● Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc Trong Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo (Tt. Thích Huệ Thông)

08 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 11155)

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH &
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM

NHÌN LẠI PHONG TRÀO
PHẬT GIÁO MIỀN NAM NĂM 1963
NHÀ XUẤT BẢN PHƯƠNG ĐÔNG – 2013

Phần I
TỪ PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐẾN PHONG TRÀO PHẬT GIÁO Ở MIỀN NAM NĂM 1963

PHÓ BẢNG NGUYỄN SINH SẮC
TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO
TT. Thích Huệ Thông
Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh Bình Dương
hoithao_thichhuehung-content

Như chúng ta đã biết, từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Phật giáo lại một lần nữa chung sức đồng lòng tham gia kháng chiến, tích cực dấn thân vào sự nghiệp giải phóng của toàn dân tộc, điển hình là cuộc khởi nghĩa của cư sĩ Võ Trứ (đệ tử của Thiền sư Đá Bạc) tại Phù Cát và Phù Mỹ tỉnh Bình Định vào năm 1898. Thiền sư Đá Bạc đóng một vai trò rất quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này khiến cho người Pháp gọi cuộc khởi nghĩa này là “giặc thầy chùa”. Kế đến là cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính nổ ra ở phía Bắc, từ Nghệ An ra tới Bắc Ninh quy tụ hàng vạn nghĩa quân là Phật tử. Những cuộc khởi nghĩa của Tăng sĩ Vương Quốc Chính và Phật tử Võ Trứ đã để lại ấn tượng sâu sắc là Phật giáo luôn hướng về sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong mọi hoàn cảnh. Các chí sĩ yêu nước tiêu biểu trong thời kỳ này như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Trần Cao Vân… cũng đều phải dựa vào Phật giáo và trong đó có cụ Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Hồ Chủ tịch, một tấm lòng yêu nước nồng nàn, chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Phật giáo. Đặc biệt, cụ Sắc nhìn thấy rất rõ vai trò và ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo đối với sự tồn vong của dân tộc nên trong suốt hành trình tham gia các hoạt động cứu quốc, cụ đã tích cực tham gia vào các hoạt động chấn hưng Phật giáo. Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã rất tích cực tham gia vào phong trào chấn hưng Phật giáo, xem đây là phương tiện tối ưu để khơi dậy lòng yêu nước, lấy đạo Phật làm trung tâm để gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Trong bài tham luận “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong phong trào chấn hưng Phật giáo”, chúng tôi mong muốn làm sáng tỏ phần nào chủ đích chấn hưng Phật giáo của cụ Nguyễn Sinh Sắc, chính là để tăng cường sức mạnh vệ quốc của dân tộc trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ. Đây là điều rất phù hợp với quan điểm và truyền thống yêu nước của Phật giáo. Điều này đã được minh chứng và ghi lại trong nhiều giai đoạn lịch sử đất nước bị ngoại bang xâm chiếm. Đồng thời, thông qua những tư liệu được trình bày trong tham luận này, chúng tôi cũng nhằm làm sáng tỏ vấn đề cụ Nguyễn Sinh Sắc là một Phật tử tinh thông Phật học, qua đó khẳng định quan điểm, muốn giải phóng dân tộc thì cần phải chấn hưng Phật giáo như suy nghĩ và hành động của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc sinh năm 1862 (Nhâm Tuất) tại làng Kim Liên, Nghệ An. Năm 1894 (Giáp Ngọ), cụ đứng thứ 12 trong 20 người thi đỗ Cử nhân của trường Nghệ An. Năm 1901 (Tân Sửu), cụ thi đỗ Phó bảng được hưởng đặc ân như Tiến sĩ, được vua ban cờ biển vinh qui bái tổ. Cụ Sắc là người thông minh đức hạnh và khiêm cung nên dân làng ai cũng kính nể. Cụ được liệt vào bốn danh nhân đương thời ở làng Sen “Nam Đàn Tứ Hổ”, được bà con ca tụng “Uyên bác bất như San, Tài hoa bất như Quí, Cường ký bất như Lương, Thông minh bất như Sắc”.

Với quan niệm học để làm người chớ không phải học để làm quan; hơn nữa, trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp thống trị, làm quan là làm tay sai cho giặc, là đắc tội với đồng bào, nên sau khi đỗ đạt, cụ đã hai lần từ chối lời kêu ra làm quan của triều đình. Năm 1906, khi không còn lý do thoái thác, cụ đành phải ra nhận chức Thừa biện Bộ Lễ. Bình sinh cụ thường nói: “Quan trường thị nô lệ trung, chi nô lệ, hựu nô lệ” (Quan trường là nô lệ, trong đám nô lệ càng nô lệ hơn). Đến tháng 5 năm 1909, Hội đồng nhà vua và Khâm sứ Trung Kỳ bổ nhiệm cụ chức Tri phủ huyện Bình Khê. Cụ Sắc rất căm ghét bọn cường hào ác bá tại địa phương. Nhiều lần nghe dân chúng than oán và từng mục thị các cố đạo dựa vào thế lực của người Pháp bức bách dân lành, do đó cụ Sắc đã nghiêm khắc xử giam và đánh chết tên cường hào Tạ Đức Quang. Sau vụ án chấn động này, ngày 19-5-1910, Hội đồng Nhiếp chính triều đình Huế xử phạt cụ 100 trượng và thải hồi cụ. Đây là điều kiện thuận lợi để cụ thực hiện chí nguyện dấn thân cứu nước mà cụ từng nung nấu bấy lâu nay và đây cũng là bước ngoặt để cụ rẽ sang nghiên cứu chuyên sâu vào giáo lý Phật Đà, chấn hưng Phật giáo, truyền bá tư tưởng yêu nước và dấn thân vào các hoạt động cứu quốc.

Sau khi rời chốn quan trường, tháng 3-1911, cụ vào Phan Thiết, rồi đến Sài Gòn, cùng Nguyễn Tất Thành xuống Mỹ Tho gặp Phan Chu Trinh, trong lúc Phan Chu Trinh đang chuẩn bị sang Pháp. Sau đó cụ đi khắp các tỉnh Nam Bộ và sang tận Campuchia. Đến đâu cụ cũng tìm cách quan hệ với các nhà sư, nhà nho yêu nước, chính trị phạm của các phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân bị an trí, hoặc đang lẩn tránh mật thám Pháp. Cụ giúp nhiều chùa ở Nam Bộ dịch, chú giải kinh, góp nhiều ý kiến cho phong trào Chấn hưng Phật giáo do Hòa thượng Khánh Hòa khởi xướng. Cụ đã chu du khắp vùng đất Nam Kỳ để truyền bá tư tưởng yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Suốt hành trình vào Nam, hầu như chùa là chốn dừng nghỉ, chư Tăng là những người bạn tâm giao để cụ kết duyên tâm tình đời đạo. Cụ từng trao đổi hàn huyên Phật học với các bậc cao tăng nổi tiếng đương thời như Hòa thượng Khánh Anh, Khánh Hòa, Thiện Chiếu, Từ Văn, Chí Thành, Viên Minh… giúp các nhà sư dịch kinh, chú giải các điều cao siêu trong kinh Phật. Biết cụ là người tinh thông kinh luận, năm 1922, chùa Kim Tiên (Cai Lậy) tổ chức lễ khánh thành, ông Nguyễn Thành Long (Hương cả Siếu) có nhờ cụ Sắc viết tặng đôi liễn đối. Cụ viết:

Đại đạo quảng khai thố giác khêu đàm để nguyệt.
Thiền môn giáo dưỡng qui mao thằng thụ đầu phong”.

Tạm dịch:

Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước
Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây”.

Trong buổi lễ này có sự tham dự của nhiều vị cao tăng, trong đó có nhà sư Nguyễn Văn Hiền (Thích Chí Thành) trụ trì chùa Phi Lai, nguyên là Tả quan Hộ giá của vua Hàm Nghi; Lê Quang Hòa (Thích Thanh Kế) trụ trì chùa Thiên Thai - Bà Rịa, nguyên là Hữu quan Hộ giá của vua Hàm Nghi. Nhân đây cụ Sắc trình bày quan điểm của mình: “Tu là phải nhập thế, phải xả thân cứu đời mới phát triển đạo được. Phật dạy, tu là cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Cái nạn lớn nhứt là mất nước, là đem thân làm nô lệ cho ngoại bang. Chúng sinh hiện đang lầm than, rên siết, đã là người chân tu thì phải ra tay cứu dân cứu nước. Giữa lúc nước mất, nhà tan, bá tánh lê dân lầm than thống khổ, mà đóng cửa chùa lo kinh kệ thì không khác gì vô cảm, đi ngược lại với tinh thần Bi - Trí - Dũng của nhà Phật”. Do vậy mà cụ nhân cơ hội viết liễn đối đã thẳng thắn, không ngại nói ra suy nghĩ của mình rằng, hiện nay nước mất nhà tan thì không thể làm gì được cả, ngoài việc dấn thân cứu nước (câu liễn đối này được khắc ghi lại tại chùa Hội Khánh, trong thời gian cụ sống và hoạt động tại chùa). Ý nghĩa sâu xa hàm chứa sức mạnh khơi dậy lòng yêu nước từ đôi câu liễn đối này đã làm kinh ngạc tất cả những nhà học Phật lỗi lạc đương thời đang có mặt. Thông qua đôi câu đối này, điều mà chúng ta nhận thấy cụ Sắc rõ ràng là bậc uyên thâm Phật học, nhất là cụ rất tinh thông thiền lý, bởi những thiền ngữ mà cụ Sắc sử dụng trong câu đối như “lông rùa”, “sừng thỏ”, “mò trăng đáy nước”, đều là những pháp ngữ rất cô đọng, thẳng tắt mà đức Phật và các bậc Tổ sư dùng để khai thị khuyến cáo những điều hư ảo hay nhắc nhở hàng đệ tử không nên thực hiện một việc làm không mang lại kết quả. Nếu không phải là bậc học Phật uyên thâm thì làm sao cụ Sắc có thể vận dụng thiền ngữ để diễn đạt được những ý tưởng thầm kín thâm sâu một cách linh hoạt táo bạo như vậy? Mặc khác, qua đôi câu liễn này, chúng ta mới thấy rõ quan điểm của cụ Sắc trong bối cảnh đất nước chìm trong biển khổ đau thương của thực dân Pháp. Cụ Sắc đã cùng một lúc vừa khơi dậy tinh thần yêu nước, tỉnh thức hàng học giả trí thức hãy nhìn kỹ tình hình thực tiễn của đất nước, vừa thầm kín chấn hưng Phật giáo bằng cách định hướng tâm hạnh cho hàng Tăng lữ trước yêu cầu cấp bách của toàn dân tộc là giải phóng đất nước thoát ra khỏi ách lầm than nô lệ.

Trên bước đường vân du, kết duyên thiện tri thức, truyền bá tinh thần yêu nước, cụ nhận thấy vùng đất Nam Bộ hầu hết người dân tin nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật, dù lúc bấy giờ có rất nhiều tổ chức đạo và các hội kín ra đời, nhưng Phật giáo vẫn là chủ đạo, chiếm vị trí ưu thế. Nhưng theo cụ, vào đầu thế kỷ này Phật giáo bước vào thời điểm suy đồi, mặc dù chùa chiền rất đông tín đồ, nhưng lại đượm vẻ bi quan, yếm thế, các nhà sư chỉ biết rút mình vào kinh kệ, không am tường giáo lý. Chùa trở thành nơi cúng bái, hành nghề mê tín dị đoan. Do đó, theo cụ, muốn chấn hưng Phật giáo thì Tăng, Ni, Phật tử phải đi tiên phong dấn thân nhập thế. Cụ Sắc tham gia vào phong trào chấn hưng chủ yếu cùng quí Hòa thượng đăng đàn thuyết pháp, tham gia tờ “Pháp Âm” do Hòa thượng Khánh Hòa chủ xướng, tờ “Phật Hóa Tân Thanh Niên” do Hòa thượng Thiện Chiếu khởi xướng. Ngoài ra còn xuất bản một số kinh sách, giáo lý “Phật Học Tùng Thư”. Hai tờ báo Phật giáo bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên nổi tiếng qua ba ngòi bút của sư Khánh Hòa, Thiện Chiếu và Trần Huy Liệu cùng nhiều tác giả khác. Theo mật thám Pháp thì có khả năng Nguyễn Sinh Sắc (Huy) có tham gia vào các bài viết kêu gọi phong trào yêu nước qua cuộc vận động chấn hưng Phật giáo. Để bổ sung kiến thức Phật học cho công cuộc chấn hưng Phật giáo, vào tháng 4–1922, cụ bí mật đi Phnôm-Pênh để gặp Hòa thượng Hồng Đại, nhà học Phật uyên thâm, đệ tử của Hòa thượng Tổ sư Như Hồng chùa Quốc Ân - Huế. Tại đây, cụ Sắc chánh thức thọ giáo quy y với Hòa thượng Hồng Đại - Bửu Phước chùa Sùng Phước, Châu Hộ, Phnôm-Pênh vào ngày 24-8-1922 với Pháp danh Nhật Sắc tự Thiện Thành thuộc thế hệ thứ 41 dòng Lâm Tế gia phổ.

Nhìn lại hành trạng của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, ở đây, người viết có thể khẳng định, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đích thực là một tín đồ Phật giáo, hơn thế nữa, cụ còn là một Phật tử thâm tín, một nhà Phật học uyên thâm. Có thể nói rằng, cùng với các vị giới phẩm đạo cao đức trọng và các vị nhân sĩ trí thức Phật giáo đương thời, cụ là một trong những nhân sĩ trí thức có công rất lớn trong công cuộc chấn hưng Phật giáo thời bấy giờ.

Vào cuối quí 3-1923, cụ về chùa Linh Sơn cùng với quí Hòa thượng Khánh Hòa, Khánh Anh, Thiện Chiếu bắt tay ngay vào việc khơi mào cho cuộc chấn hưng. Trước cổng chùa Linh Sơn xuất hiện ngay câu liễn đối:

Phật pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế
Từ bi nải sát sanh dĩ độ chúng sanh”.
(Đạo Phật là nhập thế chứ không yếm thế,
Từ bi (lắm lúc) phải sát sanh để cứu chúng sanh).

Nội dung câu đối này, thật sự vượt ra khỏi suy nghĩ và tập quán “Từ Bi” thường tình của những người con Phật. Bởi đối với tâm từ bi của bất cứ một Phật tử nào thì một chữ “Sát” dù hiểu theo nghĩa nào cũng là phạm giới “trọng”, cũng là bất nhẫn. Song ngẫm nghĩ sâu xa, mới thấy rằng, đây chính là tâm Bồ-tát, chính là hạnh Bồ-tát, chính là tinh thần Bi – Trí – Dũng cao tột của Phật giáo. Điều này quả thật táo bạo, thẳng thắn, dứt khoát. Cảm nhận của người viết bài này, ẩn tàng ở đó tầm nhìn trí tuệ và ở đó là tâm đại bi lân mẫn của một thiền sư đã thông suốt lý tánh. Đây mới là con người đầy đủ cả bản lĩnh lẫn trí tuệ để dấn thân vào công cuộc chấn hưng Phật giáo trong hoàn cảnh đạo Phật vẫn còn nhiều hạn chế bởi tầm nhìn và những trói buộc theo quan niệm thường tình trong chốn thiền môn. Chính vì niềm khao khát chấn hưng Phật giáo nên từ lúc Nguyễn An Ninh về nước, cụ Sắc tìm cách bí mật gặp Nguyễn An Ninh (người cùng thế hệ với Nguyễn Ái Quốc và sư Thiện Chiếu) để bàn về mối tương quan và cộng hưởng giữa Phật giáo với dân tộc, đây là vấn đề mà cụ rất quan tâm.(1)

Sau khi trở thành tín đồ Phật giáo, cụ thường xuyên nghiên cứu Phật học, chọn chùa Linh Sơn, Sắc tứ Từ Ân để nghiên cứu chuyên sâu vào Tam tạng kinh điển. Được biết, trong phong trào chấn hưng Phật giáo, cụ đã đưa ra nhiều ý tưởng táo bạo nhưng rất thiết thực về vấn đề nhập thế của đạo Phật mà nội dung câu đối khắc trước cổng chùa Linh Sơn như chúng tôi đã trình bày và lý giải là một minh chứng. Theo cụ, phong trào chấn hưng Phật giáo rất có lợi cho công cuộc vận động đồng bào bảo vệ Tổ quốc chống ngoại bang. Quả thật, tư tưởng này đã được thể hiện qua những hành động và việc làm của cụ trong suốt thời gian dài cụ đi khắp nơi kêu gọi tinh thần yêu nước của mọi người. Theo cụ, dùng đạo Phật để vận động cứu nước là đắc sách nhất, hô hào đồng bào tham gia chống giặc cứu nước một cách công khai trong các buổi thuyết giảng về thuyết từ bi cứu khổ cứu độ chúng sanh của đức Phật; dùng chùa chiền làm nơi tụ họp đi lại của các nhà yêu nước. Tinh thần tích cực nhập thế của cụ đã được thể hiện rất rõ và rất phù hợp với tinh thần câu liễn đối ở chùa Linh Sơn, nơi mà cụ thường lui tới để nghiên cứu Phật học.

Trong hoàn cảnh Phật giáo đương thời lâm cảnh suy vong, như cụ từng tâm sự: “Thầy chùa không hiểu đạo Phật, khinh thường giới luật, có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại thủ dị cầu kỳ, học thêm bùa ngải, luyện roi thần, làm bạn với thiên linh cái, đồng nhi, khi ông lên bà xuống, ngáp vắn, ngáp dài, thư phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thật ra lợi dụng lòng mê muội của thiện nam tín nữ, mở rộng túi tham, quơ vét cho sạch sành sanh”.(2) Đứng trước tình hình đáng tiếc như vậy, cụ Sắc vẫn không hề chủ trương thành lập tông phái mới như các người đi trước, mà chỉ dựa vào chánh tông Phật giáo, chỉ nương vào chính nền tảng và cốt tủy của giáo lý Phật Đà để chấn hưng Phật giáo. Điều này cũng có thể xem cụ là một hành giả thấm nhuần đạo lý vô ngã của nhà Phật. Chính nhờ tinh thần nỗ lực dấn thân không mệt mỏi của cụ mà chỉ trong một thời gian ngắn, các hoạt động của phong trào chấn hưng Phật giáo trở nên phát triển, ảnh hưởng rộng khắp. Hình ảnh các nhà sư xuất hiện ngày càng đông trong các cuộc đấu tranh chính trị, trong các buổi diễn thuyết. Trong cuộc vận động đòi ân xá cụ Phan Bội Châu và đám tang cụ Phan Chu Trinh có rất nhiều nhà sư tham dự ở khắp nước. Đặc biệt là lý lẽ sắc bén và bản lĩnh trí tuệ của các nhà sư ngày càng được nâng cao, thể hiện rõ sự hòa quyện giữa tâm hạnh từ bi phổ độ chúng sanh và tinh thần yêu nước thương dân mang truyền thống đạo đức ngàn đời của dân tộc. Điển hình sự việc sư Thiện Chiếu, khi bị chất vấn: “Ai xui thầy chùa đi biểu tình?”, thì sư Thiện Chiếu trả lời ngay trên mặt báo: “Thuyết từ bi cứu khổ của Phật Tổ xui Phật tử chúng tôi tham gia những cuộc vận động yêu nước thương dân chớ không ai xui cả”. Hoạt động này chẳng những ảnh hưởng đến quần chúng Phật tử mà còn ảnh hưởng đến nhà chùa và từng lớp Tăng, Ni trẻ.(3)

Tiếp tục truyền bá tinh thần yêu nước nhằm hỗ trợ qua lại cho phong trào chấn hưng Phật giáo, vào đầu năm 1927, cụ phương tiện giả danh làm vị cao tăng chùa Từ Đàm (Huế) đã vượt chặng đường dài trên cả ngàn cây số để đến chùa Tiên Linh (Mỏ Cày, Bến Tre) kết hợp cùng với ông Trần Hữu Chương, đảng viên Tân Việt được cử về xã Minh Đức gầy dựng cơ sở, mở lớp học cho thanh niên và cả những người trong tổ chức hội kín Nguyễn An Ninh. Trước khi rời chùa Tiên Linh, cụ viết đôi liễn tặng Hòa thượng Khánh Hòa:

Như thị Như Lai, xuất thế khai thông, hướng dẫn mê đồ qui Phật pháp.
Trí vi Trí giả, hiện thân thuyết pháp, hô hào tri thức thượng thiên lai
Tạm dịch:
Đích thực Như lai, xuất thế khai thông, hướng kẻ mê quay về pháp Phật.
Thật là bậc Trí, hiện thân thuyết pháp, hô hào hàng trí đến cõi Thiên”.

Nội dung hai câu đối này một lần nữa thể hiện rõ tinh thần cổ súy khích lệ công cuộc chấn hưng Phật giáo đương thời phát triển, đồng thời nó cũng phản ảnh tâm tư nguyện vọng của chính cụ Sắc là cần phải gấp gáp hướng dẫn quần chúng Phật tử quay về Chánh pháp, phải kêu gọi đội ngũ trí thức kịp thời dấn thân phục vụ nhân sinh để đất nước mau chóng thanh bình thịnh trị (Hô Hào Trí Thức Thượng Thiên Lai chính là nghĩa này vậy). Theo cụ Sắc, có thực hiện được ý tưởng này thì mới “Đích thực là Như Lai”, mới “Đích thực là bậc Trí”.

Hành trình cũng như công trạng trong quá trình tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo của cụ Sắc chỉ đơn cử như vậy thiết nghĩ cũng là quá đủ trong một tham luận vốn có giới hạn. Đến đây thiết nghĩ cũng cần có đôi dòng về tâm trạng, hay nói khác hơn là nói về tinh thần giác ngộ đời sống vô thường rất thuần túy của một người Phật tử thuần thành luôn ngự trị trong tâm hồn vốn nhiều trắc ẩn và sâu kín của cụ Sắc. Thật vậy, có lẽ tư tưởng Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc trong con người của cụ, cộng với bối cảnh đau thương của đất nước, nên khi cụ viết thư về quê cho người cháu và những người thân thuộc của mình, cụ bày tỏ:

Thúc phụ Phó bảng Nguyễn thị, Nguyễn Sinh Lý thư
Nhân sanh nhược đại mộng,
Thế sự như phù vân
Uy thế bất túc thị
Xảo hiểm đồ tự hại
Giới chi! Giới chi!
Tạm dịch:
Thư chú Nguyễn Sinh Sắc gửi cháu Nguyễn Sinh Lý,
Đời người như giấc mộng lớn,
Thế sự như đám mây bay,
Quyền lực không đủ để dựa,
Gian xảo là tự hại mình,
Răn thay! Răn thay!

Từ những ngày đầu trong chốn quan trường, cụ Sắc đã thấm nhuần tư tưởng triết lý của đạo Phật nhìn cuộc đời là vô thường, là huyễn ảo… Cụ luôn ứng dụng tinh thần nhập thế của đạo Phật để phát huy tinh thần yêu nước. Trong tình cảm sâu sắc của mình đối với đạo Phật đã được bộc lộ rất rõ khi cụ viết thư về Nghệ Tĩnh để khuyên bà con và họ hàng theo đạo Phật. Thư này lọt vào mật thám Vinh và chúng đã báo cho Khâm sứ Trung Kỳ: “Vinh, ngày 8-9-1927. Nguyễn Sinh Huy báo tin cho bà con họ hàng biết là ông ta đang ở tại số 225 nhà Tiến Phúc Đồng phố Thiết Bình (ESP.AGNE) khuyên bà con nên theo đạo Phật”. Đặc biệt là khi nhà cách mạng Phan Trọng Bình (con của cụ Tú Cúc Phan Đình Viện hoạt động yêu nước tại chùa Hội Khánh với cụ Sắc) từ Quảng Châu về gặp cụ để hỏi tình hình đất nước và phương cách để bảo vệ đất nước, cụ dạy: “Các cháu muốn giải phóng, các cháu phải theo đạo Phật”.(4)

Cái nhìn về vô thường của cụ là cái nhìn tích cực; thấy vô thường thấy giả huyễn, thấy các pháp là duyên hợp không thực. Từ cái nhìn này, trong suốt cuộc đời của mình, cụ không dính mắc, không chấp trụ hay bảo thủ cái gì riêng tư cho mình. Trong thời gian ở Sài Gòn, hằng ngày cụ xem mạch, kê toa kiếm sống. Cụ rất đơn giản, chỉ có hai bộ đồ trong mình, mang guốc giông, quần xà lỏn, áo vải xanh Nam Định, ăn cơm ở vỉa hè chợ Bến Thành chung với bà con lao động lam lũ. Tối về chùa Linh Sơn, chùa Sắc tứ Từ Ân để tham cứu kinh điển. Từ cái nhìn vô thường theo chiều hướng tích cực, cụ Sắc mới có thể hy sinh tình cảm thiêng liêng cha con cho dân, cho nước. Trong cuộc chia tay của hai cha con tại Bến Nhà Rồng năm 1911, khi Nguyễn Tất Thành nhìn cha mình sức khỏe bị suy sụp quá nhiều, cha đã hy sinh nuôi dưỡng dạy dỗ chưa kịp báo đáp thâm ân quả thật là bất hiếu, ra đi con chưa yên lòng (lời tâm sự của Nguyễn Tất Thành khi nhìn cha). Cụ bảo: “Nước mất thì lo cứu nước, con chỉ có mỗi một việc đó phải làm, cứu nước tức là hiếu với cha rồi. Con hãy mạnh dạn lên đường...”. Lời nói sắc bén nhưng chứa đầy tình cảm của cụ, đó là nguồn động viên duy nhất để Nguyễn Tất Thành yên tâm tìm đường cứu nước.

Cứu nước tức là hiếu với cha rồi”. Nếu không cảm nhận được sâu sắc triết lý vô ngã, vị tha của đạo Phật, thì khó có thể ai nói được câu này. Đức Phật có cái nhìn tuệ giác như vậy, khi Ngài quyết định bỏ ngai vàng và vua cha để tìm chân lý cứu nhân sinh tức là báo đáp nghĩa - tình.

Khoảng cuối năm 1923, do mật thám Pháp theo dõi, cụ từ Thủ Đức đi đến nhà của Gaston và từ đây cụ đến chùa Hội Khánh để gặp người đồng chí của mình là Phan Đình Viện tức Tú Cúc (quê Hà Tĩnh, tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp truy lùng trốn vào Nam và ở chùa Hội Khánh từ năm 1922). Cụ Sắc hội ngộ với cụ Tú Cúc và Hòa thượng Từ Văn, vị trụ trì thứ 6 chùa Hội Khánh, một nhà sư uyên thâm Phật học và có tinh thần yêu nước. Họ đã gặp nhau và cùng chung lý tưởng bảo vệ quê hương Tổ quốc. Cuộc hội ngộ này đã quy tụ được những nhà yêu nước tại địa phương như: Ông Khôi, ông Nhẫn, thầy Ký Cội; Giáo thọ Quới, thầy Từ Tâm… Từ đây, Hội Danh Dự Yêu Nước được thành lập tại chùa Hội Khánh. Cụ Sắc âm thầm xây dựng phong trào yêu nước nơi đây như cụ đã từng làm ở Chợ Gạo, Vĩnh Kim, Sớm Dầu (Tiền Giang), chùa Hòa Khánh, chùa Giồng Thành và nhiều nơi khác ở Campuchia. Đặc biệt là chùa Hội Khánh, do ảnh hưởng uy tín của Hòa thượng Từ Văn nên các vị đã tổ chức được Hội Danh Dự Yêu Nước. Hòa thượng Từ Văn là bậc danh tăng của Nam Kỳ. Năm 16 tuổi Hòa thượng nhập chúng tu học tại chùa Huệ Nghiêm (Thủ Đức) cầu pháp Đại lão Hòa thượng Huệ Lưu. Năm 1898, Tổ Huệ Lưu viên tịch, Hòa thượng Từ Văn tiếp tục đi học đạo tại chùa Sùng Đức hạt Chợ Lớn - Gia Định. Năm 1909, Hòa thượng Từ Văn được cung thỉnh làm chứng minh trùng tu tháp Tổ Nguyên Thiều chùa Kim Cang (Đồng Nai), làm pháp sư, chánh chủ kỳ tại các trường hạ chùa Tam Bảo (Rạch Giá), chùa Giác Lâm (Gia Định). Năm 1920, Hòa thượng được Toàn quyền Đông Dương Pháp mời sang Marseille (Pháp) và cũng trong năm này Hòa thượng được phong làm Tăng thống Nam Kỳ (Hòa thượng cả). Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, Hòa thượng Từ Văn được Hòa thượng Từ Phong và quí Hòa thượng miền Tây liên hệ, trao đổi để phát triển sâu rộng phong trào chấn hưng tại vùng miền Đông. Hòa thượng tổ chức mở các lớp dạy giáo lý, chấn hưng các cơ sở chùa trong tỉnh. Đặc biệt lợi dụng uy tín của mình đối với nhà cầm quyền Pháp, Hòa thượng thành lập Hội Danh Dự Yêu Nước cùng với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Tú Cúc Phan Đình Viện. Hội chủ yếu là truyền bá tư tưởng yêu nước, chấn hưng Phật giáo thông qua các buổi thuyết giảng giáo lý, mở lớp dạy chữ Nho, dạy bốc thuốc… Hình ảnh cụ đồ xứ Nghệ đã để lại ấn tượng tốt đẹp và tình cảm sâu sắc cho giới Phật giáo cũng như đồng bào đất Thủ trong thời gian cụ hoạt động tại chùa Hội Khánh.

Thời gian hoạt động của Hội Yêu Nước không bao lâu bị thực dân Pháp phát hiện. Cụ Sắc phải rời chùa Hội Khánh về khu vực miền Tây tiếp tục hoạt động và an nghỉ vào ngày 26-11-1929 (nhằm ngày 26.10 năm Kỷ Tỵ), thọ 67 tuổi tại chùa Hòa Long ở Cao Lãnh, ngôi chùa mà cụ Sắc muốn gửi thân xác của mình khi qua đời.

Cụ Sắc trong suốt thời gian hoạt động truyền bá tư tưởng yêu nước, theo quan điểm của cụ là dựa vào đạo Phật trong các buổi thuyết giảng đạo pháp. Muốn làm được điều này cụ phải nghiên cứu Phật học, thâm nhập kinh điển và cả việc tu tập mới có đủ nội lực cho việc dùng đạo Phật để truyền bá yêu nước. Cụ thể là cụ thường đến các ngôi chùa để nghiên cứu Tam tạng kinh điển, đàm đạo với hầu hết các bậc danh tăng đương thời, đặc biệt là những danh tăng có tư tưởng nhập thế. Tất cả những cuộc đàm đạo, trao đổi học Phật của cụ đều được các bậc cao tăng nhận xét đánh giá trình độ học Phật uyên thâm của cụ. Cụ là một tín đồ Phật giáo không phải dựa vào bằng phái quy y của Hòa thượng Hồng Đại - Bửu Phước cấp. Bằng phái quy y chỉ là minh chứng cho một thủ tục của bất cứ ngôi chùa nào khi nhận tín đồ. Nhưng ở đây, chúng ta thấy rõ tinh thần và tư tưởng của cụ hoàn toàn mang âm hưởng của đạo Phật, ngay cả phong cách sống của cụ cũng chịu ảnh hưởng đạo Phật. Tình cảm đó đã theo cụ cho đến cuối cuộc đời khi biết mình không còn sống bao lâu nữa. Cụ khuyên những người thân hãy gấp rút chèo xuồng đưa cụ về chùa Hòa Long. Cụ nói: “Tôi biết mình không còn sống bao lâu nữa, nếu có chết trong chùa là một điều tốt cho tôi”. Tư tưởng và cuộc đời của cụ Nguyễn Sinh Sắc đã cho chúng ta thấy rõ cụ là con người của tinh thần yêu nước, thương dân, biết xả thân cho đại nghĩa, lấy quốc gia làm trọng. Một nhà học Phật uyên thâm, một tín đồ đạo Phật, một nhà tư tưởng nhập thế tích cực của Phật giáo.

Nhìn lại những trang vàng của lịch sử dân tộc để thấy rằng Phật giáo luôn đồng hành, chung vai gánh trách nhiệm cùng dân tộc trong thời bình cũng như thời chiến tranh ly loạn. Đồng thời, qua đây chúng tôi muốn củng cố và tăng thêm sức thuyết phục cho ý tưởng muốn giải phóng dân tộc thì cần phải chấn hưng Phật giáo như tư tưởng và hành trạng mà cụ Nguyễn Sinh Sắc đã thể hiện.

Trong thời đất nước bị ngoại bang xâm chiếm, dân tộc bị đô hộ, nếu muốn giải phóng dân tộc thì cần phải chấn hưng Phật giáo. Cũng vậy, trong thời kỳ thanh bình, nếu muốn bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, thiết nghĩ chúng ta cũng cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc chấn hưng Phật giáo. Chấn hưng Phật giáo trong bất kỳ thời nào, định hướng đầu tiên cũng đều phải bắt đầu từ lòng tự trọng dân tộc của bản thân mỗi người con Phật. Một khi nghĩ đến đạo pháp và dân tộc chúng ta đều phải tha thiết đóng góp và vực dậy lòng tự trọng đang ngủ quên đâu đó nơi mỗi con người, có vậy chúng ta mới khơi dậy tinh thần tích cực trong đời sống tu học và khơi dậy tinh thần yêu nước thương dân bằng những hành động cụ thể và thiết thực. Hoàn thiện nhân cách và tăng nguồn Phật chất trong mỗi người con Phật đó chính là yếu tố trong công cuộc chấn hưng Phật giáo, nhờ yếu tố quyết định này mà Phật giáo sẽ hưng thịnh, cũng chính nhờ yếu tố quyết định này mà trật tự xã hội sẽ ổn định, tinh thần yêu nước của người dân nói chung và quần chúng Phật tử nói riêng sẽ được dâng cao. Tất nhiên, đất nước sẽ ngày càng hưng thịnh theo tỷ lệ thuận với phong trào chấn hưng Phật giáo. Chúng tôi chủ quan cho rằng, dù trong thời đại nào, chấn hưng Phật giáo cũng luôn là một trong những giải pháp cấp bách để xây dựng đất nước thịnh trị, nhất là đối với Phật giáo Việt Nam có một truyền thống và quá trình đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc do Sở Văn hóa và Thông tin Đồng Tháp cấp phép ngày 21-3-1990.
- Tư liệu Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp.

 

1. Theo Tự điển Văn học - NXB KHXH-1983.
2. Theo tư liệu của cư sĩ Khánh Vân - Duy Tân - số 18.
3. Theo GS. Trần Văn Giàu.
4. Theo Hà Huy Giáp.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
16 Tháng Tám 2016(Xem: 6591)
Lời ban biên tập - Nhà báo Malcolm Browne là một trong những nhân chứng người nước ngoài có mặt tại sự kiện Bồ-tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963, ông đã chụp liên tục khoảng 10 cuộn phim ghi lại hình ảnh HT.Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân mà trong đó có một bức ảnh được xem là biểu tượng đã mang lại cho ông giải thưởng ảnh báo chí quốc tế năm 1963 và đoạt giải Pulitzer vào năm 1964. Trước khi từ giã cõi đời vào ngày 27-8-2012 ở tuổi 81 tại Hoa Kỳ, ông đã có cuộc trò chuyện với Patrick Witty, biên tập viên hình ảnh của Tạp chí Time tại nhà riêng của ông ở Vermont, Hoa Kỳ về sự kiện lịch sử mà ông là nhân chứng. Chúng tôi trân trọng gởi đến quý độc giả nội dung của buổi trò chuyện giữa hai người qua bản dịch Việt của Tường Anh và Tịnh Thủy hiệu đính.