Khám Phá Bản Chất Của Thực Tại

08 Tháng Hai 201300:00(Xem: 11807)

KHÁM PHÁ BẢN CHẤT CỦA THỰC TẠI
Các quan điểm Phật giáo và khoa học
Phúc Cường dịch

Khóa Hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tại Drepung ngày thứ nhất. Drepung Lachi, Mundgod, Karnataka, Ấn Độ, ngày 17 tháng một năm 2013 – tại sảnh chính của ngôi tự viên Drepung Lachi với khoảng 1000 các nhà khoa học, các Lạt ma, tăng sĩ, sinh viên và khách mời cung đón Đức Đạt Lai Lạt Ma Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Ngay sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma an tọa, Geshe Lhakdor, Giám đốc Thư viện Tibetan Works & Archives, Dharamsala, đã thay lời cung đón tất cả quý thính chúng và bày tỏ niềm tri ân tới tâm nguyện ​​của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khuyến khích các đối thoại giữa khoa học hiện đại và khoa học, triết học Phật giáo. Ông cũng lưu ý tầm quan trọng của khóa hội đàm này diễn ra trong một khung cảnh tự viện.

Chủ đề buổi sáng là Khám phá Bản chất của Thực tại: Các quan điểm Phật giáo và khoa học. Đây là phần dẫn nhập cho toàn khóa hội đàm. Giáo sư vật lý học Arthur Zajonc, Chủ tịch của Viện Tâm thức & Đời sống, nhắc lại rằng những buổi hội đàm đầu tiên đã diễn ra 25 năm trước và hiện nay khoa học đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại tự viện. Đây là một bước chuyển can đảm, ông nói, nhưng cũng làm rõ rằng khoa học không phải là một nhánh của chủ nghĩa vật chất, mà là một nỗ lực để thâm nhập thực tại.

"Chúng ta dựa vào sự chứng thực của giác quan sử dụng năng lực của tâm thức. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm của chúng ta với mong nguyện đem lại lợi ích cho nhân loại. "

 

blank

Đức Đạt Lai Lạt Ma tại phiên thảo luận đầu tiên khóa hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tổ chức tại Tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, ngày 17 Tháng 1 năm 2013. Ned Dunn

Giáo sư Tâm lý và tâm thần học Richie Davidson nhận xét:

"Những khám phá của chúng ta đã dẫn đến những lợi ích to lớn trong việc chăm sóc sức khỏe và giáo dục, cả hai lĩnh vực này hiện nay đều lĩnh hội sự thực hành tỉnh thức".

Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ rằng bởi phần lớn thính chúng là người Tạng nên ngài sẽ trao đổi bằng ngôn ngữ Tạng. Ngài nhắc lại với các nhà khoa học những chia sẻ của mình tại buổi gặp gỡ ngày hôm trước ở tự viện Drepung rằng, các phẩm chất như tính khách quan, trí thông minh và sự nhiệt huyết nơi các nhà khoa học mà một số trong đó ngài từng gặp gỡ, hội đàm trong nhiều năm qua, hội đủ các tiêu chuẩn mà nhà hiền triết Ấn Độ Aryadeva đòi hỏi ở những người lĩnh hội tri thức.

"Hiện nay trong việc tu học tại các tự viện, chúng tôi phần lớn dựa vào trích dẫn nguồn kinh điển, nhưng chúng tôi cũng cần phải sử dụng tới biện luận. Trong tìm hiểu thực tại của Phật giáo, về truyền thống chúng tôi sử dụng bốn nguyên tắc biện luận: tính phụ thuộc, chức năng, bản chất và sự chứng thực."

Ngài chia sẻ rằng trong các khảo cứu của mình, dường như các nhà khoa học cũng tìm kiếm sự xác thực, và để đạt được mục đích, họ dựa vào các thuộc tính như phụ thuộc, chức năng và bản chất. Cả hai cách tiếp cận có thể giống nhau. Ngài đề cập đến bốn trụ cột dẫn đường cho những truy tầm trong Phật giáo: Y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa. Ngài cũng nhắc tới sự phân loại cấp độ hiện tượng trong Phật giáo: cấp độ rõ ràng, cấp độ khá vi tế và cấp độ vô cùng vi tế.

Trong khi truyền thống Phật giáo phát triển các phương tiện để đạt hạnh phúc thông qua điều phục những cảm xúc phiền não, thì khoa học đã tập trung vào sự phát triển vật chất, hướng trọng tâm kiếm tìm chân lý và thực tại. Phật giáo và khoa học hiện đại đòi hỏi những cách tiếp cận chung để mở rộng tri ​​thức phục vụ lợi ích cho nhân loại.

"Cùng với việc trì giữ truyền thống văn, tư, tu đạo Phật, tôi mong nguyện rằng chư tăng tại đây sẽ có những hiểu biết về các khảo cứu sâu sắc của khoa học.”

"Khi tôi đặt vấn đề với các giáo thọ về sự quan tâm của mình trong lĩnh vực khoa học, các ngài đã trả lời rằng điều đó mang lại ý nghĩa. Tuy nhiên, mặc dù chúng tôi có quan tâm đến khoa học, nhưng không có nghĩa là chúng tôi dành tất cả năng lượng của mình cho khoa học. Tôi dành phần lớn thời gian của mình để thiền định về tình yêu thương, lòng bi mẫn, và trí tuệ, đó là nguồn cội cho sự quan tâm của tôi tới khoa học. Cũng chính sự rèn luyện về biện luận và triết học Trung đạo đã mang lại cho tôi một cách thức tư duy, một phẩm chất rất hữu ích đối với các nhà khoa học. "

Trong bài thuyết trình về các viễn cảnh Phật giáo và triển vọng, Giáo sư vật lý học Arthur Zajonc nhắc lại về sự tương đồng giữa đức Đạt lai Lạt ma khi còn trẻ, đã chiêm ngưỡng mặt trăng trên nóc cung điện Potala qua kính viễn vọng của hóa thân đời trước của ngài và khám phá vĩ đại của Galileo vài thế kỷ trước đó.

"Ngài đã chiêm ngưỡng và suy luận. Ngài đã thấy rằng ánh sáng từ mặt trời chiếu bóng tối lên mặt trăng. Năm 1607, Galileo, đã sử dụng một kính viễn vọng do ông chế tạo, và đã nhìn thấy những ngọn núi trên mặt trăng. Ông đã thay đổi chiều hướng của nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, vào năm 1633 Nhà thờ Công Giáo đã kết tội ông là dị giáo và ông đã bị quản thúc tại nhà".

blank

Arthur Zajonc thuyết trình trong buổi đầu tiên khóa hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tổ chức tại Tu viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, ngày 18 tháng 1 năm 2013. Photo / Jeremy Russell / OHHDL

Đức Đạt Lai Lạt Ma đáp lại:

"Khi đó không phải là tôi đang tìm "chú thỏ trên cung trăng ", mà tìm phương hướng của các bóng tối ở đó, tôi suy luận rằng nguồn gốc của ánh sáng là từ mặt trời. Tôi đã chỉ cho các thầy giáo thọ và các ngài cũng đồng ý với những điều đó. "

"Tôi tin rằng tiến trình lịch sử đã được thay đổi một lần nữa," Giáo sư Arthur nói thêm, "bằng cách đưa tôn giáo và khoa học lại cùng nhau, những cống hiến của quý ngài là vô cùng to lớn. Và Viện Tâm thức và Đời sống đã thực hiện nhiệm vụ đưa hai lĩnh vực lại cùng nhau.”

Giáo sư Richie Davidson đặt câu hỏi:

"Tại sao Khoa thần kinh học lại rất phong phú và tại sao kết quả lại có hiệu quả như vậy? Bởi vì nhiều vấn đề của chúng ta cũng là trung tâm trong Phật giáo – bản ngã là gì và ở đâu? Về hoạt động của bộ não, đâu là sự khác biệt giữa tư tưởng khái niệm và vô niệm, và sự khác biệt giữa cảm xúc phiền não và tích cực là gì? "

Ông đã đưa ra những thuyết minh ngắn bằng hình ảnh về sự chớp mắt chú tâm, thay đổi trong trạng thái nhắm mắt và nhận ra các biểu hiện trên khuôn mặt, qua đó cho thấy không phải lúc nào bộ não cũng chính xác khi đánh giá hiện tượng.

"Bộ não người có lẽ là phần vật chất phức tạp nhất trong thế giới," ông nói, "mặc dù vậy các nhà khoa học có rất ít ý niệm về cách thức hoạt động của nó. Mặc dù chúng ta biết rằng nó là nguồn gốc mang lại cả sự ảo tưởng lẫn sự sáng suốt."

Trong khóa hội đàm buổi chiều, liên quan đến Khả năng của Khoa học: Tri thức và Bản chất Thực tại, Tiến sĩ Thupten Jinpa luận giải rằng ông đã quyết định trình bày tiếng Tây Tạng. Ông cho rằng sự vô thường, một chủ đề quan trọng trong triết học Phật giáo được giải thích hoàn toàn khác biệt trong truyền thống khoa học. Ông lưu ý rằng năm ngoái, quyết định đưa nội dung khoa học vào chương trình tự viện, nhưng để thực hiện như thế nào vẫn cần phải được thảo luận. Bởi vì việc giới thiệu khoa học cho chư tăng sẽ không thể giống như trong trong các trường học thế tục.

"Nếu khoa học là một phương pháp điều tra, vậy đặc điểm nổi bật của nó là gì? Như Chủ tịch của Viện Tâm thức và Đời sống cho biết sáng nay khi ông chia sẻ về mối quan tâm và sự quan sát mặt trăng của đức Đạt Lai lạt ma, khoa học đòi hỏi phải quan sát, đưa ra giả thuyết về cơ sở dữ liệu thực nghiệm và phân tích, kiểm tra các giả thuyết đó. Cả Phật giáo và khoa học đều phải dựa trên những tiến trình chân thực."

Đức Đạt Lai Lạt Ma chăm chú lắng nghe Giáo sư Lịch sử và triết học khoa học John Durant thuyết trình thay mặt cho vợ ông là Giáo sư lịch sử khoa học Anne Harrington. Giáo sư khoa thần kinh học Wendy Hasenkamp đã đưa ra một giới thiệu ngắn về chức năng của bộ não với những hình ảnh minh họa về các hoạt động của tế bào thần kinh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng sẽ rất hữu ích khi khoa học thần kinh có thể phân biệt giữa các quá trình khái niệm và phi khái niệm, ngài gợi ý rằng một trong những trường hợp đó là trạng thái giấc mơ, khi đó rõ ràng tâm thức vận hành ở một mức độ vi tế và những tác động bên ngoài tới giác quan đã bị đóng lại.

Phúc Cường trích dịch
Nguồn: Dalailama.com/news

 



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
29 Tháng Ba 2016(Xem: 14689)
Thật sự thì cũng định trả lời kiểu “cộc lốc” ngay lúc con nhắn thư hỏi rồi, nhưng thiết nghĩ, nên trích dẫn bài kinh liên quan đến vấn đề này cho nó khoa học hoá vấn đề chút. Dù sao thì con người thời nay vẫn thích “trích chương tầm cú” và “mê tín khoa học” hơn! Mà lạ lùng thay, chính đức Phật lại là người đầu tiên trả lời thực tế và giản dị một cách lạ thường mà thời nay có thể cho rằng nói kiểu đó là thô tục, không lịch sự. Nhưng có lẽ nhờ dùng từ miêu tả không bóng bẩy như vậy mà trúng tim đen người nghe. Thầy tạm dịch theo lối văn cộc lốc để lấy nghĩa cho con thấy: “Này Vāseṭṭha, rõ ràng rằng, những bà mẹ của họ đến tháng có kinh nguyệt, mang bầu, sinh đẻ, rồi cho con bú mớm. Họ toàn sinh ra từ bộ phận sinh dục của những bà mẹ ấy cả. Vậy mà họ mở miệng ra là ca tụng giai cấp Bà-la-môn là cao thượng, thanh tịnh, da trắng, là con cái, là thái tử sinh ra từ miệng của Thượng đế (Phạm thiên), Thượng đế tạo ra, là nối dõi của Thượng đế, còn giai cấp khác là hạ liệt…” [2]
28 Tháng Ba 2016(Xem: 6169)
“In my Heart Sutra’s view, one plus one equals three , and two minus one equals emptiness ().” Tru Le Nhị nguyên nhi sinh tam thừa (phải trái và trung đạo,) và 1= Sắc = = Không. Nên nhớ định đề Bát Nhã: Không không phải Không mà là Không.
30 Tháng Tám 2010(Xem: 56276)
Quyển A Brief History of Time của Stephen W . Hawking đã bán trên 22 triệu quyển ở khắp thế giới và đã được dịch trên 35 thứ tiếng. Tôi nhớ đâu đó tác giả nói rằng ai đọc hiểu quyển này thì sẽ có trình độ hiểu biết về Vật lý học ngang hàng Với một kẻ đậu tiến sĩ Vật lý học. Mặc dù tác giả đã cố gắng viết một cách phổ thông dễ hiểu, nhưng quyển A Brief History of Time không phải dễ hiểu như lúc mình mới đọc sơ qua. Trên 10 năm qua, tôi đã được dịp đọc lại nhiều lần quyển sách của Hawking và thấy rằng : “Thấy Thượng Tọa Viên Lý đã tập trung thiên lực và định lực để làm vài ba sự việc ít ai làm được: đã dịch hai tác giả khó hiểu nhất của nhân loại , một người mang tên là Long Thọ (Nagarjuna) và một người mang tên là Stephen Hawking: một bên là cái khó khăn nhất của Đạo học Đông – phương và một bên là cái khó khăn nhất của Khoa học Tây phương. Chỉ nội nỗ lực vĩ đại truyền đạt hai cái khó khăn nhất của Phật học và Khoa học, Thượng Tọa Viên Lý đáng được chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, đó là chư
03 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6588)
Muốn khảo sát vũ trụ hiện hữu thì trước nhất phải biết rõ chính mình, hiểu rõ người, chúng sinh, và vạn vật rồi mới có thể nghiên cứu tới vũ trụ quan. Thế nên, điều thực tiển trước nhất cho nhân sinh là quay trở về chính mình để biết mình là ai, từ đâu tới, đang làm gì và sẽ đi đâu?
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5982)
Nhà khoa học dùng logic kiểu Descartes để tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên, còn Phật giáo, theo tôi hiểu , dùng tư duy đạo đức, triết học để giác ngộ và giúp nhân loại diệt khổ. Tuy nhiên, khoa học và Phật giáo không phải là không tương hợp với nhau. Một Phật tử có thể là một nhà khoa học lỗi lạc. Nhưng nếu dùng khoa học để giải thích một hiện tượng siêu hình, đối với tôi, là không thực tế.
10 Tháng Mười 2015(Xem: 9614)
Từ bi có sức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không? Trước tiên, từ bi sẽ chuyển hóa được cả thân và tâm của người tu tập.
17 Tháng Chín 2015(Xem: 11533)
Trong quyển Cơ Sở Khoa Học của Thiền Chánh Niệm, nội dung nhấn mạnh đến những phương pháp thực hành Chánh Niệm. Nội dung quyển này chú trọng đến những khám phá mới về vận hành của não khi thực hành Chánh niệm qua ánh sáng khoa học.
01 Tháng Chín 2015(Xem: 7849)
Tôi cũng xin tâm tình đôi chút . Hôm nay là ngày giỗi mẹ tôi . Ngày mẹ tôi mất cách đây 16 năm , lần đầu tôi nghe và đọc Bát Nhã Tâm Kinh : “Sắc bất dị không , không bất dị sắc ; thọ , tưởng , hành , thức , diệc , phục như thị …” và tìm đến triết lý “tánh không” của ngài Long Thụ . Qua cuốn sách của anh Bách , tôi suy ngẫm về cái Không lượng tử theo đó chân không là vật chất , vật chất là chân không , hai cái đó chỉ là một giả ngữ , chúng liên hoàn tương tác với nhau , cái này chứa cái kia ; chân không , vật chất chẳng sao tách biệt .
01 Tháng Chín 2015(Xem: 5751)
21 Tháng Năm 2015(Xem: 6089)
Sinh học Di Truyền đã làm một cuộc cách mạng trong Y khoa và đối với quần chúng gene được xem trong bộ Genome là những nhà độc tài mới. Ví dụ nếu chúng ta có một gene gây ra một bệnh di truyền huyết thống, thế hệ kế tiếp thế nào cũng mắc một bệnh tương tự, chạy trời không khỏi nắng!