● Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8656)

TUYỂN TẬP TƯỞNG NIỆM 
CƯ SĨ TỊNH LIÊN NGHIÊM XUÂN HỒNG
Ban Biên Tập Thư Viện Hoa Sen

CÁC BÀI VIẾT VỀ PHẬT PHÁP

PHẬT Ở TRONG TÂM
HAY PHẬT Ở NGOÀI TÂM

 

Phật! Phật! Phật! Tâm1 Tâm! Tâm!

Thức! Thức! Thức! Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh!

Đó là hai câu thơ của Ngài Thượng Sỹ Tuệ Trung, một vị công hầu đời Trần, đã từng cầm quân chống giặc Nguyên, sau bỏ đi tu Phật để suy ngẫm về cai hiện tượng của Tâm và cái lẽ của Thiền.

Hai câu thơ đó có ý nói rằng nếu giáo lý của Phật, tuy mênh mang như biển cả, xong có thể thu gọn trong hai chữ Tâm và Phật, hoặc Mê và Ngộ.

Hãy nói về cái TÂM.

Một lần trên núi Linh Sơn, Đức Thich Ca ngự trên toà sen, sắp thuyết pháp. Nhưng ngài không nói gì cả, chỉ khoan thai đưa một cành hoa, rồi lặng lẽ mỉm cười. Đó là tịch niện hoa vi tiếu, độc đáo lối thuyết pháp Phật giáo. Ý Ngài muốn nói như thế này: “Ta có một chân lý tối thượng, đó là cái chân lý của cái Tâm, nhưng cái Tâm này nó lặng lẽ lắm, nó nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệu mà lãnh hội nó. Nhớ đấy! Nhớ đấy!…” Nhưng các đệ tử đều ngơ ngác không hiểu, riêng có ngài Ca Diếp là mỉm cười đáp lại mà thôi. Do đó Ngài đã truyền tâm ấn cho Ca Diếp, cùng y bát để làm đệ nhị tổ của Thiền tông. Trong giòng này, Đức Đạt Ma là tổ thứ 28.

Một lần khác, Đức Thích Ca xuất định, giảng về kinh Lăng Nghiêm. Cũng là giảng về Tâm. Nhưng lần này, Ngài bảo ông A Nan đại khái như sau: “Người nên thận trọng, chớ có vọng tưởng. Cái Tâm ấy nó lạ và huyền nhiệm lắm vì nó là nguồn gốc của tất cả phép lạ đã tạo nên vũ trụ này. Nó như cái gương trong đó, vũ trụ này hiện lên như một cảnh huyễn, như một giấc chiêm bao, như tiếng vang, như mặt trăng dưới đáy nước, như bóng chiếc nhạn in dưới hồ thu, như ảo ảnh nước mà kẻ lữ hành nhìn thấy trên sa mạc, như những đóm đỏ vàng mà kẻ dặm mắt nhìn thấy ở hư không. Hãy thức tỉnh! thức tỉnh! Cái Tâm ấy hiển hiện dễ dàng lắm, nhưng nó khó nắm, khó bắt lắm! Nó không ở trong thân người, nó không ở ngoài thân người, nó cũng không ở khoảng giữa. Nó không ở chỗ nào hết, nhưng nó ở tất cả. Nó trụ vào cái gì, thì cái đó trở nên có, nó buông cái đó ra thì nó trở nên không. Nó là anh thợ vẽ, và chính nó vẽ vời nên cảnh thế gian này cùng tâm giới. Nó động một niệm là nó nguệch một nét, nét đó biến thành thức, thức đó động lại trên giòng tâm tư của chúng sinh để trở nên cảnh giới của vũ trụ thế gian… Nhưng nếu người tỉnh cơn mê, dẹp bỏ lục tặc là lục căn, thì cái thức đó sẽ hồi đầu, rút khỏi các căn và trở về ngươi sẽ nắm được cái Tâm”

Sau này, Đức Huệ Năng gọi Tâm đó là bản lai diện mục.

Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật còn dậy: “Caí Tâm ấy, bổn tính nó vốn trong sáng. Vì thế, các ngươi mới có “cái thấy”. Cái thấy này là nồng cốt của lục căn, nhưng nó không phải là lục căn. Lục căn có thể bị tiêu hoại, nhưng nó không tiêu họai. Nó không gián đoạn, nó bất diệt, và chính nó đã triển chuyển theo lẽ nhân quả, trong cái vòng luân hồi qua các kiếp.

Đọc Tây Du Ký, thì ta thấy Tề Thiên Đại Thánh là cái Tâm. Nó ngang ngược, thay đổi không ngừng, nhưng quyền năng của nó vô cùng. Nó có thể phá cửa nhà trời, cũng như có thể hồi đầu khi bị giam bởi thần lực của câu chú: Ôm Ma Ni Pát Mê Hồng. Nó muốn lớn là được lớn, muốn nhanh được nhanh, muốn chậm có chậm. Có thể biến hóa cây thiết bổng, có thể bước một bước càn đẩu vân vượt qua 84 ngàn dặm, hoặc muốn bay như con ruồi cũng được. Muốn có một thân cũng được, hoặc phân thân làm trăm ngàn cũng có… Và ngài Huyền Trang đã phải nương vào cái Tâm đó, mới đi tới Tây Trúc cầu cuốn kinh Vô Tự.

Bây giờ nói đến Phật.

Đức Bồ Đề Đạt Ma, chống cây gậy trúc sang Trung Hoa ngồi quay mặt 9 năm vào vách đá, nhắm đôi mắt biếc lại. Vua Lương Võ Đế hỏi: “Trẫm xây hàng trăm ngôi chùa, nuôi hàng vạn chư tăng, có công đức gì không? Đức Đạt Ma trả lời: “Có chút ít, nhưng không ăn thua gì.” Sở dĩ Ngài nói thế vì muốn bảo Vua rằng cần nhất là phải soi vào Tâm, để trở thành Phật… Trong một buổi thuyết pháp, Ngài lại bảo: “Phật và Bồ Tát cũng đều là huyễn cả!!!

Trong bổn kinh A Di Đà, thì Đức Thích Ca lại căn dặn: “Về phía Tây, có lạc quốc của A Di Đà, bên cạnh có Đức Quán Âm và Đại Thế Chí. Đức Phật ấy có thực đấy và nguyện lực của Ngài lớn lắm. Các người nên cầu nguyện và sang đó.”

Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy, một đằng bảo Phật là rất có thực, một đằng nói là huyễn?

Thực ra không có gì mâu thuẫn. Chỉ là do Mê và Ngộ mà thôi.

Chư Phật vừa là Huyễn vừa là Thực. Khi Tâm chúng ta còn mê mờ, chúng sinh coi Thân và Tâm là thực, thì chư Phật đối với chúng sinh vẫn là thực và có thể dùng tha lực cứu độ

Nhưng khi Tâm chúng sinh đã ngộ rồi, thì chúng sinh cũng trở thành huyễn, và chư Phật, vốn là những hình bóng, cũng trở thành huyễn. Vì cái Tâm ngộ đã vượt qua được lãnh vực đối đãi (dualistic) và đạt tới trực quan bất nhị (phi hữu phi không).

Bởi thế, khi một người niệm Phật, và nuôi một ông Phật trong Tâm, thì lúc đầu chỉ có một ông Phật trong Tâm thôi. Niệm lâu sẽ gây một luồng cảm ứng làm động tâm đức Phật ở bên ngoài, tức đức A Di Đà ở Tây Phương. Đức A Di Đà liền làm mọc sẵn một chiếc hoa sen nơi lạc quốc để chờ người niệm Phật. Niệm lâu hơn nữa, thì đức A Di Đà sẽ đến trước mặt người đó. Như thế là có hai vị Phật, một ở ngoài và một ở trong tâm. 

Niệm đến chỗ rốt ráo và tâm bất loạn, thì đức A Di Đà sẽ lọt vào Tâm người đó, và trở thành một, và Phật thực cũng trở nên huyễn.

Cho nên, không thể nói Phật ở ngoài tâm hay trong tâm được. Nói ở ngoài là nói thấp, nói ở trong là cao hơn một chút. Đến chỗ rốt ráo, thì Phật là Tâm và Tâm là Phật. Cả hai vừa là Thực, vừa là Huyễn. Vả lại, Tâm ở tất cả mọi chỗ, nên không có trong hay ngoài.

Có mấy chú học sinh thiền học ngồi cãi nhau, chỉ một tảng đá trước mặt, và tranh luận hăng hái. Kẻ thì bảo tảng đá ở ngoài Tâm, một anh khác hùng biện hơn nói là ở trong Tâm, và có vẻ thắng lý. Chợt ông thầy đi qua, cười bảo anh này: “Đá ở trong Tâm mày chắc đầu mày phải nặng, và nhức đầu lắm!…”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Giêng 2017(Xem: 4559)
14 Tháng Tư 2016(Xem: 5321)
Nền tảng của đạo Phật là Trí tuệ và tình yêu được bắt đầu từ đó. Ngày này có ai biết Phật dậy như thế nào về tình yêu không? Yêu thương theo phương pháp của đạo Phật là tình yêu từ bi hỉ xả, là hiểu biết và yêu thương.
22 Tháng Ba 2015(Xem: 8931)
Từ xa xưa đã có hiện tượng cư sĩ tham gia tu tập Thiền, Tịnh Độ và học tập nghiên cứu Phật Học; nhưng thời cổ đại, việc cư sĩ tại gia học Phật là hành vi tự phát riêng lẻ, không có tổ chức đoàn thể đại chúng cùng tu tập.
22 Tháng Ba 2015(Xem: 7183)
Sự hộ pháp của hàng cư sĩ thời Đức Phật đơn giản trong khi hiện tại đa dạng và phức tạp. Ngày xưa, cư sĩ chỉ hộ pháp bằng cách cúng dường thức ăn hay không gian tu tập nhỏ nào đó thì ngày nay họ phải cúng dường nhiều thứ theo nhu cầu thực tế.
17 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 11661)
Hành trang tôi mang đi là gì nhỉ? Một cái tâm đầy rẫy những phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, oán ghét, chối bỏ... Và cũng một mảnh tâm đó, tôi tràn ngập can đảm, quyết tâm và đương đầu. Trước lúc đi tôi có nói với một người bạn không hề biết mặt: "Tôi phải đi. Trường đại học không dạy tôi, ba mẹ không dạy tôi, bạn bè không dạy tôi,...
03 Tháng Sáu 2014(Xem: 11019)
Đây là một tác phẩm hiếm gặp, được biên soạn công phu bởi Thầy Thích Nhật Từ, thích hợp và cần thiết cho hầu hết các gia đình cư sĩ Việt Nam. Có thể nói, đây là một tuyển tập kinh cực kỳ quan trọng, vì nơi đây biên dịch lại tất cả những lời dạy thích nghi của Đức Phật để xây dựng một xã hội hòa hài, người người tôn trọng và yêu thương nhau, và trong tận cùng là xa lìa tham sân si để chứng ngộ Niết bàn.
27 Tháng Hai 2014(Xem: 12538)
09 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9171)