● Vận Động Thành Lập Hội Chúng Ni ở Thái Lan

24 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 6520)

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI
NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ:
Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam
Nhà xuất bản: PHƯƠNG ĐÔNG 2011

Phần I
SỰ THỌ GIỚI,
HỆ PHÁI VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI TĂNG ĐOÀN

Vận Động Thành Lập Hội Chúng Ni Ở Thái Lan

 

 phatgiaovanugioi-02Tỳ Khưu-ni Dhammananda (Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh) đã du học tại Ấn Độ và Canada. Bà đã trải qua 32 năm dạy học tại Khoa Triết Học & Tôn Giáo ở trường đại học nổi tiếng Thammasat, Thái Lan. Bà đã ly dị, có ba con trai đã trưởng thành và ba cháu nội.
CHATSUMARN KABILSINGH:
Cuộc đời bà đã chuyển hướng năm 2000 khi bà thọ nhận Bồ-tát Giới tại Phổ Quang Sơn ở Đài Loan. Năm sau đó, 2001, bà đã thọ nhận giới sa-di ni tại Tích Lan. Năm 2003, bà thọ giới tỳ-khưu ni cũng tại Tích Lan.
 Chatsumarn Kabilsingh là con gái của Voramai Kabilsingh. Bà là người tranh đấu tích cực cho nữ quyền. Bà dạy thiền và thường tổ chức các khoá tu dành riêng cho nữ giới tại Thái Lan.

*

* *

Mẹ tôi xuất gia làm nữ tu (mae chi) cách đây ba mươi sáu năm, lúc tôi được mười tuổi. Bà đã biến nhà chúng tôi thành một ngôi chùa. Dần dần các nữ tu khác đến ở với bà. Đến cuối năm đầu tiên, chúng tôi có độ hai mươi người. Họ đắp y màu vàng nhạt.

Quyết định trở thành nữ tu của mẹ tôi là đỉnh điểm của nhiều yếu tố. Khi cha tôi còn là một dân biểu, mẹ tôi thường đi theo ông. Bà là ký giả. Khi đi theo ông để tường thuật về các sinh hoạt ở thôn quê, bà đã thấy nhiều trẻ em nghèo. Chúng là tương lai của đất nước, nhưng lại không được ai giúp đỡ gì cả. Bà quyết định thành lập một viện mồ côi. Bà cũng thích hành thiền. Bà đã đạt được một tầng thiền cao nào đó. Bà tin rằng nếu trở thành người tu, bà có thể giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu hơn.

Tôi còn quá trẻ để thích hay không thích việc mẹ tôi trở thành nữ tu và việc biến nhà thành chùa. Nhưng tôi nhớ lại cảm giác khó chịu khi mẹ đến trường tôi học vì tôi không biết phải giải thích chuyện này với các bạn học như thế nào. Mẹ tôi luôn là người mà lời nói của bà trở thành luật lệ trong nhà và chúng tôi chỉ việc làm theo bất cứ điều gì bà muốn. Tôi đã tham gia vào việc tụng kinh và tất cả mọi hoạt động trong chùa. Tôi đã lớn lên trong một hoàn cảnh như thế.

Khi chúng tôi dọn đến nơi này, mẹ tôi mở trường và chị tôi phụ giúp bà. Đó là ngày mà trường học mở ra cho công chúng. Lúc đầu chúng tôi có rất ít học trò, độ ba mươi em. Bây giờ chúng tôi có bốn trăm em. Khi học sinh nghỉ hè, chúng tôi dành nơi này cho phụ nữ đến tu thiền.

Chúng tôi đã từng có một cô nhi viện. Có năm người chúng tôi phải chăm sóc cho tám mươi người, vừa trẻ em vừa nữ tu. Sau ba mươi lăm năm chúng tôi đang bước vào thời kỳ suy thoái, vì mẹ tôi trở nên già yếu. Bà từng rất tích cực hoạt động, nhưng cách đây ba năm bà đã ngưng tất cả mọi hoạt động bà đã từng tham gia. Trong suốt ba mươi hai năm, mỗi tháng bà đều xuất bản một tờ nguyệt san. Năm ngoái, bà đã ngã bệnh và không còn ngồi dậy nổi nữa. Cô nhi viện đã đóng cửa cách đây mười năm. Vì nó đã trở nên một gánh nặng cho mẹ tôi, trong khi tôi chưa sẵn sàng để thay thế cho bà.

Khi còn hoạt động tích cực, mẹ tôi vừa là giám đốc điều hành vừa là cố vấn cho trường học và cho cô nhi viện. Còn các tu nữ thì cũng vừa dạy học vừa chăm sóc cho các em mồ côi. Chúng tôi cũng tự trồng trọt lấy. Một khu đất rộng của chùa được dùng để trồng lúa và chúng tôi trồng đủ lúa cho nhu cầu của mình. Tôi đang suy tư về sự suy thoái của chùa. Chúng tôi đã làm gì sai? Đó là lý do tại sao tôi quan tâm đến việc tổ chức các khóa tu thiền, việc tu tập để hiểu Pháp học và Pháp hành hơn.

Mẹ tôi giống như một nhà lãnh đạo tâm linh, nhưng đã đi quá nhanh đến nỗi bà bỏ bạn đạo lại phía sau khá xa. Ít người hiểu bà đang làm gì. Họ làm việc, lao động chung với bà nhưng không cùng chung chia sẻ được tâm và trí. Đây là điều khiếm khuyết mà tôi thấy được trong tổ chức này. Chúng tôi phải làm việc cật lực chung với nhau, bất cứ tôi làm điều gì thì các đệ tử của tôi phải hiểu rõ điều đó và cùng làm với tôi.

Tôi dần tiếp nối công việc của mẹ, giữ cho ngọn lửa nhiệt tình vẫn cháy, nhưng theo một hướng hơi khác. Theo truyền thống Phật giáo, muốn tạo công đức thì hãy xây chùa. Tôi đã nói với mẹ là khi tôi có quyền hạn, thì thay vào đó, tôi sẽ đào tạo con người. Sở dĩ chúng tôi có được cơ sở khang trang ở nơi này, là vì mẹ tôi đã bỏ rất nhiều tiền vào các công trình xây dựng. Bà đã rất thành công, rất có khả năng trong việc gây quỹ để xây dựng bao công trình cho chúng tôi. Giờ đây chúng tôi đã có đầy đủ cơ sở, thì trách nhiệm duy nhất của chúng tôi là bảo trì chúng, giữ cho chúng được lâu bền, nhưng phải có người ở trong đó, những người hộ Pháp. Tôi không có ý tham gia quá nhiều vào các hoạt động xã hội và an sinh xã hội. Chúng tôi sẽ giúp cho con người có đủ sức mạnh để tự bước trên đôi chân của họ. 

Đã nhiều lần tôi có cảm giác mình phải trở thành nữ tu. Đến lúc đó, tôi phải rất chắc chắn về điều này. Một khi được xuất gia tôi sẽ không hoàn tục, đó phải là nguyện ước của cả đời. Tôi không thể thối lui vì tôi phải làm gương. Là người tu sĩ thì phải làm gương tốt, nếu không thì thà đừng xuất gia ngay từ đầu. Tôi đang đợi đúng lúc khi mà cơ bản đời sống tôi đã đủ vững chắc, khi tôi có đủ tài chánh và địa vị xã hội. Tôi cảm thấy đời tôi giống như một tam giác. Tôi cũng muốn các con tôi đủ sức tự lập. Chồng tôi đã biết điều đó ngay từ đầu. Khi ông hỏi cưới tôi, tôi đã nói rằng ước nguyện của tôi là trở thành nữ tu.

Gần đây tôi đi đây, đi đó nhiều. Trong mỗi chuyến đi, tôi được yêu cầu hướng dẫn hành thiền. Tôi chưa tự xem mình là một thiền sư, nhưng các thiền sinh dường như học hỏi được nhiều điều chỉ bằng việc ngồi lại với nhau. Đầu tiên thì chỉ có người Tây phương yêu cầu điều này, nên tôi bắt đầu nghĩ là mình không giúp ích gì được cho chính người dân của mình. Năm ngoái tôi đã có vài buổi nói pháp. Một số người muốn hành thiền vì dường như hành thiền rất hữu ích cho họ. Điều này làm tôi tự tin hơn và tôi bắt đầu suy nghĩ về việc hướng dẫn vài khóa thiền. 

Chúng tôi đã có cơ sở ở đây và các cư sĩ lo việc ăn uống, phục vụ cho chúng tôi. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng. Khóa thiền đầu tiên có độ một trăm lẽ tám người. Không được thành công so với những gì tôi dự đoán, nhưng nhiều thiền sinh rất hoan hỷ với khoá tu. Nhiều người đã đạt được điều gì đó. Dường như sau khoá tu, họ trở nên tự tin và an lạc hơn, thật cũng đáng công. Trong khóa thiền đầu tiên tôi để ra ba ngày khác nhau: ngày đầu dành cho sự buông xả, ngày thứ nhì để xây dựng tâm từ và ngày cuối cùng là học cách tha thứ.

Điều mà tôi hướng dẫn rất căn bản nên tôi chưa cần đi vào chi tiết. Chúng tôi làm hai việc cùng một lúc: hướng dẫn các thiền sinh và để họ tự tu. Chúng tôi sẽ có các cuộc họp nhóm, khá thường xuyên để rèn luyện các thiền sinh, để họ có thể trở thành các giảng viên. Lúc đó họ có thể dạy trong khu vực của họ, trong khắp nước.

Chúng tôi muốn nhóm lên những ngọn lửa khắp đó đây, và hy vọng nó sẽ tạo sức mạnh cho nữ giới. Khóa học ở đây là làm thế nào để trở nên một người Phật tử tốt có hiểu biết về pháp học và pháp hành. Các thiền sinh sẽ trở thành những hành giả thực hành Giáo Pháp giỏi với một chút nữ tính. Tôi cũng hy vọng là họ sẽ tham gia vào các công tác xã hội. Khóa tu là rèn luyện để hiểu biết. Chúng ta phải biết vấn đề của mình và khổ đau mà ta đã vô tình gây cho kẻ khác. Thường thì chúng ta chỉ biết riêng phần của mình, vì thế chúng tôi cố gắng giúp các thiền sinh tự biết mình tốt hơn và tự cải thiện ngỏ hầu phục vụ xã hội tốt hơn. Không phải chỉ cho bản thân chúng ta; khóa học này giúp chúng ta phục vụ người khác tốt hơn.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Ba 2016(Xem: 6116)
Lời giới thiệu của người dịch: Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết về một phụ nữ Pháp thật phi thường là bà Alexandra David-Néel (1868-1969), đăng trên tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste, số l1, năm 2015). Trong Phật giáo có rất nhiều phụ nữ siêu việt và khác thường, xứng đáng cho chúng ta ngưỡng mộ và kính phục, mà bà Alexandra David-Néel là một trong những người phụ nữ ấy. Bài chuyển ngữ dưới đây là bài thứ ba trong một loạt bài với chủ đề "Phật giáo và người phụ nữ":
07 Tháng Ba 2016(Xem: 5719)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết ngắn phân tích hiện trạng của người nữ tu sĩ Phật giáo trên toàn thế giới. Trong suốt lịch sử nhân loại, vị trí của người phụ nữ luôn bị xếp vào hàng thứ yếu trong xã hội, và người nữ tu sĩ thì "thấp kém" hơn các nam tu sĩ trong lãnh vực tín ngưỡng. Phật giáo cũng không hoàn toàn tránh khỏi ảnh hưởng của tình trạng đó, dù rằng điều này đi ngược lại Giáo Huấn của Đức Phật. Bài này được viết cách nay đã 10 năm, trong khoảng thời gian này nhiều cải thiện đã được thực hiện, thế nhưng dường như vấn đề này vẫn còn là một đề tài nóng bỏng.
11 Tháng Giêng 2016(Xem: 10491)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu từng kỉnh pháp và liên hệ với bối cảnh mà Bát kỉnh pháp ra đời.
07 Tháng Giêng 2016(Xem: 6328)
Dưới đây là phần chuyển ngữ của một bài viết trong quyển "Người phụ nữ" ("Les Femmes", nhiều tác giả, nhà xuất bản de l'Atelier, 2002), thuộc một bộ sách với chuyên đề "Các tôn giáo nghĩ gì?" (Ce qu'en pensent les religions). Tác giả bài viết này là Dominique Trotignon, nguyên tổng giám đốc Viện Nghiên Cứu Phật Học (IEB/Institut d' Etude Bouddhique) của Pháp, tu tập theo Phật giáo Theravada.
02 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6147)
Dù Phật giáo luôn quan tâm đến việc nêu cao trước quảng đại quần chúng hình ảnh của một tín ngưỡng phi-bạo-lực và mở rộng, thế nhưng đôi khi cũng không tránh bị cáo buộc là kỳ thị phụ nữ (misogyny) và phân biệt giới tính (sexism), nhất là khi nhìn vào vị trí của người phụ nữ trong sinh hoạt tập thể chốn chùa chiền.
13 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6766)
“Những nữ Phật tử đầu tiên” - The First Buddhist women - nói về các nữ đệ tử đầu tiên của Đức Phật nhằm khai thác thái độ tương đối tự do của Phật giáo đối với phụ nữ kể từ khi hình thành gần 2.600 năm về trước.
04 Tháng Chín 2015(Xem: 6058)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
11 Tháng Sáu 2015(Xem: 9799)
Vấn đề phá thai đã gây ra những bất đồng sâu xa về xã hội và chính trị ở Đông cũng như Tây Phương. Phật tử ở mọi nơi đều có bổn phận đưa ra sự chỉ đạo khôn ngoan cho những người gặp phải vấn đề nhức nhối này.
11 Tháng Sáu 2015(Xem: 15179)
Câu hỏi của tuần nầy đến từ Cô Gái Đẹp (Pretty Girl): Tôi là một người mẹ độc thân, đang nuôi một đứa con còn bé, mới bốn tuổi. Tôi năm nay 41 tuổi, và tôi đã có thai ba lần. Lần có thai đầu tiên, tôi đã phá thai, rồi sau đó, tôi cảm thấy không thể tha thứ cho chính tôi.