Mùa báo hiếu

11 Tháng Tám 201611:34(Xem: 6001)

blank

MÙA BÁO HIẾU 
Minh Đức Triều Tâm Ảnh

 

blankMùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất. Tôi bần thần, dã dượi. Chiều nay không viết được trang sách nào cả. Ngồi uống trà và ngắm nhìn mây trời lang thang. Ôi! Thu!

Tôi lại nhớ mẹ tôi quá! Mái tóc bà bạc trắng. Có cái lưng còng hình chữ U. Suốt một đời ăn ở hiền lành, tốt bụng; nắng mưa tần tảo, lụm cụm lo cho chồng, cho con, cả cho cháu nữa; đêm nào cũng lần tràng hạt, niệm kinh! Mẹ ơi! Bây giờ mẹ ở đâu?

Ôi! Nếu hiểu Vu Lan Bồn phát xuất từ chữ Sanskrit là Ullambana, nghĩa là “đảo huyền” (treo ngược), cứu cái tội treo ngược, thì hóa ra, có thể là mẹ mình, mẹ của ai đó, cụ thể là mẹ của ngài Mục-kiền-liên (Moggallāna) đã bị tội treo ngược sao? Và tất cả hương hồn, vong linh “bảy đời cha mẹ” lang thang cô lữ, phiêu dạt nhiều đời đều chỉ chịu chung một hình phạt tội treo ngược cả hay sao? (1)

Nghĩ mà buồn. Lại càng buồn hơn khi không biết viết như thế nào để khỏi mất lòng người nầy, người khác; viết như thế nào để phủ chính một quan niệm khi cái quan niệm ấy đã trở thành định niệm? Hay là cứ liệt kê ra đây tất cả, những ngữ nghĩa, những giải thích nơi này và nơi kia - rồi cái đúng, cái sai - hãy để mọi người tự khảo sát và chiêm nghiệm lấy? Ừ, cứ làm vậy đi!

Thế rồi, đầu tiên là tôi tra từ điển.

* Từ điển Phật học của Đoàn Trung Còn - nơi chữ Vu Lan Bồn (1), ông viết:

- Ullambana (sic)(2): Còn gọi là Ô-lam-bà-noa (sic), dịch là đảo huyền, chỉ nỗi đau khổ cùng cực. Huyền ứng âm nghĩa, q.13:Vu-lan-bồn, là nói sai. Nói đúng là Ô-lam-bà-noa, dịch là đảo huyền. Theo phép nước Tây Trúc, vào ngày tự tứ của các tăng, đặt cỗ bàn linh đình, dâng cúng Phật tăng để cứu cái khổ treo ngược (đảo huyền) của người đã mất. Xưa nói là cái chậu đựng thức ăn, đó là nói sai. Vu-lan-bồn kinh sớ của Mật Tông nói: “ Vu-lan là từ ngữ của Tây vực, nghĩa là đảo huyền, bồn là âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng cứu chữa. Nếu theo cách nói của địa phương thì phải nói là Cứu đảo huyền bồn”. Vu-lan-bồn tâm ký của Nguyên Chiếu (q.thượng), bác lại: “ Theo Ứng pháp sư kinh âm nghĩa thì: Tiếng Phạn Ô-lam-bà-noa dịch là Đảo huyền, nay xét Ô-lan tức là Vu-lan, bà-noacái chậu. Thế là ba chữ đều là tiếng Phạn. Nhưng âm thì có sự xê xích sai lầm”.

Còn nữa,

- Vu-lan-bồn hội: Tôn giả Mục Liên đệ tử của đức Phật, thấy mẹ rơi vào đường quỷ đói, chịu nỗi khổ bị treo ngược (đảo huyền), hỏi đức Phật cách cứu gỡ. Đức Phật dạy rằng vào ngày Rằm tháng bảy (sic) hằng năm, đem trăm thức phẩm vật dâng cúng Tam Bảo, nhờ vào uy của Tam Bảo thì sẽ cứu được cha mẹ của bảy đời. Do đó mà có pháp hội này...

- Vu-lan-bồn kinh: Tức kinh Phật thuyết Vu-lan-bồn - Trúc Pháp Hộ dịch (01 q.). Kinh này do đức Phật thuyết nhằm khuyên người ta cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn sống (sic). Kinh này nên tụng trong tuần tháng bảy vào ngày rằm (sic). Vu-lan-bồn tức là bữa tiệc (sic) cúng Phật và chư tăng để cầu phúc cho ông bà cha mẹ, cầu cho hồn người thác ở nơi âm cảnh khỏi bị treo ngược. Vu-lan-bồn kinh nói về ngài Mục Kiền Liên là đệ tử của đức Phật vừa đắc đạo (sic) liền nhớ tới công ơn cha mẹ. Ngài ngó xuống cõi âm thấy cha mẹ (sic) mình đang bị treo ngược vô cùng khổ cực. Ngài đem cơm xuống cho mẹ nhưng bà chẳng ăn được. Đức Phật dạy ngài muốn cứu vớt mẹ phải chờ đến ngày Rằm tháng bảy (sic), khi có đủ chư tăng đại đức hội về làm tiệc (sic) mà cúng Phật và khoản đãi (sic)chư tăng. Dựa vào sức lành của các ngài mà siêu độ được vong linh, làm cho cha mẹ bà con hiện còn sống (sic) được thêm phúc đức. Nhờ vậy mà ngài Mục Kiền Liên đã cứu giải được mẹ...

Theo Phật học từ điển của Đạo Uyển:

- Vu-lan-bồn hội: S. Ullambana; là cách dịch theo âm, dịch nghĩa là Cứu đảo huyền, tức là “Cứu nạn treo ngược” cứu “ những oan hồn bị treo ngược dưới địa ngục”.

Rồi ông giải thích: Một lễ hội cúng các cô hồn, nhằm ngày Rằm tháng bảy. Trong ngày này, các quỷ đói dưới địa ngục (sic) được cúng dường thức ăn, bánh trái, giấy tiền vàng bạc (sic), quần áo... để họ được giảm khổ đau. Lễ này được tổ chức lần đầu tiên năm 538 tại Trung Quốc và vẫn được tổ chức hằng năm tại các nước Đông Á như Trung Quốc, Việt Nam. Nguồn gốc của lễ này xuất phát từ Mục Kiền Liên. Tôn giả nhờ thiên nhãn thông thấy được mẹ mình tái sinh làm ngạ quỷ dưới địa ngục (sic) và đau xót muốn cứu bà. Đức Phật bảo là chỉ có sự hỗ trợ của toàn thể tỉ-khâu trong Tăng-già mới giảm đau cho họ được...

Theo An Chi (trong KTNN 399, ngày 10-9-2001) thì giải thích rất dài; ông đã chịu khó dẫn chứng rồi phân tích sự sai lầm của các nhà nghiên cứu khác. Tôi chỉ có thể tóm tắt những ý chính.

- Huệ Thiên đã viết (1): “Vu lan là dạng tắt của Vu lan bồn, phiên âm danh từ S. Ullambhana. Ban đầu là Ô lam bà na. Về sau, vu thay thế cho ô, lan cho lam bồn cho bà n (a). Vậy, Vu lan bồn chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, nên từng tiếng một (vu, lan, bồn) không có nghĩa gì cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành “cái chậu đựng thức ăn” như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795) là hoàn toàn không đúng.

Huệ Thiên viết tiếp:

- Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ S. này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul do quy tắc biến âm sandhi khi d đứng trước l), căn tố LAMBH và hậu tố ana (...) Tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập (...) Căn tố LAMBH là hình thái luân phiên với LABH, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt. Vậy ul - LAMBH có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến nghĩa mà tiền tố và căn tố diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng đọc theo âm Hán Việt là Vu lan bồn, được nói tắt là Vu lan. Vậy Vu lan là sự giải thoát.

Trích dẫn đến ngang đây, ông An Chi than: Tiếc rằng, cho đến nay, vẫn còn nhiều tác giả giảng sai về xuất xứ và nghĩa gốc của hai tiếng vu lan; rồi ông viết:

- Trong “Văn tế thập loại chúng sanh” của Nguyễn Du (bản in lần thứ hai, An Tiêm, Paris, 1995), Hoàng Xuân Hãn đã viết như sau: “Phạn ngữ Ullambana nghĩa là cực khổ tột bực. Nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ. Phiên âm Hán ngữ đã có nhiều cách; một cách là Vu-lan-bồn, nói tắt: Vu-lan”. (Sđd, tr.14).

Đọc đến ngang đây, chưa nói cái đúng, cái sai của mỗi nhà, mà chúng ta nên để ý: Huệ Thiên, ở trên, giải thích danh từ S. Ullambhana; Hoàng Xuân Hãn, ở dưới lại giải thích danh từ S. Ullambana. Một bên là căn tố LAMBH, một bên là căn tố LAMB (BHvà B).

An Chi viết tiếp:

- Không biết Hoàng Xuân Hãn đã căn cứ vào nguồn thư tịch nào về Phật học và về tiếng Sanskrit mà lại khẳng định rằng “ Ullambana”“cực khổ tột bực”, rồi “ nghĩa lại chuyển thành cứu khỏi cực khổ”. Để cho rõ vấn đề, trước nhất, xin nhấn mạnh rằng trong tiếng S. thì Ullambhana Ullambana là hai từ khác hẳn nhau về nghĩa gốc của căn tố.

Căn tố của từ trước là LABH/ LAMBH, như đã phân tích, còn căn tố của từ sau thì lại là LAMB. Cũng như từ trước, ullambana có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nêu), căn tố LAMB và hậu tố ana. Ngoài nghĩa nêu trong đoạn đã dẫn của Huệ Thiên, ud ( ul) còn chỉ hướng chuyển động từ dưới lên. LAMB là treo (vậy ul - LAMB là treo lên) còn ana là hậu tố diễn đạt, như đã thấy. Vậy ullambana sự treo lên và chỉ có thế. Từ này hoàn toàn chẳng có liên quan gì đến ý “ cực khổ tột cùng”, càng không phải “ cứu khỏi cực khổ”. Chúng tôi mạo muội đoán mò rằng chẳng qua Hoàng Xuân Hãn chỉ căn cứ vào những lời giảng sai về mấy tiếng “ vu lan (bồn)” trong thư tịch của Trung Hoa rồi lấy cái nghĩa đó mà gán cho danh từ S. ullambana, tự nó vốn cũng chẳng có liên quan gì đến mấy tiếng “ vu lan (bồn)”.

Đến chỗ này, dường như ông An Chi bắt đầu kết luận:

- Mathews’Chinese - English Dictionnary đã chú một cách ngắn gọn và chính xác về xuất xứ của ba tiếng “vu lan bồn” như sau: From the Sanskrit ullambhana, deliverance”. (Do tiếng Sanskrit ullambhana, (có nghĩa là ) sự giải thoát).

Vậy cái nghĩa “cứu khỏi cực khổ”Hoàng Xuân Hãn cho là nghĩa phái sinh (“chuyển”) của ullambana chính là cái nghĩa đích thực của ullambhana (sự giải thoát, sự cứu nạn...) còn“cực khổ tột bực” chẳng những không phải là nghĩa gốc của từ này mà cũng chẳng phải của từ ullambana do Hoàng Xuân Hãn nêu ra.

Vậy cách giải thích của học giả An Chi cho ta thấy rõ vấn đề mà bấy lâu thiên hạ, nhất là Phật tử Việt Nam chúng ta còn mù mờ, rơi vào tròng của Phật giáo Trung Quốc vậy.

Trở lại câu chuyện của ngài Moggallāna (Mục-kiền-liên). Quả thật, do mẹ ngài hủy báng Tam Bảo nên bị quả báo đau khổ làm Ngạ quỷ đói thì có thật (1). Ngài sử dụng thiên nhãn thông nên thấy được sự đọa đày, thống khổ của mẹ là có thật. Chúng ta cũng nên để ý nữa rằng, Moggallāna là Đại đệ tử của đức Phật, đắc lục thông - chẳng lẽ nào ngài không biết là cái “thân sống” của Ngạ quỷ là chỉ để trả quả ác nghiệp - chứ không thể ăn uống gì được, vật thực của cõi người lại càng không thể. Dẫu có soạn mâm cao, cỗ đầy cũng không ăn được. Còn tiền giấy đô-la, vàng mã áo quần gì gì đó... thì thuộc loại mê tín nhân gian rồi, không phải chánh tín của Phật đâu! Cõi Ngạ quỷ (chính xác là Ngạ quỷ đói, lạnh) chỉ có thể ăn, uống, mặc... no ấm là do phước hồi hướng của quyến thuộc; rồi chính phước ấy hóa thành tứ sự đủ đầy cho Ngạ quỷ đói, lạnh. Như tích truyện đức vua Bimbisāra, đặt bát cúng dường đức Phật và tăng chúng để hồi hướng cho Ngạ quỷ đói vốn là quyến thuộc nhiều đời của ông được sanh thiên với đầy đủ oai sang phước tướng. Vậy chẳng lẽ nào ngài Moggallāna không biết sự thật ấy, lại mang vật thực xuống cho mẹ ăn rồi thấy mẹ không ăn được?! Đây có lẽ chỉ là sự hư cấu theo tình cảm dung thường của người đời. Còn nữa, vị thượng thủ A-la-hán đầy đủ tâm, tuệ giải thoát, đệ nhất năng lực thắng trí,  chẳng lẽ nào khi thấy tình cảnh của mẹ như vậy, ngài “đau khổ”quá, nên “khóc lóc” bạch Phật tìm phương kế cứu mẹ! Xin các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ - đừng lấy tâm địa phàm phu mà “đổ oan” cho bậc thánh vô nhiễm, vô lậu của chúng ta!

Đức Phật dạy Moggallāna với đại ý rằng: “ Mẹ ông bị thống khổ đọa đày do ác nghiệp hủy báng Tam Bảo. Như Lai không cứu được. Mà sức một mình ông cũng không cứu được dù ông là Đệ nhất thần thông. Chỉ có một cách duy nhất, là sau ngày mãn hạ (1). của chư tăng, ông làm phước cúng dường đến quý ngài - mong nhờ cộng hưởng năng lực thanh tịnh của thập phương tăng chú nguyện, mẹ ông sẽ thoát khỏi khổ!

Thực hành theo lời dạy bảo của đức Phật, mẹ ngài thoát kiếp Ngạ quỷ và sau đó, được sanh thiên.

Tóm tắt câu chuyện ấy, lộ ra tính chất: Do nhờ năng lực chú nguyện của thập phương tăng nên mẹ ngài Moggallāna được nâng lên, được giúp đỡ, được cứu, được vớt khỏi cảnh giới đau khổ. Và như thế, từ Sanskrit- Ullambhana sẽ tương đương với từ Pāḷi-Ullumpana (danh từ trung tính) có cùng một nghĩa là sự nổi lên, mọc lên, cứu vớt - phát xuất từ động từ Ullumpati có nghĩa là nâng lên, giúp đỡ... Vậy, tôi dè dặt đề nghị nên dịch từ S.Ullambhanasự cứu vớt, cứu khỏi cảnh giới đau khổ.

Hy vọng rằng, S. UllambhanaP. Ullumpana - từ nay sẽ không còn ai hiểu lầm nữa về cái tội treo ngược; và hãy trả lại chân dung xứng đáng cho ngài Moggallāna - một vị thánh xuất trần, ly cấu sao lại tầm thường và lại thiếu trí tuệ như bấy lâu nay - theo cách hiểu của nhân gian!

Vậy, Phật giáo Nam tông không có lễ Vu Lan vì nó hoàn toàn là của Bắc tông sau mùa mãn hạ an cư Rằm Tháng Bảy. Tuy nhiên, lễ Vu Lan đã trở thành nét đẹp của văn hoá, của tôn giáo tín ngưỡng Đông phương; để hoà chung với bản sắc văn hoá dân tộc, nếu Nam Tông có tổ chức lễ Vu Lan thì chỉ nên sử dụng cụm từ là Mùa Báo Hiếu có lẽ sẽ khế hợp hơn. Còn lễ cúng Cô Hồn thì hoàn toàn là sản phẩm nguỵ tạo của Tàu, chư tăng và phật tử nên lưu ý.

 

Thu, Mai Trúc Am, 2014

Minh Đức Triều Tâm Ảnh


(1)
Ai có thì giờ xem “Ngạ quỷ sự” - thì thấy rõ cả hàng trăm, hằng ngàn tội kinh khủng; và “ Địa ngục sự” thì lại càng kinh khiếp hơn nữa - tại sao lại chỉ lấy một “tội treo ngược” mà đặt tên cho Đại lễ?!

(1) Hầu hết các chữ nghiêng là của người viết, muốn nhấn mạnh.

(2) “Sic”(tiếng Pháp) thuật ngữ nghiên cứu - Chữ này có nghĩa là trích đúng nguyên văn - thường thì hàm nghĩa, chữ đó, câu đó là của chính tác giả, có thể nên bàn lại hoặc chữ ấy, câu ấy là sai hoặc có thể sai!

(1) Trong bài “ Sự  tích Rằm tháng bảy và xuất xứ của hai tiếng vu lan” (KTNN 89, 1-8-1992, tr.41-44)

(1) Ngạ quỷ và địa ngục là hai cảnh giới khác nhau - chứ không phải là “ngạ quỷ ở dưới địa ngục” như Phật học từ điển của Đạo Uyển.

(1) Hạ, không phải là mùa hạ - mà phát xuất từ Vassa (P.) chỉ ba tháng an cư mùa mưa. Vậy ngày ra hạ không nhất thiết phải là ngày Rằm tháng bảy - mà tùy thuộc thời tiết của mỗi quốc độ.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
15 Tháng Tám 2015(Xem: 5423)
Tháng bảy. Gió hiu hắt. Trời âm u. Nghe mùa Thu lại gần. Chiều nhạt nắng, từng sợi nước lướt thướt nối nhau – mưa ngâu. Mưa làm dịu tiết trời ngày hè oi bức. Những hạt nước trong veo cho mầm xanh dậy sống, cỏ cây tự tình theo mưa. Và, không biết do mưa tưới tẩm những cảm xúc bâng quơ trong lòng người thế tục, hay cảm xúc dâng trào vọng hướng Vu lan.
14 Tháng Tám 2015(Xem: 6687)
Vào ngày kết hôn, mẹ hỏi tôi: “Hai người trông giống ăn mày ngồi ở nơi vắng vẻ kia là ai vậy?
08 Tháng Tám 2015(Xem: 7807)
Nhắc đến Nguyễn Du (1765-1820) chúng ta thường liên tưởng đến áng văn bất hủ của Đại Thi hào là “Đoạn Trường Tân Thanh” hay “Truyện Kiều”. Hồi năm 1947, Giáo sư Trần Cửu Chấn (1906-1980)*1 đang lúc làm Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục trong Nội Các của Thủ Tướng Chánh Phủ Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, đã trình Luận án Tiến Sĩ Văn Chương tại Đại Học La Sorbonne ở Paris, Pháp quốc với đề tài: “Étude critique de Poème Kim Văn Kiều”.
01 Tháng Tám 2015(Xem: 5834)
Tới giờ con phải đi rồi / Mẹ ơi con phải đi thôi mẹ à. / Khi trong bóng tối nhạt nhòa / Bình minh cô tịch hiện ra dịu hiền / Mẹ vươn tay xuống giường bên / Tìm con bé bỏng. Con bèn thưa mau: / “Bé nào còn ở đó đâu!” / Mẹ ơi Con phải đi nào còn đây.
24 Tháng Năm 2015(Xem: 5222)
Như vì sao sáng xuất hiện trên vòm trời văn học Việt Nam và Âu Mỹ từ cuối thập niên 1940, Nhất Hạnh – một thiền sư, một nhà văn, nhà thơ – đã đi vào lòng người đọc bằng những tác phẩm: Bông Hồng Cài Áo, Nói Với Tuổi Hai Mươi,, Tình Người, Nẻo Về Của Ý, Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức (có nhiều bản dịch ra nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức, Hòa Lan, Thái Lan…Đặc biệt bản tiếng Anh “The Miracle of Mindfulness” được phổ biến nhiều hơn cả).
27 Tháng Giêng 2015(Xem: 10073)
Hiếu là tất cả .
22 Tháng Tám 2014(Xem: 6858)
Điều tôi cảm nhận đầu tiên về người là đôi bàn tay. Tôi không nhớ lúc đó mình bao nhiêu tuổi, nhưng hình như sự hiện hữu, cuộc sống của tôi gắn liền với đôi bàn tay đó. Đôi bàn tay của mẹ, một người mẹ mù. Tôi còn nhớ những lần ngồi tô vẽ màu ở bàn ăn, trong nhà bếp. Tôi nói, “Mẹ! Xong rồi. Hãy nhìn tranh của con nầy”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
20 Tháng Tám 2014(Xem: 7665)
Từ nhỏ đến lớn… Là đến khi cha mẹ mất, chẳng bao giờ nghe ông bà nhắc đến hai chữ hiếu hạnh. Chưa hề nghe ông nói: “Con phải hiếu hạnh với mẹ cha”. Chỉ nghe ông bảo: “Mẹ ngủ, con đóng cửa nhẹ thôi”. “Con đi khẻ thôi, không thì mẹ thức giấc”. “Con lớn hơn em thì phải nhường em một chút”.
17 Tháng Tám 2014(Xem: 7043)
...Có những câu thơ kỳ lạ vô cùng, nó nằm sâu trong tiềm thức. Đọc một lần tưởng chừng như quên mất. Bỗng một hôm bừng dậy rõ nét. Thơ cũng là một Pháp, nhìn trên khía cạnh hiện tượng học. Phải đủ duyên mới hiện diện. Câu thơ trên của Thanh Tịnh hay quá, phổ cập quá, tác giả Nhất Hạnh trích lại nguyên bài trong đoạn đầu đoản văn Bông Hồng Cài Áo, dễ khơi dậy ngay niềm rúng động đối tất cả mọi người.