Công Cha Nghĩa Mẹ - Tỳ Kheo Nguyên Các

13 Tháng Tám 201100:00(Xem: 75989)
tuyentapvulan-03

CÔNG CHA NGHĨA MẸ
Tỳ kheo Nguyên Các


“Cha” và “mẹ” (hoặc “ba, má” hay “bố, mẹ” ) thường là các từ đơn đầu tiên mà chúng ta bặp bẹ nói được. Điều đó có lẽ là đương nhiên, vì người dạy cho chúng ta những tiếng đầu tiên thiêng liêng ấy, đâu ai khác ngoài Cha Mẹ chúng ta. Những âm đầu tiên đó, chúng ta phát ra đâu được tròn trịa là “bố” “mẹ” đâu, mà chỉ là những chuỗi âm tương tự mà thôi. Và, dù là chẳng biết mình phát ra những âm gì, ý nghĩ thế nào, nhưng sau khi lặp lại xong thì cười rất vui, rất sung sướng…Rồi cứ thế, “bố, mẹ” theo ta trong mọi hoàn cảnh sống. Hai tiếng ấy quá gần gũi, quá thân thương, để rồi chúng ta cảm nhận đó như điều tự nhiên, thậm chí đôi khi quên đi sự tồn tại ấy.

Từ thuở ấu thơ, khi bị té ngã, hay bị chúng bạn trêu chọc, người mà chúng ta liền gọi hoặc méc (mách) không ai khác ngoài Cha Mẹ của chúng ta. Và, Cha Mẹ luôn ở vị trí số một trong lòng ta, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như thế, dù chưa hiểu biết nhiều, nhận thức còn chưa được là bao, nhưng lúc ấy chúng ta đã ý thức được Cha Mẹ là người có thể bảo bọc, chở che chúng ta. Hay nói cách khác, với trẻ thơ, Cha Mẹ là cả bầu trời. Đúng thật như thế, Cha Mẹ có thể vì chúng ta mà làm tất cả, quản gì khó nhọc hy sinh. Rồi chúng ta dần lớn lên trong tình yêu thương không bờ bến ấy. Mặc thời gian không ngừng trôi, không gian có đổi dời, và chúng ta có thế nào đi nữa, thì tình thương của Mẹ Cha vẫn mãi tràn đầy…

Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận, là niền vui nỗi buồn, là cả cuộc đời của Mẹ của Cha.

Từ lúc chúng ta hình thành trong bụng Mẹ, là chuỗi ngày Cha Mẹ đứng ngồi không yên. Phần vì hạnh phúc lớn lao khi được làm Cha Mẹ; phần vì lo lắng mọi bề… Suốt chín tháng giữ gìn thai giáo, việc uống ăn đi đứng Mẹ nào được như ý; Cha thì chăm mẹ chăm “con”, mong cho đến lúc vuông tròn cả hai. Rồi đến thời lâm bồn Mẹ khổ, chịu đau đớn trăm phần mê mỏi, thậm chí tính mạng Mẹ có thể gặp nguy; Cha thời xót vợ thương con, nhưng trong cảnh chẳng thể giúp gì được, cảm giác “bất lực” ấy cũng đau không kém. Đau đớn là thế, nhưng khi nghe được mẹ con đều khỏe mạnh, thì bao sự đau sự khổ liền đều biến tan, thay vào đó là niềm hạnh phúc vui sướng khôn tả rõ. Đó chính là sức mạnh của tình yêu thương, là tấm lòng của bậc làm cha mẹ.

Cùng với niềm vui sướng hạnh phúc khi con cất tiếng khóc chào đời, cũng là lúc Cha Mẹ bắt đầu những tháng ngày vất vả nuôi con. Vì cho con ăn no mặc ấm, dẫu mình mang nghiệp cũng cam. Miễn con ăn học nên người, thức khuya dậy sớm Cha thời xá chi. Để con có cuộc thanh nhàn, Mẹ thân phụ nữ chẳng màng chuốt chau… Sự hy sinh ấy, ngoài Cha Mẹ chúng ta ra ai làm được? Thế nên trong kinh Báo Đáp Công Ơi Cha Mẹ có dạy: “Ơi cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn”. Thái Sơn to lớn thế nào không cần rõ, nhưng chúng ta phải biết là, vì con cái mà Cha Mẹ ta hy sinh tất cả, điều đó lớn lao cao cả chừng nào? Biết được điều đó, dù trong cuộc sống có bất kỳ biến cố nào, chúng ta cũng không bao giờ quên nghĩa Mẹ công Cha.

Khi chúng ta cắp sách đến trường, chữ a, b, c Cha Mẹ cùng ta học. Con điểm mười Cha Mẹ còn vui hơn. Bao vất vả bộn bề cuộc sống, cũng chẳng bằng con Cha Mẹ giỏi ngoan (con ngoan trò giỏi). Có sá gì nắng sớm mưa chiều, quản ngại chi vai gầy gánh nặng; miễn cho con được như bạn bằng bè. Rồi đến lúc con vào đời lập nghiệp, cũng không ngừng dõi theo bước con đi. Con thành công Cha Mẹ - người vui nhất; lỡ vấp ngã trên đường đời trắc trở, nơi con về nương tựa chỉ có Mẹ và Cha. Dẫu vui buồn tranh đua nơi thế cuộc, Cha Mẹ già vẫn xót dạ thương con... Nhưng thế gian cũng lắm hạng người, dù làm Cha Mẹ con thơ chẳng màng. Những người như thế nghiệp mang, sống trong “địa ngục”, thác sanh tam đồ[1]. Còn trên bình diện rộng chung, công Cha nghĩa Mẹ non xanh khó bằng.

Ấy thế mà, được bao lần chúng ta nhìn lại, sự hiện hữu nhiệm màu của Mẹ Cha bên ta. Hay chỉ nghĩ đó là điều tất yếu, mà quên rằng Cha Mẹ cũng có khoảng trời riêng. Giờ nghĩ lại ta thấy mình quá lỗi, khi chỉ biết Cha Mẹ phải vì ta. Chẳng thế mà trong kinh[2] có nói, chúng ta là: “Mười phần mê muội cả mười, không tường ơn trọng đức dày song thân.” Thật vậy, nếu đọc qua hiểu thấu kinh này, chúng ta liền thấy mình sao quá đỗi nhẫn tâm, làm cho Cha Mẹ bao phen lo buồn. Vậy mà chẳng biết chẳng thương, lại còn cho đó chuyện thường xưa nay. Tội bất hiếu vì đây khó tránh. Thế nên, mau mau y pháp mà hành, một lòng hiếu Mẹ thuận Cha, để mai con cháu nhìn ta mà làm.

Cha Mẹ già xớm khuya thăm hỏi, cơm canh bày sẵn một lòng kính dâng. Nếu chẳng vui thì nên nhớ lại, lúc chúng ta còn thuở thiếu thời, bón cơm bú mớm song thân nào phiền. Lúc ốm đau tay nâng tay đỡ, đừng cậy tiền người khác làm thay; chúng ta có được ngày nay, một tay Cha Mẹ chăm lo ắm bồng, bao công dựng xây đắp bồi. Hơn nữa, Cha Mẹ đâu mãi sống đời, thế nên lựa ý chọn lời dạ vâng. Từ vật chất đến tinh thần, coi sao báo được thù ân thì làm. Kẻo mai Cha Mẹ mất rồi, có ngồi hối hận hiếu con chưa tròn, thì lúc đó nào còn kịp nữa. Nên y theo Vu Lan Bồn pháp, cùng kinh Báo Đáp Công Ơi Cha Mẹ, vào rằm tháng bảy hàng năm, sắm sanh lễ vật cúng dường chư Tăng, đặng cầu nguyện song đường mạnh khỏe, thọ trường; nếu thác rồi về cảnh an vui…

Có thể nói, với Cha Mẹ con cái là cả cuộc đời. Điều này nếu ai đã làm Cha là Mẹ, từng trải qua những cung bậc vui buồn vì con rồi, thì mới hiểu rõ tấm lòng Cha Mẹ. Cũng có nghĩa, nếu chưa từng sanh con nuôi dưỡng con cái, thì cả đời sẽ chẳng bao giờ hiểu hết được những khó nhọc và tình thương cao cả ấy. Thế nên, chúng ta sống trong văn hóa đạo đức Việt, ít nhất phải tạc dạ ghi lòng:

CÔNG CHA NHƯ NÚI THÁI SƠN
NGHĨA MẸ NHƯ NƯỚC TRONG NGUỒN CHẢY RA
MỘT LÒNG THỜ MẸ KÍNH CHA 
CHO TRÒN CHỮ HIẾU MỚI LÀ ĐẠO CON.


Vĩnh Nghiêm, Vu Lan năm 2011

 

Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam



[1] Hay còn nói “tam đồ ác đạo”: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

[2] Kinh Báo Đáp Công Ơi Cha Mẹ

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Tám 2015(Xem: 6409)
24 Tháng Tám 2015(Xem: 6248)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biến là lễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên. Lễ hội này được tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng Bảy âm lịch.
24 Tháng Tám 2015(Xem: 6502)
Nhưng ở đây, chúng ta có thể đặt nghi vấn: Nếu nhờ chư Tăng chú nguyện mà bà mẹ Ngài Mục Kiền Liên thoát khỏi cảnh đọa lạc, thì hóa ra lý Nhân quả cũng có trường hợp ngoại lệ? Và Phật tử chúng ta chỉ cần nương nhờ thần lực của chư Phật cùng Thánh chúng, dù có tạo nghiệp ác cũng không sợ sa vào khổ xứ?
21 Tháng Tám 2015(Xem: 7825)
(Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ; nên phật tử theo truyền thống Đại Thừa xem ngày chư tăng ra hạ (rằm tháng 7) là ngày báo hiếu mẹ. Đấy là cả một tình cảm cao cả, trân trọng và thiêng liêng. Nhưng theo truyền thống Theravāda thì không có từ Vu Lan, không có đại lễ Vu Lan.
20 Tháng Tám 2015(Xem: 9587)
Thời tiết thật oi bức suốt một tuần lễ qua. Đâu đó trên đường, có những cảnh báo về hạn hán, kêu gọi mọi người tiết kiệm, hạn chế việc dùng nước. Nạn hạn hán đã kéo dài ở xứ này liên tục bốn năm qua. Nhiều cây kiểng và những bãi cỏ xanh của các công xưởng, công viên, gia cư tại đô thị đã lần lượt biến mất. Mọi người, mọi nhà đều phải tự ý thức trách nhiệm của mình đối với thiên tai này.
20 Tháng Tám 2015(Xem: 6372)
Năm nào cũng vậy mỗi khi sắp đến ngày lễ Vu Lan là tôi đọc lại Võ Hồng: Nghĩ về mẹ, Một bông hồng cho cha, Tiếng chuông triêu mộ, Áo em cài hoa trắng, Mái chùa xưa, Màu áo nâu sòng, Đi con đường khác, Hữu thân hữu khổ….
19 Tháng Tám 2015(Xem: 8201)
Ta còn một dòng sông_ dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời. Ta còn một bầu trời_ bầu trời cao vời thăm thẳm ngút trùng khơi để ngày thơ mẹ nâng ta lên những tầm cao cuộc sống, khi ngày tháng truân chuyên cam chịu mẹ vẫn mỉm cười vì tất cả cho con.
19 Tháng Tám 2015(Xem: 4418)
Kinh Vu Lan Bồn, do ngài Trúc Pháp Hộ (Dharmarakṣa – Đàm-ma-la-sát 230 – 316) dịch vào đời Tây Tấn, là một trong số những kinh văn được dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ từ khá sớm, được xếp vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ở quyển số 16, kinh số 685,
19 Tháng Tám 2015(Xem: 4854)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ. Hiện nay trên mạng Internet ở vài trang lưu trữ Kinh Phật có bản khắc gỗ Càn Long, khắc gỗ Vĩnh Lạc Bắc tạng, Kinh Vu Lan bằng tiếng Hán do ngài Trúc Pháp Hộ dịch.