất đông người đang uống rượu. Trong phòng nóng lắm và có một mùi gắt của nước hoa rẻ tiền.

 Sự liên hệ là gì? Sự liên hệ là gì giữa cậu trai và cô gái, hay người phụ nữ thông minh đó với người chồng của cô ấy, người phụ nữ đứng tuổi đó với cậu trai mà đang được đưa lên máy bay để đi xem những thành phố cổ xưa của Ý? Làm thế nào có thể có sự liên hệ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, hay bất kỳ người nào, nếu người ta tham vọng, tự mê mải trong tham vọng đó, hoàn toàn tự cho mình là trung tâm? Bạn có thể thấy sự cằn cỗi trên những khuôn mặt của những người mà toàn hoạt động của họ loanh quanh trong ‘cái tôi’ và ‘cái bạn’. Có lẽ có một tiếp xúc thuộc thân thể, và có thể tất cả sự liên hệ, những liên hệ hời hợt hay những liên hệ tạm gọi là sâu đậm, đều ở tại mức độ đó. Làm thế nào bạn có thể có liên quan với một người khác nếu bạn ngờ vực, nếu bạn nghĩ rằng bạn luôn luôn đúng đắn và không bao giờ thú nhận sự cảm thấy của sai lầm? Người đàn ông đó cùng sự kiêu hãnh cổ xưa của chủng tộc hay sự quan trọng tưởng tượng, sự liên hệ của anh ấy có thể là gì ngoại trừ thuộc vật chất và bên ngoài? Làm thế nào hai người loạn thần kinh, đang sống trong cùng căn nhà, đang gọi lẫn nhau là chồng hay vợ, có bất kỳ loại liên hệ nào? Có những vợ chồng dường như cùng nhau hạnh phúc sâu đậm thêm khi trải qua lo lắng, phiền muộn và đau khổ, với nhiều tiếc nuối và thất bại – bạn sẽ nói rằng họ hạnh phúc trong sự liên hệ của họ, cả vật chất và tinh thần, nhưng làm thế nào người ta có thể có bất kỳ sự liên hệ gì với người còn lại nếu ‘cái tôi’ là quan trọng nhất, nếu một người hung hăng, ghen tuông, và người còn lại phải chịu đựng? Chắc chắn, sự liên hệ đúng đắn không thể tồn tại trong bất kỳ những việc này.

 Có những người hoàn toàn say đắm lẫn nhau, cùng nhau làm mọi việc mà chẳng có bao nhiêu quan tâm phía bên ngoài, hài lòng khi sống trong cùng căn phòng, không ra ngoài vào những buổi tối. Sự liên hệ như thế có lẽ rất lạ lùng, nhưng sống không hẳn là sự liên hệ tốt đẹp như thế. Sống còn là cái gì đó nhiều hơn nữa, còn bao la vượt khỏi sự chuyển động tự-thỏa mãn của sự liên hệ hạnh phúc. Thực sự có sự liên hệ cùng một người khác chỉ khi nào sự tham vọng, ngờ vực, ganh đua, ý thức của chiếm hữu, cùng tất cả những cay đắng, tức giận, thất vọng của nó hoàn toàn không còn tồn tại.

 Sự liên hệ như thế hiếm hoi lắm, nhưng nếu không có sự hiếm hoi đó sống bị trói buộc trong những tầm thường. Sống gồm cả chết, tình yêu và sự hiểu rõ của vui thú, và cái gì đó vượt khỏi tất cả việc này. ‘Sự thật’ của người phân tích hay thần thoại hoang đường mà những người tôn giáo mê đắm trong nó, chắc chắn không liên quan gì đến sự thật. Nếu không bắt gặp sự thật đó, dù sự liên hệ có lẽ tốt đẹp ra sao, nó vẫn còn là hời hợt, ngẫu nhiên, hay nhượng bộ và kháng cự. Nếu không có ý thức của vẻ đẹp của sự thật đó, chắc chắn sự liên hệ trở thành một qui trình chật hẹp.

 Nhưng những người đó trong phòng chờ, chán nản, bực dọc bởi sự trì hoãn, sẽ không mong muốn bất kỳ loại liên hệ nào khác hơn loại họ có.

 Một người viết văn nổi tiếng tham gia vào câu chuyện cùng chúng tôi, và câu chuyện trở nên sâu sắc hơn những vấn đề bình thường, chúng tôi bắt đầu nói về những sự việc nghiêm túc, về sự đau khổ của con người, học thuyết hoang đường không thể tin được của giáo hội và sự trục lợi của con người suốt quá nhiều thế kỷ bởi một ý tưởng mà anh ấy gọi là Sự thật, hay Thượng đế và về vô số phân chia chính trị khác nhau mà người viết văn, là một người Cộng sản, khẳng định chủ nghĩa đó là sự giải đáp duy nhất. Liệu đau khổ có thể, chúng ta hỏi, liệu sự xung đột của ghen tuông trong tình yêu, sự sở hữu và sự đòi hỏi quyền hành và địa vị có thể được giải đáp bởi một châm ngôn thuộc chính trị? ‘Ồ!’ anh ấy nói, ‘Tôi không đau khổ – họ đau khổ; đây là tình yêu, xung đột này, ghen tuông này, hận thù và sợ hãi – nếu không có những thứ này, tình yêu không hiện diện.’

 Ngay lúc đó giọng nói từ cái loa yêu cầu chúng tôi lên phi cơ. Chẳng mấy chốc chúng tôi lên đến độ cao 30.000 feet, và phía dưới chúng tôi là Mont Blanc và, tiếp theo, Genoa, Florence và những cái vịnh uốn khúc Mediterranian. Đó là một ngày đẹp, trong xanh, lấp lánh và đầy ánh sáng.

 

 Từ Bản tin 13, 1972

Cái trí tầm thường

Malibu, California, tháng 12 năm 1971

 

Đ

ã mưa suốt nhiều ngày, mưa liên tục như trút nước, và những cơn gió mạnh đang thổi đến từ hướng đông bắc. Nhưng sáng nay quang đãng quá – bầu trời xanh sáng, mặt trời ấm áp, và biển có màu xanh da trời.

 Ngồi trong xe hơi, trong một khu mua sắm, người ta nhìn ngắm tất cả những cửa hàng chứa đầy những món hàng và mọi người đang xô đẩy ra vào những cửa hàng, mua tất cả mọi loại hàng hóa. Ở thế giới phương Tây nó là một kỳ nghỉ lớn, và sự ồn ào, sự nhộn nhịp, sự huyên thuyên không ngớt của con người dường như ngập tràn không gian, và trong những cửa hàng mọi người dường như quá đói khát, quá thèm thuồng để kiếm được mọi hàng hóa.

 Nhìn ngắm tất cả việc này – bầu trời xanh kỳ diệu, biển lặng lẽ và tất cả những người này cùng sự tham lam và những lo âu của họ, người ta không hiểu tất cả sẽ kết thúc ở đâu. Và người ta thắc mắc tại sao thế giới lại trở thành cách sống này, quá trưởng giả, nếu người ta có thể sử dụng từ ngữ đó. Tôi không hiểu bạn giải thích từ ngữ đó như thế nào – nó có ý nghĩa gì đối với bạn. Hoặc bạn có thể cho nó một ý nghĩa rất hời hợt và gạt nó đi, hoặc tìm hiểu những hàm ý của từ ngữ đó là gì. Tại sao cái trí nhỏ nhen, chật hẹp, giới hạn này lại lạm quyền và dường như chế ngự tất cả những cái trí còn lại cùng những cảm thấy và những hoạt động trong thế giới? Một người trưởng giả là gì? Người ta sử dụng từ ngữ đó khá do dự bởi vì nó có quá nhiều ngụ ý thuộc chính trị, và nó bị sử dụng một cách khinh miệt bởi quá nhiều người. Và trong sự khinh miệt này, có một cảm thấy rằng họ là bộ phận của nó. Vì vậy sẽ khá lý thú để tìm ra, một người trưởng0 giả có nghĩa gì. Chắc chắn đó là một người mà đối với họ tài sản, tiền bạc và tư lợi là thống trị, mặc dù anh ấy có lẽ không có tài sản riêng, hay có tiền bạc, hay mê đắm cả hai. Có nhiều người như thế trong thế giới này. Trong lãnh vực tôn giáo và thế giới của những nghệ sĩ và những người trí thức, tư lợi cũng kiên trì tồn tại. Vì vậy, có lẽ một cái trí trưởng giả là nhân tố của tư lợi này. Lại nữa, định nghĩa từ ngữ tư lợi đó khó khăn lắm. Nó có nhiều ý nghĩa tinh tế – có quá nhiều cách giải thích nó. Nhưng nếu người ta có thể quan sát nó, thâm nhập vào nó sâu thêm một chút xíu nữa, dù nó có lẽ rộng rãi bao nhiêu, dù nó có lẽ lan tràn trong nhiều lãnh vực như thế nào, đều có một chất lượng chật hẹp, một hoạt động nông cạn, một hành động kiềm hãm, giới hạn. Người tôn giáo, vị thầy tu, vị khất sĩ, có lẽ đã từ bỏ những thứ trần tục – tài sản, tiền bạc, địa vị và có lẽ thậm chí cả thanh danh – nhưng sự tư lợi của anh ấy chỉ được chuyển sang một mức độ cao hơn. Anh ấy đồng hóa chính mình cùng một đấng cứu rỗi, cùng vị đạo sư của anh ấy, cùng niềm tin của anh ấy. Và chính sự đồng hóa này, nỗ lực để đầu tư tất cả những suy nghĩ và những cảm thấy của anh ấy trong một hình bóng, trong một hình ảnh, trong sự hy vọng hoang đường nào đó, cấu thành sự tư lợi. Vì vậy, nơi nào có sự tư lợi, người ta sẽ nghĩ có chính gốc rễ của chủ nghĩa dân tộc kinh hoàng này, sự phân chia này của những con người, của những chủng tộc, của những quốc gia. Tư lợi như thế tạo ra sự nông cạn của cái trí, đến độ nó mất đi tánh linh động và hành động nhận biết mau lẹ. Người kỹ thuật có một thích ứng mau lẹ trong lãnh vực kỹ thuật; anh ấy có lẽ thay đổi từ kỹ thuật này sang kỹ thuật khác, từ một kinh doanh này sang một kinh doanh khác, hay thậm chí từ một niềm tin này sang một niềm tin khác, hay một quốc tịch này sang một quốc tịch khác, nhưng sự thích ứng và linh động này của cái trí không trao tặng tự do. Làm thế nào một người đã đầu tư trong một niềm tin hay học thuyết đặc biệt có thể có một cái trí và một quả tim linh động vô hạn, giống như một lá cỏ mà nhượng bộ nhưng vẫn còn tồn tại không bị giẫm nát? Vì vậy, người trưởng giả là người mà quyến luyến tài sản, tiền bạc và tư lợi. Bạn có lẽ hỏi người vợ của bạn hay người bạn của bạn liệu có tư lợi trong sự liên hệ của bạn. Nếu bạn muốn cô ấy hay anh ấy tuân phục hình ảnh mà bạn có về họ, đó là tư lợi. Nhưng không có hình ảnh và vẫn vạch rõ những sự kiện thuộc tâm lý, vật chất là không tư lợi.

 Suy nghĩ tất cả việc này – bầu trời xanh, sự mênh mông của nó, và thấy nơi biển cả gặp gỡ bầu trời tại chân trời trong đường thẳng kỳ diệu đó, và thấy tất cả việc mua sắm say sưa cho kỳ nghỉ mà trong đó bạn giết chết cây cối và chim chóc và những con thú, và tất cả những con người này, đang hút thuốc, đang nhậu nhẹt, đang ve vãn, đang ngồi trong những chiếc xe hơi nhỏ hay đắt tiền – hãy tự hỏi bạn, liệu bạn là một người trưởng giả? Bạn có lẽ là một người nghệ sĩ, một người chính trị, một người kinh doanh, hay bất kỳ người nào luẩn quẩn trong công việc hèn mọn của anh ấy, hay người phụ nữ trong nhà bếp hay trong văn phòng – dù bạn làm bất kỳ công việc nào, nếu có bất kỳ tư lợi nào trong sự liên hệ của bạn với một người khác, trong địa vị bạn đang có, hay trong niềm tin hoặc học thuyết nào – vậy thì, chắc chắn, bạn có một cái trí nhỏ nhen, tầm thường, nông cạn. Bạn có lẽ đang làm công việc tốt lành, bạn có lẽ rộng lượng trong sự giúp đỡ những người khác hay lập gia đình tạm gọi là có hạnh phúc; bạn có lẽ nói về tình yêu, bạn có lẽ thương yêu người vợ của bạn, con cái của bạn hay bạn bè của bạn, nhưng nếu có bất kỳ sự tư lợi hủy hoại này, có dấu hiệu của sự tầm thường mà trao sự quan trọng vô cùng vào tài sản, địa vị, quyền hành và tiền bạc. Cái trí nhỏ nhen tầm thường này không thể vượt khỏi bức tường, những rào cản mà con người đã thiết lập quanh chính anh ấy.

 Và vì vậy, đang ngồi trong chiếc xe hơi đó, đang chờ đợi người nào đó, mặt trời ấm áp trên khuôn mặt của bạn và trên khuôn mặt của những người đi ngang qua, bạn nhìn ngắm tất cả những người đó và tự hỏi điều gì đã xảy ra cho nhân loại. Những người trẻ rơi vào một khe rãnh cũng sâu thẳm như những người già. Thời trang thay đổi, và thế là những khe rãnh cũng thay đổi. Nhưng khi bị trói buộc trong bất kỳ truyền thống nào, trong bất kỳ quy định nào, không trao tặng con người chất lượng lạ thường này của sự linh động. Lại nữa, từ ngữ đó cần được giải thích. Cái trí, hay ý thức, có thể lan rộng bằng sự hiểu biết, bằng sự trải nghiệm, bằng sự đau khổ, hay bằng sự hân hoan vô cùng. Vui thú không giúp đỡ sự linh động của cái trí – hân hoan có giúp đỡ. Những sự theo đuổi của hân hoan, hay sự theo đuổi của thưởng thức, mà trở thành vui thú, ngăn cản tất cả mọi loại tự do, nhạy bén, linh động. Như chúng ta đã nói, cái trí có thể chuyển động từ kỹ thuật sang kỹ thuật, từ công việc sang công việc, từ hành động sang hành động, từ niềm tin sang một học thuyết mới, nhưng thật ra điều này không là sự linh động. Chừng nào cái trí còn bị trói buộc hay bị cột chặt vào bất kỳ cái cột nào, bất kỳ trải nghiệm nào, bất kỳ hiểu biết nào, nó không thể thâm nhập sâu thẳm. Và bởi vì nội dung của ý thức tạo thành ý thức. Chính nội dung đó ngăn cản sự tự do, sự nhạy bén, ý thức tuyệt vời của chuyển động. Nội dung của ý thức trở thành sự tư lợi. Nội dung có lẽ là điều mà bạn trao sự quan trọng đến một món đồ đạc, hay đến kỹ thuật nào đó, hay đến niềm tin hay trải nghiệm nào đó: trải nghiệm đó, hiểu biết đó, biến cố đó trở thành trung tâm của sự tư lợi. Làm trống không ý thức khỏi tất cả nội dung của nó là có chuyển động tổng thể trong nhận biết và hành động. 

 

 Từ Bản tin 14, 1972

Cô đơn

 

T

hiền định là hành động của cô đơn. Hành động đó hoàn toàn khác hẳn những hoạt động của cô lập. Chính bản chất của ‘cái tôi’, cái ngã, cái vị kỷ, là tự cô lập chính nó, qua sự tập trung, qua vô vàn hình thức hay phương pháp của thiền định, và qua những hoạt động hàng ngày của sự tách rời. Nhưng cô đơn không là một rút lui khỏi thế giới. Thế giới của con người là sống thành tập thể; nó là sự tương tác của ảnh hưởng, của quan điểm, và trọng tải của truyền thống. Nó là sự giải trí của sự suy nghĩ và hoạt động của tự say đắm. Chắc chắn, điều này dẫn đến sự cô độc và sự đau khổ tự tách rời.

 Cô đơn chỉ có thể được khi cái trí ở bên ngoài sự ảnh hưởng của xã hội; khi bên trong có tự do khỏi vô trật tự của xã hội. Tự do này là đạo đức, và đạo đức luôn luôn cô đơn; luân lý của xã hội là sự tiếp tục của vô trật tự. Thiền định là vượt khỏi vô trật tự này và không là vui thú riêng của những tầm nhìn và lan rộng những trải nghiệm. Những trải nghiệm này luôn luôn gây tách rời.

 Tình yêu không là tách rời, và bởi vì tình yêu không thể được vun quén nên cô đơn không là một việc của sự suy nghĩ. Nó đến cũng tự nhiên như mặt trời mọc khi có tự do khỏi những hoạt động của sự suy nghĩ.

 Mặt trời hoàng hôn trên cỏ mới mọc và có sự lộng lẫy trên mỗi lá cỏ. Nhưng chiếc lá mùa xuân ngay trên đầu, quá mịn màng đến độ bạn có thể sờ chúng mà không cảm thấy chúng, quá mong manh đến độ một em bé chạy ngang qua có thể xé rách chúng. Và bầu trời xanh lơ lửng trên cây cối và những con sáo đen đang hót. Nước của con kênh yên lặng đến độ bạn không thể phân biệt chính xác những phản ảnh với những thực sự. Có một cái ổ vịt với một nửa tá trứng hay nhiều hơn trong nó, mà vịt mẹ đã rất cẩn thận che kín nó bởi những chiếc lá khô. Khi bạn quay lại bạn thấy nó đang ấp chúng, giả vờ không hiện diện ở đó. Và khi bạn dạo bộ xa hơn nữa dọc theo con kênh đó, giữa những cây sồi cùng những chiếc lá non tuyệt vời đó, có một con vịt khác cùng mười hai con con hay nhiều hơn luẩn quẩn quanh con mẹ, có thể chúng vừa nở ngay sáng hôm đó. Một số chúng sẽ bị ăn suốt đêm bởi những con chuột, và ngày hôm sau khi bạn quay lại đã có vài con không còn nữa. Con vịt mẹ trên ổ của nó vẫn còn đó. Chiều tối hôm đó đẹp lắm, đầy sự vinh quang lạ thường mà là quả tim của mùa xuân. Bạn đứng đó không một suy nghĩ, đang cảm thấy mỗi cái cây và mỗi lá cỏ, và đang nghe chiếc xe buýt đó, chứa đầy người, đang chạy ngang qua.

 Rốt cuộc, thậm chí nó đang trở nên khó khăn lắm khi được một mình phần thân thể. Hầu hết mọi người đều không muốn một mình; họ sợ hãi một mình; họ bận rộn, và họ muốn được bận rộn, từ khoảnh khắc họ thức dậy đến khoảnh khắc họ đi ngủ, và thậm chí sau đó họ còn bị ám ảnh bởi những giấc mộng. Và những người sống một mình, trong những hang động hay như những thầy tu trong những xà lim của họ, không bao giờ một mình, bởi vì họ sống cùng những hình ảnh của họ, những suy nghĩ của họ, và những luyện tập mà hứa hẹn cho họ sự thành tựu ở tương lai. Họ không bao giờ một mình, họ chất đầy sự hiểu biết và chất đầy sự tối tăm của hang động hay cái xà lim.

 Người ta phải thực sự là một người đứng ngoài, không phụ thuộc bất kỳ thứ gì hay bất kỳ người nào. Nhưng bạn không thể đấu tranh để tìm cách vượt khỏi, bởi vì lúc đó bạn vẫn còn phụ thuộc nó. Chính hành động của đấu tranh để tìm cách vượt khỏi là hành động khiến cho xã hội trì trệ. Và thế là cũng không có cả phía bên ngoài lẫn phía bên trong. Ngay khi bạn nhận biết rằng bạn ở phía bên ngoài, bạn ở trong. Vì vậy bạn phải chết đi xã hội, để cho sống mới mẻ hiện diện mà bạn không biết. Cái mới mẻ không là một trải nghiệm; biết cái mới mẻ cái cũ kỹ. Và thế là dạo bộ trong cô đơn, mặc dù bạn sống trong xã hội.

 

 Từ Bản tin 21, 1974

 

Cái bình nước không bao giờ có thể

 được đổ đầy

 

T

hiền định giống như đi đến một cái giếng, nước của nó không thể cạn, bằng một cái bình luôn luôn trống không. Cái bình không bao giờ có thể được đổ đầy. Điều gì quan trọng là uống nước và không phải làm thế nào cái bình được đổ đầy. Cái bình phải bị đập vỡ để uống nước. Cái bình là trung tâm mà luôn luôn đang tìm kiếm – và vì vậy nó không bao giờ có thể tìm được.

 Tìm kiếm là phủ nhận sự thật ngay trước mặt của bạn. Hai mắt của bạn phải thấy cái gần gũi nhất; và thấy cái đó là một chuyển động không có một kết thúc. Anh ấy người mà tìm kiếm, chiếu rọi cái anh ấy tìm kiếm và thế là anh ấy sống trong một ảo tưởng, luôn luôn đang nỗ lực bên trong những giới hạn của cái bóng riêng của anh ấy. Không tìm kiếm là tìm được; và tìm được không ở trong tương lai – nó hiện diện ở đó, nơi bạn không nhìn. Đang nhìn luôn luôn trong hiện tại, từ đó tất cả sự sống và hành động xảy ra. Thiền định là ân lành của hành động này.

 Tìm kiếm là một thôi thúc cá nhân từ trung tâm – để kiếm được, để phụ thuộc, để giam cầm. Trong thâm nhập có tự do từ ngay khởi đầu; đang nhìn ngắm là tự do khỏi trọng tải của ngày hôm qua.

 Từ Bản tin 22, 1974

 

Bản chất của sự khiêm tốn

 

B

ản thể của sự khổ hạnh là sự khiêm tốn. Biết sự khiêm tốn là phủ nhận sự khiêm tốn. Bạn chỉ có thể biết sự kiêu căng. Bạn có thể nhận biết sự kiêu căng nhưng bạn không thể nhận biết sự khiêm tốn. Khổ hạnh, sự khổ hạnh đó của vị thầy tu hay của vị thánh, là chuyển động tàn nhẫn của đang trở thành, mà là ảo tưởng. Sự tàn nhẫn này thuộc về bạo lực, bắt chước, vâng lời, trong nó không có ‘không-gì cả’. Vị thầy tu và vị thánh có lẽ có một cái tên khác biệt nhưng cái tên này là chiếc áo che đậy những vết thương của xung đột. Và điều này cũng giống hệt cho mỗi người chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều là những người lý tưởng. Chúng ta biết sự kiêu ngạo, và không thể biết sự khiêm tốn. Khiêm tốn của chúng ta là sự đối nghịch của kiêu ngạo, và tất cả những đối nghịch chứa đựng lẫn nhau. ‘Đang trở thành’, dù kín đáo đến chừng nào, dù không-gì cả đến chừng nào, không bao giờ có thể thuộc bản chất của sự khiêm tốn. Sự khiêm tốn không có đối nghịch, và chỉ những cái có những đối nghịch có thể biết lẫn nhau.

 Phủ nhận sự kiêu ngạo không là biết sự khiêm tốn. Chết đi cái đã được biết là sự tích cực của cái không biết được. Bạn có thể chết đi cái đã được biết một cách có ý thức, cố ý, cùng sự hiểu biết đầy đủ của tất cả những hàm ý của nó, nhưng không có biết của cái không biết được. Bạn không thể biết cái không biết được, như sự khiêm tốn. Trong cánh đồng của trở thành, chuyển động là từ cái đã được biết sang cái đã được biết; khi chúng ta chết đi chuyển động này, cái gì khác hiện diện không thể được hiểu rõ bởi cái trí mà vẫn còn phụ thuộc những giới hạn của cái đã được biết, ký ức, trải nghiệm, hiểu biết. ‘Đang là’ không là sự kết thúc của ‘đang trở thành’. Khi nó được công nhận như ‘đang là’ nó vẫn còn là bộ phận của ‘đang trở thành’, trong đó nỗ lực, đấu tranh, rối loạn và đau khổ được bao hàm…

 Thiền định không là một ranh mãnh của cái trí khi đang đối diện một vấn đề không thể giải quyết được, và thế là tự bắt buộc nó phải yên lặng. Chắc chắn một cái trí hoảng hốt đã trở thành vô cảm, không thể đáp lại nhanh nhạy, và vì vậy không thể thấy bất kỳ cái gì mới mẻ. Và cái mới mẻ không là sự đối nghịch của cái cũ kỹ.

 Thiền định là lật tung toàn qui trình của đang trở thành và đang là này – sự phủ nhận của đang trở thành với mục đích để là. Tất cả điều này có thể được thấy bởi một cái trí thiền định tại một lóe sáng, và lóe sáng này không dính dáng thời gian. Thấy sự thật không là một vấn đề của thời gian; hoặc bạn thấy hoặc bạn không thấy. Không thể thấy không thể trở thành có thể thấy.

 Vì vậy, sự phủ nhận là chuyển động của thiền định, và không có phương cách, không con đường, không hệ thống có thể dẫn dắt một cái trí huyên thuyên, nông cạn đến tột đỉnh của hạnh phúc. Tức khắc thấy điều này là sự thật mà làm tự do cái trí nông cạn khỏi chính nó.

 Và sự khiêm tốn luôn luôn tại ngay khởi đầu – nhưng không khởi đầu và không kết thúc. Và đây là hạnh phúc không thể đo lường được. 

 Từ Bản tin 24, 1974-75

 

Thiền định và Tình yêu

 

T

oàn mấu chốt của thiền định không là theo sau con đường được trải sẵn bởi sự suy nghĩ đến cái gì nó nghĩ là sự thật, khai sáng hay thực sự. Không có con đường dẫn đến sự thật. Theo sau bất kỳ con đường nào dẫn đến cái gì sự suy nghĩ đã sắp đặt sẵn và, dù dễ chịu hay thỏa mãn đến chừng nào, nó không là sự thật. Chính là một ảo tưởng khi nghĩ rằng một hệ thống của thiền định, sự luyện tập bền bỉ của hệ thống đó trong sống hàng ngày cho một vài phút được quy định sẵn, hay sự lặp lại nó suốt ngày, sẽ tạo ra sự rõ ràng hay sự hiểu rõ. Thiền định vượt khỏi tất cả điều này và, giống như tình yêu, nó không thể được vun quén bởi sự suy nghĩ. Chừng nào người suy nghĩ còn hiện diện để thiền định, thiền định chỉ là một bộ phận của sự tự cô lập đó mà là chuyển động thông thường của sống hàng ngày của người ta.

 Tình yêu là thiền định. Tình yêu không là một hồi tưởng, một hình ảnh được duy trì bởi sự suy nghĩ như vui thú, cũng không là hình ảnh lãng mạn mà sự ham muốn dục vọng dựng lên; nó là cái gì đó vượt khỏi tất cả những giác quan và vượt khỏi những áp lực thuộc kinh tế và xã hội của sống. Nhận ra tức khắc của tình yêu này, mà không có gốc rễ trong ngày hôm qua, là thiền định; bởi vì tình yêu là sự thật, và thiền định là sự khám phá về vẻ đẹp của sự thật này. Sự suy nghĩ không thể khám phá cái này; nó không bao giờ có thể nói: ‘Tôi đã khám phá’ hay ‘Tôi đã đạt được tình yêu đó mà của thiên đàng.’ 

 Từ Bản tin 29, 1976

 

Thiền định và Trải nghiệm

 

L

iệu có một trải nghiệm mới mẻ trong thiền định? Sự ham muốn cho trải nghiệm, trải nghiệm thăng hoa hơn, mà vượt khỏi và ở trên những trải nghiệm hàng ngày hay những trải nghiệm tầm thường, là cái mà khiến cho nguồn suối cạn kiệt. Sự khao khát cho trải nghiệm nhiều hơn, cho những tầm nhìn, cho sự nhận biết tốt lành hơn, cho sự nhận ra thế này hay thế kia, khiến cho cái trí hướng ra ngoài, mà không khác biệt với sự phụ thuộc của nó vào môi trường sống hay con người. Điều lạ thường của thiền định là rằng một sự kiện không bị biến thành một trải nghiệm. Nó hiện diện ở đó, như một vì sao mới trong bầu trời, mà không có ký ức nào đang đảm đương nó và đang ấp ủ nó, mà không có qui trình thói quen của công nhận và phản ứng dựa vào ưa thích hay không ưa thích. Sự tìm kiếm của chúng ta luôn luôn hướng ra bên ngoài; cái trí đang tìm kiếm bất kỳ trải nghiệm nào là hướng ra bên ngoài. Hướng vào bên trong không là một tìm kiếm; nó là đang nhận biết. Phản ứng luôn luôn là lặp lại, bởi vì nó luôn luôn đến từ cùng cái bờ của ký ức. 

 

Từ Bản tin 31, 1977

Gửi một người trẻ

 

A

nh ấy là một thanh niên trẻ, mới lập gia đình, và anh ấy nói anh ấy không có một việc làm tốt lắm, nhưng nó giúp anh ấy và người vợ vừa đủ tiền bạc để sống. Anh ấy đã được giáo dục tại một trong những trường đại học, có một cái trí khá nhạy bén, và phụ thuộc vào một trong những cộng đồng cổ xưa đó nơi một sống tôn giáo có ý nghĩa nhiều hơn cách sống của thế giới.

 Anh ấy tiếp tục, ‘Giáo dục của tôi đã khiến cho cái trí của tôi khá đần độn. Nó đã vun quén ký ức của tôi và có thể không còn gì thêm nữa. Tôi đã có nhiều bằng cấp nhưng tất cả chúng đã khiến cho tôi trống rỗng và đờ đẫn. Dường như tôi đang mất đi tất cả những cảm thấy, tất cả quan tâm, và rơi vào một lề thói; và tôi có thể thấy những hoạt động tình dục của tôi trở thành một bộ phận của cùng khuôn mẫu. Tôi không biết phải làm gì. Ngày hôm trước sau khi nghe ông nói chuyện, tôi nghĩ có lẽ nhờ nói chuyện về những vấn đề với ông tôi có thể làm tự do chính tôi khỏi trọng tải chết rồi của công việc của tôi và của những thói quen hàng ngày của tôi. Bởi vì tôi còn rất trẻ nên tôi có thể thay đổi công việc của tôi, nhưng tôi biết rằng dù nó có lẽ hứng thú đến chừng nào chăng nữa chẳng mấy chốc nó sẽ trở thành một lề thói. Vợ tôi và tôi đã nói chuyện về vấn đề này. Sáng nay cô ấy không thể đến được, vì vậy tôi đang nói chuyện cho cô ấy và cả cho chính tôi.’ Anh ấy có một nụ cười đẹp đẽ, và xã hội vẫn chưa hoàn toàn hủy hoại anh ấy.

 Lề thói và thói quen là sống hàng ngày của chúng ta. Một số người nhận biết những thói quen của họ, số còn lại không. Nếu người ta nhận biết những thói quen – chuyển động lặp lại của bàn tay hay của cái trí – người ta có thể kết thúc chúng tương đối dễ dàng. Nhưng điều gì quan trọng trong tất cả việc này là hiểu rõ nó, không phải thuộc trí năng, hệ thống máy móc của sự hình thành thói quen mà dần dần hủy hoại hay tê liệt tất cả cảm giác. Bộ máy này là sự trì trệ ghê gớm mà là bộ phận thuộc di sản của chúng ta, giống như truyền thống. Chúng ta không muốn bị quấy rầy, và chính là sự trì trệ này mới tạo ra lề thói. Sau khi đã học hành, chúng ta vận hành tùy theo điều gì chúng ta biết rồi, đang thêm vào hay đang bổ sung điều gì chúng ta biết rồi.

 Sự sợ hãi của thay đổi củng cố thói quen, không chỉ thuộc thân thể nhưng còn cả chính những tế bào não. Vì vậy sau khi đã thiết lập trong một lề thói, chúng ta cứ tiếp tục, giống như một chiếc xe điện chạy theo đường rầy của nó. Chúng ta đã quen thuộc với mọi sự việc trong tất cả những liên hệ, và đây là một trong những nhân tố chính của sự vô cảm. Thế là, thói quen trở thành một việc tự nhiên. Vậy thì người ta hỏi: tại sao người ta phải chú ý đến tất cả mọi việc người ta làm hàng ngày? Và thế là không chú ý vun quén thói quen; và thế là chúng ta bị trói buộc. Sau đó vấn đề của làm thế nào được tự do khỏi thói quen bắt đầu. Và thế là có sự xung đột. Và vì vậy, sự xung đột là phương cách của sống mà chúng ta chấp nhận một cách tự nhiên!

 Vậy là, khi người ta thấy tất cả việc này – tất cả những phương cách của thói quen, mà là vận hành theo ký ức đã được thiết lập, làm việc từ ký ức đó – khi có một nhận biết điều này, kế tiếp người ta bắt gặp phương cách của sự vui thú. Bởi vì, rốt cuộc, điều gì chúng ta mong muốn sâu thẳm là sự vui thú và tất cả những giá trị của chúng ta đều được đặt nền tảng trên nó. Sự vui thú là nhân tố liên tục mà chúng ta sẵn lòng hy sinh, mà chúng ta bảo vệ, mà chúng ta sẵn sàng bạo lực và vân vân. Nhưng, nếu chúng ta quan sát sự vui thú, chẳng mấy chốc chúng ta cũng thấy rằng nó, cũng vậy, trở thành một thói quen, và khi thói quen của sự vui thú đó bị khước từ liền có khó chịu, phiền muộn và đau khổ. Và để lẩn tránh việc này chúng ta rơi vào một cái bẫy khác của sự vui thú. Chúng ta có thể quen thuộc với vẻ đẹp và với xấu xa – với vẻ đẹp của một cái cây hay sự bẩn thỉu của con đường. Chúng ta treo một bức tranh trên tường và chúng ta nhìn ngắm nó, và chẳng mấy chốc nó đã trở thành một thói quen. Hay, như một số người đã thực hiện, chúng ta thay đổi bức tranh với hy vọng nhờ đó giữ được tầm nhìn nhạy bén. Đây chỉ là một lừa bịp khác để khuất phục sự vô cảm.

 Thế là, đây là phương cách sống mà chúng ta đã chấp nhận. Nó là điều gì đang xảy ra cho chúng ta từ sáng đến khuya, và suốt giấc ngủ. Vì vậy, tổng thể của ý thức là máy móc trong ý nghĩa rằng nó là một chuyển động liên tục, sự hoạt động, bên trong những biên giới của sự vui thú và sự đau khổ. Để vượt khỏi những biên giới này con người đã cố gắng trong nhiều cách khác nhau. Nhưng chẳng mấy chốc mọi phương cách lại được giảm thiểu thành sự đơn điệu của thói quen và vui thú; và nếu bạn có năng lượng, bạn trở nên rất năng động, phía bên ngoài. Lúc này, toàn mấu chốt của điều này là thấy – thực sự, không từ ngữ – việc gì đang thực sự xảy ra. Thấy không từ ngữ có nghĩa thấy không người quan sát, bởi vì người quan sát là bản thể của thói quen và mâu thuẫn, mà là ký ức. Vì vậy đang thấy không bao giờ là thói quen bởi vì đang thấy không có tích lũy. Khi bạn thấy từ sự tích lũy, bạn thấy qua những thói quen. Vì vậy, đang thấy là hành động mà không có thói quen.

 Rốt cuộc, tình yêu không là thói quen – ngược lại sự vui thú là thói quen. Vì vậy hành động của đang thấy là một việc tự nhiên duy nhất; đang thấy di sản của động vật trong chúng ta, mà là bạo lực, hung hăng và ganh đua. Nếu bạn có thể hiểu rõ một việc duy nhất này – mà thực sự có sự quan trọng cơ bản – hành động của đang thấy – vậy thì không có sự tích lũy như ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, vậy thì không có hình thành thói quen, cùng lề thói và tất cả sự nhàm chán của nó. Vì vậy thấy cái gì là, là tình yêu. 

 Từ Bản tin 36, 1981

Tình yêu không là Suy nghĩ

Gstaad, Thụy sĩ, ngày 3 tháng 8 năm 1981

 

T

hung lũng trải dài từ đông sang tây; đầu cuối phía đông hẹp dần lại đến một hẽm núi chật với một hòn núi cao 6.000 feet mà trên nó mặt trời ló dạng, đang tỏa ra những cái bóng sâu dài và sự yên lặng vô hạn. Có một cây sồi cổ thụ – mấy trăm tuổi – đang chộp bắt mặt trời sáng sớm, vàng óng và bất động. Chiếc lá cao nhất nín thở trong sự tĩnh lặng của nó. Con chim bồ câu ai oán bắt đầu tiếng gù gù thật trầm và sâu lắng, đáp lại bạn tình của nó. Và ngày đã bắt đầu. Con cú sừng to đã ngừng kêu khi bình minh mùa xuân mới đang vẽ những đường viền của dãy núi đá và những nét dài của những quả đồi đầy cây. Trước khi mặt trời ló dạng, sự yên lặng vô cùng dường như phủ đầy đất đai. Và quả đất đẹp biết bao, không thời gian trong sự bao la của nó. Nó là quả đất của chúng ta, quả đất của chúng ta và không phải của bất kỳ nhóm người, cộng đồng hay quốc gia nào. Nó là quả đất của chúng ta; nó thuộc về mỗi người chúng ta.

 Con đường được xây dựng rất tốt, bằng phẳng, rộng rãi, không có quá nhiều khúc cua ngặt khi nó lên cao, đi qua hàng dặm và hàng dặm những vườn cam được chăm sóc tốt và những cánh rừng lê ngút ngàn, mà sẽ trải dài xuống tận đường mương nước và leo lên toàn quả đồi, tất cả đều được tưới nước và chăm sóc cẩn thận. Thung lũng thơm mùi hoa cam và hoa lê. Con đường chạy qua điểm cao nhất, có lẽ 5.000 feet, sau đó thấp dần xuống vào sa mạc. Tại điểm cao nhất của con đường, xe hơi ngừng lại. Ở phía nam những quả đồi cao rộng lớn được phủ đầy cây cối và những bụi nhỏ, những bông hoa màu tím và vàng; ở phía bắc không có cây; nó trơ trụi, đầy đá, trải dài đến tận chân trời, còn nguyên sơ, mỗi tảng đá như nó đã là cách đây hàng ngàn năm. Không gian vô hạn và sự yên lặng không thể đo lường được.

 Cô độc là một việc và cô đơn là một việc khác. Cô độc có thể là cô lập, một tẩu thoát, một việc không mong muốn; nhưng cô đơn mà không có gánh nặng của cuộc đời, cùng sự tự do hoàn toàn đó mà trong nó thời gian-suy nghĩ không hiện diện, là cùng vũ trụ. Trong cô độc có sự hiu quạnh tuyệt vọng, một ý thức của bị bỏ rơi, mất mát, đang khao khát loại liên hệ nào đó, giống như một con tàu bị lạc giữa đại dương. Tất cả hoạt động hàng ngày của chúng ta đều dẫn đến sự cô lập này, cùng những xung đột và những đau khổ vô tận của nó, và những hân hoan hiếm hoi thỉnh thoảng chen vào. Sự cô lập này là sự thoái hóa, được biểu lộ trong chính trị, trong kinh doanh và dĩ nhiên, những tôn giáo có tổ chức. Sự thoái hóa tồn tại trong những nơi rất cao và trên ngay bậc cửa. Bị trói buộc là sự thoái hóa; bất kỳ hình thức nào của quyến luyến đều dẫn đến sự thoái hóa, dù nó là sự quyến luyến vào một niềm tin, trung thành, lý tưởng, trải nghiệm, hay bất kỳ kết luận nào. Sự thoái hóa thuộc tâm lý là nhân tố chung trong những con người. Tiền bạc, địa vị, quyền hành là những phản ứng bề mặt của sự thoái hóa phía bên trong do bởi những vui thú chồng chất của sự ham muốn, cái hình ảnh mà sự suy nghĩ dựng lên quanh chuyển động của sự ham muốn. Sự thoái hóa là sự phân chia.

 Trong không gian rộng lớn giữa bầu trời trong xanh và vẻ đẹp của quả đất, ý thức đã kết thúc. Tất cả những giác quan hoàn toàn nhận rõ không khí trong lành, mùi của sa mạc và những bông hoa xa xa, sự chuyển động của con thằn lằn trên tảng đá ấm áp và sự yên lặng tuyệt đối. Không chỉ là sự yên lặng của độ cao, sự yên lặng lạ thường đó ngay sau khi mặt trời vừa mọc, hay sự yên lặng đó mà dường như ập xuống trên quả đất cùng sự khởi đầu của bình minh, tách khỏi những thành phố và làng mạc ồn ào, nhưng còn cả sự yên lặng thăm thẳm mà những nhiễu loạn của sự suy nghĩ không bao giờ tiếp xúc được. Chính sự yên lặng không đo lường đó, có sự tinh khiết và rõ ràng vô cùng đến độ nó vượt khỏi tất cả sự chuyển động của ý thức. Một cách chính xác, thời gian đã kết thúc.

 Sự yên lặng đó theo cùng chúng tôi khi chiếc xe chạy xuống qua những vườn cam và những cánh rừng. Ở đó văn minh bắt đầu, sự thô tục không thể tin được, sự vội vã nhẫn tâm và sự kiêu ngạo của những con người, mọi người đang khẳng dịnh sự hiện diện của anh ấy, và những người giàu có đang phô trương quyền hành và ý muốn của họ. Thậm chí động cơ xe hoàn hảo đó bỗng nhiên yên lặng, mà dĩ nhiên quá vô lý. Tờ báo sáng trong phần xã luận đã phát biểu rằng sẽ hậu quả như thế nào nếu và khi một quả bom nguyên tử nổ trên một thành phố lớn: hàng triệu người bốc hơi, xã hội bị phá nát và hỗn độn nguyên thủy. Và vân vân, kinh hoàng thêm kinh hoàng. Và nhân loại đặt sự trung thành của họ trong những người chính trị và những chính phủ.

 Bất kỳ người chuyên môn nào – người bác sĩ, người giám mục, người đầu bếp hay người thợ ống nước – đều sử dụng chỉ một phần của bộ não, đang thâu hẹp hành động tổng thể của nó. Người chính trị và vị đạo sư sử dụng chỉ một phần nhỏ xíu của năng lượng và khả năng lạ thường của bộ não. Hoạt động từng phần, bị giới hạn này đang tạo ra thảm họa trong thế giới. Phần nhỏ xíu này của bộ não đang vận hành trong tất cả những tôn giáo khi họ lặp lại những nghi thức, những từ ngữ vô nghĩa của họ, những cử chỉ của 2.000 hay 5.000 năm truyền thống của họ, tùy theo họ đã được lập trình như thế nào. Một số người trình diễn nó thật duyên dáng trong những bộ quần áo tinh xảo, rực rỡ, và những người khác một cách thô thiển. Nó cũng giống hệt trong những vòng tròn của chính phủ, sự thoái hóa của quyền hành. Phần nhỏ xíu đó có lẽ tích lũy sự hiểu biết vô hạn, nhưng chính sự hiểu biết đó chỉ củng cố thêm nữa một phần của bộ não. Sự thăng hoa của con người không bao giờ có thể qua sự hiểu biết, bởi vì nó không bao giờ hoàn chỉnh; nó luôn luôn ở trong cái bóng của sự dốt nát. Cái máy thông minh cực độ, máy tính đang phát triển nhanh, mà được lập trình bởi những người chuyên môn, sẽ đảm đương và vượt qua sự suy nghĩ của con người và những khả năng chậm chạp của sự suy nghĩ; nó sẽ học hành nhanh chóng hơn, sửa chữa những sai lầm riêng của nó, giải quyết những vấn đề riêng của nó. Con người đã không giải quyết được bất kỳ vấn đề thuộc tâm lý nào của họ, những vấn đề mà đã trở thành quá phức tạp. Có vẻ rằng anh ấy đã bị chất đầy chúng từ những ngày cổ xưa nhất. Chúng ta vẫn còn tiếp tục những vấn đề này, của chính phủ, tôn giáo, liên hệ, bạo lực, những chiến tranh và sự ô nhiễm của quả đất. Chúng sẽ vẫn còn không thể giải quyết được chừng nào chỉ có một phần của bộ não đang vận hành, chừng nào con người còn bị lập trình để là người Mỹ, người Anh, người Pháp và vân vân, chừng nào người ta còn là một người Thiên chúa giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Dường như, người ta hoàn toàn không nhận biết cái phần nhỏ xíu đó của bộ não bị quy định, bị lập trình như thế nào. Không nhận biết trao tặng lập trình này một ý thức ảo tưởng của an toàn, một cấu trúc bằng từ ngữ chống lại những loài man rợ. Nhưng con người là loài man rợ duy nhất; chính anh ấy là nguyên nhân của sự thoái hóa và kinh hoàng đang xảy ra trong thế giới. Anh ấy hoàn toàn chịu trách nhiệm cho tất cả mọi việc đang xảy ra chung quanh anh ấy.

 Phần nhỏ xíu này của bộ não là ý thức của chúng ta; nó là nơi ẩn náu của thời gian, đo lường, không gian và sự suy nghĩ. Thời gian là sự tiến hóa cả thuộc sinh học lẫn thuộc tâm lý, nó là mặt trời mọc và lặn; nó là ý thức của trở thành. Đo lường là cái gì là và cái gì nên là, lý tưởng phải đạt được, những bạo lực đang trở thành hòa bình, đang đạt được cái bất biến, những trở thành liên tục; sự so sánh, sự bắt chước, sự tuân phục; những tốt đẹp hơn và những nhiều hơn. Không gian là khoảng lan rộng vô hạn của quả đất, bầu trời, và không gian nhỏ xíu trong những thành phố đông đúc, và không gian, nếu có được, trong ý thức. Sự suy nghĩ là ông chủ. Sự suy nghĩ là nhân tố thống trị nhất trong sống của con người. Không có sự suy nghĩ phương Đông hay sự suy nghĩ phương Tây; chỉ có sự suy nghĩ mà có lẽ được diễn tả trong nhiều cách khác nhau, nhưng nó vẫn còn là chuyển động của sự suy nghĩ. Sự suy nghĩ là chung cho tất cả con người, từ những người thô tục đến những người có giáo dục cao nhất. Sự suy nghĩ đã đưa con người lên mặt trăng; sự suy nghĩ đã chế tạo bom nguyên tử; nó đã xây dựng tất cả những đền chùa, những thánh đường nguy nga cùng tất cả những đồ vật trong nó mà được gọi là thiêng liêng, những nghi thức trau chuốt, những giáo điều, những niềm tin, sự trung thành và vân vân. Nó đã sáng chế máy tính và những chương trình được thiết lập trong nó. Nó đã giúp đỡ nhân loại trong vô vàn cách khác nhau, nhưng nó cũng nuôi dưỡng chiến tranh và tất cả những dụng cụ của chết chóc. Nó đã chiếu rọi những lý tưởng, sự bạo lực dã man, những hành hạ, nhân loại bị phân chia thành những quốc gia, những giai cấp và vô số những tôn giáo mà đã tách rời con người chống lại chính anh ấy và sắp đặt con người chống lại con người. Tình yêu không là sự suy nghĩ cùng những hồi tưởng và những hình ảnh của nó.

 Sự suy nghĩ duy trì và nuôi dưỡng ý thức. Nội dung của ý thức là chuyển động không ngừng nghỉ của sự suy nghĩ, những ham muốn, những xung đột, những sợ hãi, sự theo đuổi của những vui thú, sự phiền muộn, sự cô độc, sự đau khổ. Tình yêu, từ bi, cùng sự thông minh không thoái hóa của nó, vượt khỏi ý thức bị giới hạn này. Nó có lẽ không bị phân chia thành cao hơn và thấp hơn, bởi vì những cao hơn hay những thấp hơn vẫn còn là ý thức, luôn luôn ồn ào, luôn luôn huyên thuyên. Ý thức là tất cả thời gian, tất cả đo lường, tất cả không gian, bởi vì nó được sinh ra từ sự suy nghĩ. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, sự suy nghĩ không bao giờ có thể là tổng thể; nó có thể phỏng đoán về tổng thể và buông thả trong sự diễn tả bằng từ ngữ và sự trải nghiệm của nó, nhưng sự suy nghĩ không bao giờ có thể nhận biết vẻ đẹp của tổng thể, sự vô hạn của tổng thể.

 Bởi vì sự suy nghĩ là sản phẩm khô khan của sự trải nghiệm và sự hiểu biết, mà không bao giờ có thể trọn vẹn, tổng thể. Vì vậy, sự suy nghĩ sẽ luôn luôn bị giới hạn, bị tách rời. Những vấn đề mà sự suy nghĩ đã gây ra cho con người, sự suy nghĩ cố gắng trong vô vọng để giải quyết và thế là tiếp tục gia tăng chúng. Chỉ khi nó nhận biết sự không khả năng hoàn toàn thuộc tâm lý của nó để giải quyết những vấn đề và những xung đột mà nó đã tạo ra; sự nhận biết đó, thấu triệt đó mới có thể kết thúc chúng.

 Từ Bản tin 56, 1989

 

Sự liên hệ có nghĩa gì?

Saanen, Thụy sĩ, tháng 8 năm 1981

 

T

ình yêu của cây cối là, hay nên là, một bộ phận của bản chất của chúng ta, giống như hít thở. Chúng là một bộ phận của quả đất giống như chúng ta, tràn đầy vẻ đẹp cùng sự cách biệt lạ thường đó. Chúng quá yên lặng, đầy những chiếc lá, no đủ và dư thừa ánh sáng, đang tỏa những cái bóng dài và bộc lộ sự hoang dại cùng hân hoan khi có một cơn bão. Mỗi chiếc lá, thậm chí tại ngay ngọn của nó, đang nhảy múa trong cơn gió nhe nhẹ, và những cái bóng được nghênh đón trong mặt trời chói chang. Khi bạn ngồi dựa lưng vào thân cây, nếu bạn rất yên lặng, bạn thiết lập một liên hệ vĩnh viễn cùng thiên nhiên. Hầu hết mọi người đã mất đi sự liên hệ đó; họ nhìn tất cả những hòn núi, những thung lũng đó, những con suối và hàng ngàn cái cây khi họ đi qua trong chiếc xe hơi của họ hay đi bộ lên những quả đồi, huyên thuyên liên tục, nhưng họ quá mải mê trong những vấn đề riêng của họ nên không có thời gian nhìn ngắm và yên lặng. Khói đang bốc lên trong một cột thẳng đứng bên kia thung lũng, và phía dưới một chiếc xe tải chạy qua, chất nặng những khúc cây vừa mới chặt, vỏ của chúng vẫn còn trên thân cây. Một nhóm trai gái đi qua nói chuyện liến thoắng và đang xé nát sự yên lặng của cánh rừng.

 Chết của một cái cây rất đẹp đẽ trong sự kết thúc của nó, không giống như chết của con người. Một cái cây khô trong một sa mạc, bị lột vỏ của nó, được đánh bóng bởi mặt trời và gió, tất cả những cành trơ trụi của nó khoáng đạt cùng bầu trời, là một cảnh kỳ diệu. Một cây gỗ đỏ to, nhiều, nhiều trăm tuổi, bị chặt xuống trong một vài phút để làm hàng rào, ghế ngồi, và xây dựng nhà cửa hay làm màu mỡ đất đai trong một cái vườn. Cái cây to kỳ diệu đó đã biến mất rồi. Con người đang khai phá sâu hơn và sâu hơn vào những cánh rừng, đang tàn phá chúng cho những cánh đồng cỏ và nhà cửa. Những vùng hoang dã đang biến mất. Có một thung lũng, những quả đồi vây quanh nó có lẽ là những quả đồi già nua nhất trên quả đất, nơi những con báo, những con gấu và những con nai lúc trước người ta thấy đã hoàn toàn biến mất, bởi vì con người ở khắp mọi nơi. Vẻ đẹp của quả đất từ từ đang bị ô uế và hủy diệt. Những chiếc xe hơi và những cao ốc đang xuất hiện trong những nơi không được mong đợi nhất. Khi bạn mất đi sự liên hệ của bạn cùng thiên nhiên và bầu trời bao la, bạn mất đi sự liên hệ của bạn cùng con người.

 Anh ấy đến cùng người vợ và thực hiện hầu hết buổi nói chuyện. Cô ấy khá nhút nhát, nhưng trông thông minh. Anh ấy khá độc đoán và có vẻ hung hăng. Anh ấy nói họ đã đến nghe vài nói chuyện sau khi đã đọc một hay hai quyển sách và đã nghe một số đối thoại.

 ‘Chúng tôi thật lòng đến để nói chuyện riêng cùng ông về vấn đề chính của chúng tôi, mà tôi hy vọng ông không bực bội lắm. Chúng tôi có hai người con, một trai và một gái; chúng đều đang đi học, may mắn thay cho chúng. Chúng tôi không muốn bắt buộc các con phải chịu đựng những căng thẳng giữa chúng tôi, mặc dù chẳng sớm thì muộn chúng sẽ cảm thấy việc này. Cả hai chúng tôi đều rất ưa thích nhau, tôi sẽ không sử dụng từ ngữ “tình yêu”, bởi vì tôi đã hiểu rõ ông có ý gì qua từ ngữ đó. Chúng tôi lấy nhau khá trẻ; chúng tôi có một ngôi nhà đẹp cùng một cái vườn nhỏ. Tiền bạc không là vấn đề của chúng tôi. Cô ấy có tiền riêng và tôi làm việc, mặc dù người cha của tôi đã để lại một ít tiền. Chúng tôi không đến gặp ông như một người tư vấn về hôn nhân, nhưng chúng tôi muốn bàn luận cùng ông, nếu ông không phiền, về sự liên hệ của chúng tôi. Vợ tôi khá kín đáo, nhưng tôi chắc chắn cô ấy sẽ tham gia vào bàn luận mau thôi. Chúng tôi đã đồng ý rằng tôi sẽ bắt đầu trước. Chúng tôi rất ưu tư về sự liên hệ của chúng tôi. Chúng tôi đã thường xuyên nói chuyện về nó, nhưng không có kết quả gì. Sau sự giới thiệu này, câu hỏi tôi muốn đưa ra là: có điều gì sai lầm với sự liên hệ của chúng tôi, hay sự liên hệ đúng đắn là gì?’

 Sự liên hệ đúng đắn của bạn với những đám mây đó, đầy ánh sáng buổi chiều, hay với những cái cây yên lặng đó, là gì? Nó không là một câu hỏi không liên quan. Liệu bạn thấy những em bé đang nô đùa trong cánh đồng đó, chiếc xe hơi cũ? Khi bạn thấy tất cả những điều đó, phản ứng của bạn là gì, liệu người ta được phép hỏi?

 ‘Tôi không chắc chắn nó là gì. Tôi thích nhìn những đứa trẻ nô đùa. Vợ tôi cũng thế. Tôi không có những cảm thấy đặc biệt gì về những đám mây đó hay những cái cây đó. Tôi đã không suy nghĩ về chúng; thậm chí có thể tôi đã chưa bao giờ nhìn chúng.’

 Người vợ của anh ấy nói, ‘Tôi có nhìn. Chúng có ý nghĩa gì đó với tôi, nhưng tôi không thể diễn tả nó bằng những từ ngữ. Những đứa trẻ ngoài đó có thể là con cái của tôi. Dù sao chăng nữa tôi cũng là một người mẹ.’

 Làm ơn nhìn ngắm, thưa bạn, những đám mây đó và cái cây đó như thể bạn đang thấy nó lần đầu tiên. Nhìn ngắm chúng mà không có sự suy nghĩ đang can thiệp hay đang lang thang ra khỏi. Nhìn ngắm chúng mà không đặt tên chúng như một đám mây hay một cái cây. Chỉ nhìn ngắm cùng quả tim và hai mắt của bạn. Chúng là của quả đất giống như chúng ta, như những đứa trẻ kia, thậm chí chiếc xe hơi cũ đó. Chính sự đặt tên nó là bộ phận của sự suy nghĩ.

 ‘Nhìn ngắm những thứ đó mà không đặt tên chúng có vẻ không thể được. Chính hình thể là từ ngữ.’

 Vậy là những từ ngữ đảm trách một vai trò quan trọng trong những sống của chúng ta. Sống của chúng ta, nó có vẻ, là một mạng lưới của những từ ngữ phức tạp, liên quan lẫn nhau. Những từ ngữ có một ảnh hưởng quan trọng cho chúng ta, giống như từ ngữ ‘thượng đế’, ‘dân chủ’, ‘tự do’, ‘chuyên chế’. Những từ ngữ này gợi lên những hình ảnh quen thuộc. Những từ ngữ ‘người vợ’ và ‘người chồng’ là bộ phận của sinh hoạt hàng ngày của chúng ta. Nhưng từ ngữ ‘người vợ’ không thực sự là một con người đang sống, cùng tất cả những phức tạp và những phiền muộn của cô ấy. Vì vậy từ ngữ không bao giờ là cái thực sự. Khi từ ngữ trở thành quan trọng nhất, cái đang sống, cái thực sự, bị bỏ quên.

 ‘Nhưng tôi không thể lẩn tránh từ ngữ và hình ảnh mà thế giới đã tạo ra.’

 Người ta không thể tách rời từ ngữ và hình ảnh. Từ ngữ là hình ảnh. Quan sát mà không có từ ngữ-hình ảnh là mấu chốt.

 ‘Điều đó không thể được, thưa ông.’

 Nếu người ta được phép vạch rõ, bạn đã không cố gắng một cách nghiêm túc để thực hiện điều này. Từ ngữ ‘không thể được’ ngăn cản bạn làm nó. Làm ơn, đừng nói nó có thể được hay không thể được, nhưng đơn giản hãy làm nó. Chúng ta hãy quay lại câu hỏi của bạn: sự liên hệ đúng đắn là gì? Bạn sẽ, người ta chắc chắn, tìm được cho chính bạn điều gì là đúng đắn khi chúng ta hiểu rõ sự liên hệ. Sự liên hệ có nghĩa gì đối với bạn?

 ‘Cho phép tôi suy nghĩ. Nó có lẽ quá nhiều sự việc tùy thuộc những tình huống. Một ngày nó là một phản ứng đặc biệt, và vào một ngày khác nó có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Nó là trách nhiệm, nhàm chán, bực bội, những phản ứng thuộc giác quan và sự thôi thúc để chạy trốn tất cả nó.’

 Đây là điều gì chúng ta gọi là sự liên hệ. Nó là những mức độ khác nhau của những phản ứng thuộc giác quan, của cảm tính – lãng mạn, nếu người ta có khuynh hướng trong cách đó – dịu dàng, quyến luyến, cô độc, sợ hãi và vân vân (lo âu nhiều hơn là sợ hãi thực sự). Đây được gọi là sự liên hệ với một người đặc biệt hay một người khác. Bạn cũng liên hệ với những lý tưởng, những hy vọng của bạn, với những trải nghiệm, những kết luận của bạn. Tất cả điều này là bạn và sự liên hệ của bạn với một người khác; và người khác cũng giống như bạn, mặc dù cô ấy có lẽ khác biệt phần sinh học, văn hóa, phía bên ngoài. Vì vậy, liệu nó không thể hiện rằng bạn luôn luôn năng động bên trong cái tôi tự cho mình là trung tâm và cô ấy năng động trong một cách tương tự, hay sao? Hai đường song song không bao giờ gặp nhau?

 ‘Tôi bắt đầu thấy ông có ý gì, nhưng làm ơn tiếp tục’.

 Nó trở nên rõ ràng rằng không có sự liên hệ thực sự. Tại cơ bản người ta quan tâm đến chính mình, sự vui thú riêng của người ta, nhượng bộ một người khác trong sự thỏa mãn và vân vân và vân vân. Chúng ta hãy giải thích cách khác. Tại sao những con người quá tự cho mình là trung tâm, trong ý thức bên ngoài, hay trong những ngõ ngách sâu thẳm nhất của cái tôi đang tồn tại của họ? Tại sao? Có vẻ những động vật hoang đã không ích kỷ như những con người. Nếu chúng ta muốn khám phá cho chính mình sự liên hệ đúng đắn là gì, chúng ta phải thâm nhập vào vấn đề này rất sâu thẳm. Sự nhận biết không động cơ là dành cho mục đích kiếm được hiểu biết mới mẻ. Hầu hết chúng ta đều gặp khó khăn khi quan sát mà không có loại động cơ nào đó. Liệu chúng ta có thể cùng nhau thâm nhập, rất khách quan, điều gì thực sự xảy ra trong một liên hệ của hai người, dù nó thân mật hay không? Hầu như tất cả những phản ứng đều được ghi lại trong bộ não, đặc biệt những phản ứng đau khổ hay vui thú, hời hợt hay tại một mức độ sâu thẳm hơn. Ghi lại này tiếp tục từ niên thiếu đến chết. Dần dần ghi lại này dựng lên một hình ảnh hay bức tranh mà mỗi người có về chính anh ấy. Nếu người ta kết hôn hay sống cùng một người khác, trong một tháng hay nhiều năm, mỗi người đã hình thành một hình ảnh về người còn lại – những tổn thương, những bực dọc, những từ ngữ cộc cằn, những nịnh nọt và vân vân, những phản ứng giác quan, những quan sát trí năng, tình bạn bè và sự âu yếm, sự tưởng tượng của thành tựu và những kết hợp thuộc văn hóa. Những điều này hình thành những hình ảnh khác nhau mà được đánh thức trong những tình huống khác nhau. Ngoại trừ sự liên hệ vật chất thực sự, những hình ảnh này gây biến dạng hay chối từ một liên hệ sâu thẳm của tình yêu, từ bi cùng thông minh của nó.

 ‘Vậy thì làm thế nào và trong cách gì những hình ảnh này không thể được hình thành?’

 Liệu bạn đang đưa ra câu hỏi sai lầm, thưa bạn? Ai ngăn cản? Liệu không phải là một hình ảnh hay ý tưởng khác đang đưa ra câu hỏi, hay sao? Liệu bạn vẫn còn đang vận hành cùng những hình ảnh, từ một hình ảnh này sang một hình ảnh khác, hay sao? Những tìm hiểu như thế không dẫn đến đâu cả. Khi người ta bị đau khổ hay tổn thương thuộc tâm lý, mà người ta phải bị từ niên thiếu, những hậu quả của sự tổn thương đó là rõ ràng: sợ hãi của những tổn thương thêm nữa, rút lui bằng cách dựng lên một bức tường quanh chính người ta, cô lập thêm nữa và vân vân – một qui trình của loạn thần kinh. Nếu và khi người ta nhận biết, quan sát những tổn thương, những xung đột này, vậy thì theo bản năng người ta đòi hỏi làm thế nào người ta có thể không bị tổn thương. Hình ảnh tột đỉnh là ‘cái tôi’, cái ngã cùng những ‘Của’ viết hoa và những ‘của’ nhỏ xíu. Khi người ta hiểu rõ toàn ý nghĩa của tại sao bộ não, sự suy nghĩ, hình thành những hình ảnh này, sự thật của tại sao những hình ảnh này tồn tại, chính nhận biết đó xóa sạch tất cả sự hình thành của những hình ảnh. Đây là sự tự do tối thượng.

 ‘Lý do tại sao bộ não, hay sự suy nghĩ, như ông nói, hình thành những hình ảnh, là gì?’

 Liệu có phải do sự an toàn? Được an toàn khỏi tất cả nguy hiểm? Để chắc chắn, để lẩn tránh sự rối loạn? Bất kỳ phần nhỏ nào của bộ não đang vận hành, muốn vận hành tốt, có hiệu quả, nó phải cảm thấy chắc chắn, an toàn. Dù sự chắc chắn, sự an toàn đó, là một ảo tưởng hay sáng chế nào đó của sự suy nghĩ, như là sự trung thành hay niềm tin, thực sự không quan trọng gì cả chừng nào phần bị giới hạn đó của bộ não còn cảm thấy được an toàn, bảo đảm, chắc chắn. Chúng ta sống trong ảo tưởng này. Cùng hình ảnh, như là quốc gia hay những hình ảnh trong tất cả đền chùa trong thế giới, con người sống và tiếp tục cùng xung đột, vui thú, đau khổ. Hình thành những hình ảnh này không có sự kết thúc. Nhưng khi bạn nhận biết rằng chúng ngăn cản, tỏa một cái bóng trên sự liên hệ sâu thẳm và thực sự của chúng ta giữa lẫn nhau, giữa chính chúng ta và đám mây đó, cái cây đó và những đứa trẻ đó, vậy thì có thể có tình yêu.

 Từ Bản tin 56, 1989

 

Vẻ đẹp là nguy hiểm

Saanen, Switzerland, 11 tháng tám 1981

 

V

ẻ đẹp là sự nguy hiểm. Đang đứng trên quả đồi đó người ta thấy 300 dặm của Himalayas, hầu như từ chân trời sang chân trời, cùng những thung lũng sẫm, sâu, đỉnh này kế tiếp đỉnh khác cùng tuyết vô tận, không thấy một cái nhà nào, không một cái làng, không một túp lều. Mặt trời đang chạm những đỉnh núi cao nhất, và bỗng nhiên toàn dãy núi tiếp nối nhau bừng bừng. Như thể chúng bừng bừng từ bên trong, một phát sáng có sự mãnh liệt không thể tin được. Những thung lũng trở nên tối tăm hơn và yên lặng tuyệt đối. Quả đất nín thở trong sự rực rỡ của nó. Khi mặt trời lên cao từ phuơng đông xa xôi, sự mãnh liệt, sự tinh khiết tuyệt đối của những hòn núi hoành tráng đó dường như quá gần gũi đến độ hầu như người ta có thể chạm vào chúng, nhưng chúng lại ở cách đó hàng trăm dặm.

 Và ngày bắt đầu. Không thắc mắc tại sao con người đã tôn thờ chúng; chúng quá thiêng liêng, phải được tôn kính từ xa. Tất cả những người cổ xưa tạo ra những vị thần từ chúng, bởi vì ở đó những thứ trên thiên đàng dùng làm chỗ trú ngụ. Lúc này, chúng đang được biến thành những đường chơi trượt tuyết và những khách sạn, những hồ bơi và sự ồn ào. Nhưng vẫn có sự yên lặng nơi những núi tuyết tinh khiết và không ngã lòng đó. Vẻ đẹp không thể hủy diệt và là sự nguy hiểm vô cùng.

 Rời sự yên lặng không thể phá vỡ được đó, đi xuống con đường lởm chởm đá, men theo con suối đang chảy xuống, ngang qua vô số loại thông, những cây thông tuyết to lớn, con đường mòn trở nên rộng rãi, phủ đầy cỏ. Đó là một buổi sáng dễ thương, dìu dịu cùng mùi của một cánh rừng phong phú. Con đường có nhiều khúc quẹo và nó đang bắt đầu ấm áp. Trong những cái cây gần bên có nguyên một đàn khỉ, mặt của chúng sáng lên trong mặt trời buổi sáng, cùng những cái đuôi dài và thân thể màu xám, đầy lông lá. Những con nhỏ đang bấu vào mẹ của chúng và cả nhóm đang yên lặng quan sát, không sợ hãi, hình bóng cô đơn. Chúng quan sát bất động. Và chốc lát sau một nhóm khất sĩ, đang tụng kinh, đang đi xuống đến một cái làng xa xôi. Tiếng Phạn của họ rõ ràng và chính xác, thể hiện rằng họ từ vùng phía nam rất xa. Bài thánh ca của họ tôn thờ buổi sáng, mà ban sự sống cho tất cả mọi sinh vật và ân lành của nó đã và vẫn còn ở trên tất cả những sinh vật. Có khoảng tám người trong số họ, ba hay bốn người còn khá trẻ, tất cả đều cạo đầu trọc lóc, mặc những chiếc áo cà sa, kiểm soát chặt chẽ, hai mắt cúi xuống, không thấy những cái cây to lớn, hàng ngàn bông hoa và những quả đồi xanh dịu; bởi vì vẻ đẹp là nguy hiểm – sự ham muốn có lẽ bị khơi dậy.

 Ngôi làng đang chuẩn bị bữa sáng của nó và mùi củi rừng bốc lên không khí. Những đứa trẻ, vừa rửa mặt, đang chuẩn bị đến trường cùng những tiếng la hét và cười đùa. Ẩn giữa sự ồn ào thông thường của ngôi làng có một ý thức của sự chịu đựng buồn chán. Nó có người giáo sĩ của nó, những người tin tưởng và những người không tin tưởng.

 Thật lạ lùng làm sao khi những giáo sĩ, từ thời gian vượt khỏi ký ức, đã quy định bộ não của con người phải trung thành, phải tin tưởng, phải vâng lời. Họ là những học giả, những người thầy, luật lệ. Bằng thái độ của họ, cao quý và trách nhiệm, họ là những người bảo vệ xã hội, những người giữ gìn truyền thống. Qua sự sợ hãi, họ kiểm soát những vị vua và con người. Xưa kia họ đứng ngoài, tách khỏi xã hội để cho họ có thể hướng dẫn, thuộc luân lý, thẩm mỹ, tôn giáo. Dần dần họ trở thành những người thông ngôn giữa Thượng đế và con người. Họ có quyền hành, địa vị và vô số của cải nơi những đền chùa, nhà thờ, thánh đường. Ở phương Đông họ bao phủ thân thể của họ trong những miếng vải có màu sắc phân biệt rõ ràng, đơn giản. Ở phương Tây những áo quần của họ trở nên mỗi lúc một biểu tượng, mỗi lúc một đắt tiền. Vậy là, có những thầy tu đơn giản đó trong những tu viện và những người đó trong những cung điện. Những người đứng đầu tôn giáo, cùng sự quan liêu của họ, giam cầm những con người trong sự trung thành, giáo điều, những nghi lễ và những từ ngữ vô nghĩa. Mê tín, mưu mẹo, đạo đức giả trở thành tiền bạc của tất cả những tôn giáo có tổ chức ở phương Đông và phương Tây. Và cái thiêng liêng nhất đã lẩn trốn ra khỏi cửa sổ, dù cửa sổ đó đẹp đẽ đến chừng nào.

 Vì vậy, con người phải bắt đầu lại để khám phá cái thiêng liêng vĩnh cửu, không bao giờ bị trói buộc bởi người thông ngôn, vị giáo sĩ, vị đạo sư, bởi những người bán rong của thiền định. Bạn phải là một ngọn đèn cho chính bạn. Ngọn đèn đó không bao giờ có thể được trao tặng bởi một người khác, bởi bất kỳ người triết lý hay tâm lý nào, dù họ được kính trọng bởi truyền thống bao nhiêu.

 Tự do là đứng một mình, không quyến luyến và không sợ hãi, được tự do trong sự hiểu rõ của ham muốn mà nuôi dưỡng sự ảo tưởng. Có sức mạnh vô cùng trong một mình. Chính là bộ não bị lập trình, bị quy định mới không bao giờ một mình, bởi vì nó chất đầy sự hiểu biết. Cái bị lập trình, thuộc tôn giáo hay công nghệ, luôn luôn bị giới hạn. Sự giới hạn này là nhân tố chính của xung đột.

 Vẻ đẹp là nguy hiểm cho một người của ham muốn.

 

 Từ Bản tin 57, 1989


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn