TƯ TƯỞNG THIỀN HỌC TRẦN THÁI TÔNG
Như Hùng
Như Hùng
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc. Trần Thái Tông được kể như một ông vua tài giỏi, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu cả hai phương diện chính trị và tâm linh, nhưng cũng là một ông vua mang nhiều đắng cay ngang trái trong sự nghiệp chính trị. Cũng có thể những điều ấy là chất liệu xúc tác, nuôi dưỡng để Trần Thái Tông trở thành minh quân, một thiền sư lỗi lạc.
Trần Thái Tông từ bỏ ngôi vua, âm thầm lên núi Yên Tử để đi tu cầu thành Phật, nhưng bằng vào câu nói của Trúc Lâm thiền sư " Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta" khiến tất cả mọi cơ năng sụp đổ, mọi phiền lụy vỡ tung, nhạt nhòa. Phải chăng câu nói của Trúc Lâm thiền sư như môt công án tác động, đánh thức, khiến Trần Thái Tông từ một người với đầy ưu phiền, giờ đây bỗng chốc thức tỉnh, trút bỏ mọi ngang trái, khổ đau? Nếu không có Trúc Lâm Quốc Sư, hẳn đã không có Trần Thái Tông với tâm linh cao vút, tư tưởng giác ngộ siêu việt, với sự nghiêp chính trị mang lại thinh vượng cho Dân Tộc, và đem đến dòng văn học Thiền sáng chói trong lịch sử Thiền tông của Phật giáo Việt Nam. Nhờ kết hợp, phát huy ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, và Thảo Đường, trở thành thiền phái Trúc Lâm, thiền phái duy nhất đời nhà Trần, một thiền phái nhập thế mang đậm nét Dân Tộc, dấn thân đi vào cuộc đời, chuyển hóa phiền não, khổ đau bằng con đường hành động tích cực không xa lánh. Phụng sự chúng sanh làm sự nghiệp giác ngộ, giải thoát, ở ngay trong cuộc đời trôi nỗi, biến động nầy .
Tư tưởng Trần Thái Tông vẫn mãi rực sáng trên bầu trời tâm linh, hình bóng ông ngã dài theo từng bước vươn lên đi tới của dân tộc. Công ơn của ông vô cùng to lớn.
Bên cạnh sự thành tựu của ông, hai nhân vật gây ảnh hưởng rất lớn mà ta không thể không nhắc đến:
- Trần Thủ Độ (1194-1264)
Người có công sáng lập ra nhà Trần, mệnh danh kẻ uy quyền và cũng là nhà tham mưu đầy chiến lược.
" Người ta chỉ biết ca tụng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong hai trận đánh giặc Mông Cổ (1284-1288), nhưng chính người đã tạo ra bậc cứu quốc anh hùng ấy là Trần Thủ Độ thì hậu thế đã lảng quên đi. Cả đến câu bất hủ " Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ đừng lo" Độ nói cùng vua Trần Thái Tông hồi năm Đinh Tỵ (1257) lúc tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai đem quân sang xâm phạm lãnh thổ nước Nam, người đời cũng ít khi nhắc đến".
Vào năm Thái Tông 20 tuổi, Trần Thủ Độ bắt buộc ông, phế hoàng hậu Chiêu Thánh (Lý Chiêu Hoàng) để cưới người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên, vốn là vợ của anh mình Trần Liễu, lúc nầy đã mang thai để phong làm Hoàng Hậu. Từ đó đưa đến cuộc nổi loạn của Trần Liễu, khiến Thái Tông lâm vào hoàn cảnh bế tắc, oan khiên, khó lòng thoát ra được, cho dù ông kịch liệt phản đối. Bởi lẽ mọi quyền hành đều nằm trong tay Trần Thủ Độ, vừa là Thái Sư vừa là chú ruột của mình, người có công đào tạo và dạy dỗ vua từ thuở nhỏ. Thái Tông từ bỏ cương vị của một quân vương, tìm đến núi rừng Yên Tử để ẩn tu . Nhưng vì Trần Thủ Độ cùng quần thần tìm đến, bắt buộc ông phải trở về trị quốc. Khi tìm gặp nhà vua ở núi Yên Tử, những lời thống thiết của ông tâu với nhà vua .
"Thần nhận sự uỷ thác của tiên quân, tôn phụng bệ hạ làm chúa tể dân thần. Lòng dân kính yêu trông đợi bệ hạ chẳng khác nào con nhỏ quyến luyến mẹ cha. Huống chi các cố lão trong triều ngày nay chẳng một ai không là bề tôi thân thuộc, chúng dân sỹ thứ chẳng người nào không vui vẽ phục tòng. Cho đến đứa trẻ lên bảy cũng biết bệ hạ là bậc cha mẹ dân. Vả Thái Tổ bỏ thần mà đi, nắm đất trên mồ chưa khô, lời trăng trối bên tai còn đó. Thế mà bệ hạ lại lánh gót ẩn cư nơi núi rừng, để theo đuổi cái chí riêng mình. Như thần nghĩ, bệ hạ tính kế tự tu đã vậy, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Nếu chỉ để lời nói suông lại cho đời sau, sao bằng đem thân mình làm gương trước cho thiên hạ. Nhược bằng bệ hạ không nghĩ lại thì chúng thần và người trong nước xin cùng chết ngay hôm nay, quyết không trở về nữa." Nguyễn Đức Vân _ Băng Thanh dịch, trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thơ Văn Lý Trần tập 2, trang 29
Lời của Trần Thủ Độ không chỉ lời khuyên, mà còn là triết lý hành xử cho bậc đế vương. Nếu không có Trần Thủ Độ thì không có nhà Trần, người có công đẩy lùi hai cuộc tấn công của quân Mông Cổ. Một đế quốc mà vó ngựa xâm lăng đã thống trị gần hết các châu lục, nhưng đã bại dưới tài dũng lược của Trần Thủ Độ, của Trần Thái Tông, cùng tướng sĩ và quân dân nước Việt. Một Quốc sư Trúc Lâm khai mở Trần Thái Tông trong lãnh vực tâm linh, trị quốc. Một Trần Thủ Độ trong lãnh vực chính trị, an dân. Nếu luận về công và tội của Trần Thủ Độ, cho dù khách quan vô tư, ta cũng khó lòng đánh giá đúng mức về ông, không phải việc ông có lỗi với người nầy, có tội với người kia, có công với nhà Trần có tội với nhà Lý, mà trên hết là những đóng góp dài lâu của ông, cho dân tộc cho hậu thế. Ông có những lý lẽ và quyết định của riêng ông, nhờ có ông mà dân Việt không đắm chìm trong nô lệ. Ý thức điều đó, ông quyết tâm cải tổ lại xã hội về nhiều lãnh vực như: kinh tế, chính trị, xã hội, văn học, làm lợi ích cho quốc gia, dân tộc.
Lịch sử từng chứng minh, khi triều đại nầy lên cũng đồng nghĩa triều đại trước phải kết thúc, khi làm vừa lòng nhóm người nầy, thì nhóm người khác phải hy sinh, hạnh phúc cho người nầy sẽ gây kkhổ đau cho kẻ khác. Dù đồng ý hay không, dù đứng dưới mọi góc cạnh nào để nhận định, phê phán, thì bóng dáng của ông vẫn hùng vĩ, hìên ngang, lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc.
- Trúc Lâm Quốc Sư
Người đã gây tác động mãnh liệt vào nội tâm của Trần Thái Tông, khiến ông thức tỉnh, buông bỏ, hoá giải mọi ưu phiền, khổ đau, bế tắc. Bằng vào câu nói " Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chổ, không cần phải đi tìm cực nhọc bên ngoài"
Thiền sư khuyên vua trở về trị nước và thường xuyên nghiên cứu tu tập " Đã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy lòng dân làm lòng của mình. Nay dân đã muốn vua về thì vua không về làm sao được! Duy có việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng chút xao lãng mà thôi." (bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam).
Lời khuyên của Trúc Lâm thiền sư, ẩn chứa cả một tư tưởng thực nghiệm, xử thế cho bậc minh quân,và là hành trang tối cần để đưa dân tộc đạt đến vinh quang, thịnh vượng. Nhờ vào sự khai mở tâm linh đó, Trần Thái Tông nhận ra được vị trí đích thực của mình, lấy ý và lòng của dân làm ý và lòng mình, quên thân mình để phụng sự, thống hợp nhân tâm tạo thành sức mạnh đoàn kết quốc gia.
" Trong bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông chỉ gọi vị thiền sư núi Yên Tử là Trúc Lâm đại sa môn, tôn xưng là quốc sư, mà không bao giờ gọi ông là Phù Vân Quốc Sư. Vị thiền sư này là đệ tử của Hiện Quang mà theo Thiền Uyển Tập Anh, có pháp danh là Đạo Viên, sách Thánh Đăng Lục, sách Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh và tài liệu truyền thừa chùa Hoa Yên (theo Hoà Thượng Phúc Điền) đều nói tên thiền sư là Viên Chứng.
Viên Chứng hay Đạo Viên hay Trúc Lâm Quốc Sư cũng là một người." Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 trang 228.
Nhờ vào tư tưởng thiền học chỉ đạo, dẫn lối, Trần Thái Tông đã tổng hợp, ứng dụng, sáng soi vùng trời tâm linh, mở ra những trang sử mới oai hùng cho Dân Tộc, trên nhiều phương diện: chính trị, văn hoá, học thuật, xã hội, tôn giáo.v.v...Giá trị đó ảnh hưởng lâu dài, không phải chỉ có một thế hệ mà còn nhiều thế hệ, không phải chỉ có một đời mà còn nhiều đời, nó còn xuyên suốt qua nhiều giai đoạn bi hùng của lịch sử Dân Tộc. Từ đó ta thấy được tư tưởng siêu việt, vĩ đại và những đóng góp nổi bật của ông.
Những sáng tác của Trần Thái Tông không những giá trị về mặt tư tưởng, mà còn thiết dụng trong việc hướng dẫn, khai lối, cho sự hành trì, tu tập giác ngộ. Tác phẩm của ông hiện còn: hai bài thơ, hai bài văn, đề tựa cuốn Kinh Kim Cương, đề tựa tác phẩm Thiền Tông Chỉ Nam, và một tác phẩm nổi tiếng Khóa Hư Lục.
Những trích đoạn dưới đây, chỉ một phần nào trong những sáng tác của ông:
- Ký Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn
"Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh
Cá trung tư vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh"
Dịch nghĩa:
Gửi nhà sư Đức Sơn ở Am Thanh Phong
Gió đập cửa thông, trăng sáng trước sân.
Lòng hẹn với phong cảnh cùng trong sạch lặng lẽ
Bao nhiêu thú vị trong đó không ai hay
Mặc cho nhà sư trong núi vui đến sáng.
Dịch thơ:
Gió đập cửa thông, trăng lấp loáng
Lòng đây, cảnh đấy cùng thanh sảng
Bao nhiêu thú vị chẳng ai hay
Mặc kệ cho sư vui đến sáng.
Nguyễn Đổng Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần, tập 2 quyển thượng trang 21
Trần Thái Tông có lẽ sáng tác nhiều về thơ, nhưng do thất lạc hiện chỉ còn có hai, bài thứ nhất chúng ta đã đọc ở trên, bài thứ hai: Tống Bắc Sứ Trương Hiển Khanh. Với bài thơ ở trên, cũng đủ cho ta thấy cảm xúc của ông không đơn thuần là xúc cảm mà nó hoá thân bay bổng, chuyên chở trọn vẹn biểu tượng tâm cảnh cùng hoà nhịp trong sự soi sáng rộng mở.
- Tựa Thiền Tông Chỉ Nam:
"Trẩm thầm nhủ: Phật không chia Nam Bắc, đều có thể tu mà tìm, tính người có trí ngu, cũng nhờ giác ngộ mà thành đạt. Vì vậy, phương tiện dẫn dụ đám người mê muội, con đường tắt sáng tỏ lẽ tử sinh, ấy là đại giáo của đức Phật. Đặt mực thước cho hậu thế; làm khuôn mẫu cho tương lai, ấy là trách nhiệm của tiên thánh. Cho nên Lục Tổ có nói: " Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau". Như thế đủ biết đại giáo của đức Phật ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời. Thế thì nay lẽ nào trẫm không coi trách nhiệm của tiên thánh là trách nhiệm của mình, giáo lý của đức Phật là giáo lý của mình ư ."
Đoạn mở đầu trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Trần Thái Tông đề cập đến câu " Phật không chia Nam Bắc" khiến chúng ta liên tưởng đến cuộc gặp gỡ giữa Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn với Lục Tổ Huệ Năng:
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn hỏi Huệ Năng: " Ngươi ở phương nào đến đây muốn cầu việc gì?"
Huệ Năng thưa rằng: " Đệ tử người ở Lĩnh Nam, vốn chỉ là một tên thường dân ở Tân Châu, nay lặn lội từ phương xa đến bái lạy Hòa Thượng chỉ cầu làm Phật chứ không cầu gì khác."
Tổ nói: " Ngươi là người Lĩnh Nam lại thuộc giống mọi rợ làm thế nào mà thành Phật được?"
Huệ Năng thưa rằng: " Con người tuy có Nam Bắc, Phật tánh lại chẳng có Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ này không giống với thân Hòa Thượng nhưng Phật tánh không có gì sai khác."
Trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, ta thấy Trần Thái Tông tường thuật lại bối cảnh của ông nhiều hơn mặt tư tưởng, khi rảnh rỗi ông thường tham vấn Thiền học với những vị đạo cao đức trọng, nghiên cứu những bộ kinh điển lớn. Có điều chúng ta cần ghi nhận, nhờ đọc kinh Kim Cang khiến ông giác ngộ. Ông viết " Trẩm thường đọc kinh Kim Cương, đến câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm " vừa gấp sách lại ngâm nga, bổng nhiên tỉnh ngộ".
Vậy năng lực của kinh Kim Cang như thế nào, khiến Lục Tổ Huệ Năng lãnh hội tâm Phật và Trần Thái Tông tỉnh ngộ ? Câu " Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm " nghĩa là "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào". Được Lục Tổ giảng như sau: " Hà kỳ tự tánh? Bản tự thanh tịnh. Hà kỳ tự tánh? Bản tự sanh diệt. Hà kỳ tự tánh? Bản tự cụ túc. Hà kỳ tự tánh? Bản vô động dao. Hà kỳ tự tánh? Năng sinh vạn pháp. Thức đắc thử tâm, diệu tạm viên tịch, bất nệ phương sở, bản vô sở sanh".
Tạm dịch: Thế nào là tự tánh? Vốn tự nó thanh tịnh. Thế nào là tự tánh? Vốn tự nó sanh diệt. Thế nào là tự tánh? Vốn tự nó đầy đủ. Thế nào là tự tánh? Vốn tự nó không lay động.Thế nào là tự tánh? Nó có thể sinh ra muôn pháp. Giác ngộ được tâm nầy, kỳ diệu sâu sắc, tròn đầy lặng lẽ, không bị lệ thuộc vào nơi chốn, vốn tự nó không từ đâu sanh ra.
- Tựa Kinh Kim Cang Tam Muội:
"Trẩm nghe, bản tính sâu trầm, chân tâm trong lặng. Khuyết tròn đều dứt, tính trí nào tìm được mối manh; tan hợp đều quên, tai mắt há dự vào hình bóng. Hữu vô nắm được; đạo tục san bằng. Sừng sững riêng mình; cao siêu có một. Đó là dòng sông trọng yếu của tự tính kim cương vậy.
Thế mà chúng sinh từ lâu đã bị thói quen của nghiệp bun nhiễm; thần thức lại thường chịu sóng gió của tri kiến lung lay, thì làm thế nào? Rời bỏ nết ô trọc che trùm há chẳng có ai; song xoay vần sáng tuệ chiếu soi quả chưa được mấy. Những khiến lang thang khắp chốn; mờ mịt lối về. Khập khểnh đường đời; rối bời chính đạo. Gốc nguồn khôn tỏ; thật dối khó phân. Vàng ròng lẫn với đồng thau; trăng sáng hiện cùng bụi bặm. Quê hương lầm về nơi không chốn; mặt mũi, quên dáng nét nguyên xưa. Đường Niết Bàn thực khó tiến lên; việc sống chết rơi vào hữu hạn. Cho nên thầy ta nhân ái , chỉ bảo vô sinh từ nhẫn; xót thương nỗi khổ đắm chìm. Tứ hoằng thệ nguyện để lòng; nhọc mệt tam tư da diết. Phép trong ứng hiện, sao lành soi tỏ triều Chu; chính pháp tượng về, bóng Phật nằm mơ nơi điện Hán. Đằng lan chở tới, trúc đán vừa thông; Kinh Phạn dịch ra, văn hoa rực rỡ. Đổi thay lá bối; viết vào lụa hồng. Bể giáo phơi bày đủ loại trân châu; trời kinh la liệt muôn vàn sao sáng. Hoặc muốn tăng thêm nơi chưa ổn; hoặc mong bồi bổ chổ sót rơi. Nối gót theo nẻo Y- ngô; đưa chân tiếp đường sa mạc. Không ngại xa mà vượt bể; dốc một dạ để về Hoa. Từ Hán bắt đầu; đến nay rộng mở. Khuyết, tròn, đầy, nửa, không chút thiếu ở hòm châu; nhanh, chậm, thực, quyền, vẫn có thừa trong cặp báu. Kinh Kim Cương Tam Muội lẽ nào không phải là loại viên mãn, đốn thực hay sao? Nếu không thế thì sao đủ đem vô sinh pháp yếu, trổ phương tiện thần thông?"
Đỗ Văn Hỷ- Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển Thượng trang 33.
Kinh Kim Cang, gọi đầy đủ Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa. Phần mở đầu, và cũng là trọng tâm của kinh này, bằng vào hai câu hỏi của ngài Tu Bồ Đề:
"Làm sao hàng phục vọng tâm?"
"Làm sao an trụ chơn tâm?"
Vọng tâm? Mê mờ chấp ngã, chấp pháp, chạy theo nắm bắt mộng, huyễn, tử, sanh, nên mới điên đảo trôi lăn trong vòng luân hồi, sanh tử, không một phút giây dừng lại.
Chơn tâm? Cái tâm trong sáng tròn đầy, viên dung vô ngại, tỉnh thức, vượt thoát ra ngoài mọi triền phược, níu kéo, dính mắc. "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào". cũng là cách " an trụ chơn tâm" vậy. Đây là phương pháp tu hành của những bậc "xuất trần thượng sỹ".
Năng lực của Kinh Kim Cang phá trừ những mê vọng, chấp trước. Chặt tan làm tiêu hủy ngã chấp, pháp chấp, không một nơi chốn nào có thể trụ bám được. Công năng của kinh, hiển bày sự giác ngộ, làm hưng khởi chơn tâm một cách toàn triệt.
Lục Tổ Huệ Năng và Kinh Pháp Bảo Đàn, đã ảnh hưởng mạnh mẽ vào thời nhà Lý, Trần, vì thế trong bài tựa Thiền Tông Chì Nam, Trần Thái Tông đề cập đến câu " Phật không chia Nam Bắc" và trích dẫn lời của Lục Tổ " Bậc đại thánh và đaị sư đời trước không khác gì nhau". Điều đó cho thấy sức ảnh hưởng của Đại thừa đốn giáo thiền tông, ăn sâu vào trong tận cùng tâm thức quảng đại quần chúng.
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng thuyết giảng có đoạn:
"Chư Thiện tri thức, muốn vào pháp giới cao thâm cùng Trí Bát Nhã Tam Muội thì phải tu hạnh Bát Nhã. Phải trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã, tức khắc thấy tánh. Phải biết các công đức của kinh ấy thiệt là vô lượng vô biên. Những lời khen ngợi trong kinh rất rõ ràng, không thể nói ra hết được. Cái pháp môn ấy là pháp Tối Thượng Thừa, vì người đại trí, vì người thượng căn mà nói. Các người tiểu căn tiểu trí nghe pháp môn ấy, lòng nghi ngờ chẳng tin là bởi cớ sao? Ví như các vị Thiên Thần và Long Thần làm mưa xuống cõi Diêm Phù Đề (tức là cõi Nam Thiệm Bội Châu) thì cả thảy thành, ấp, làng, xóm đều trôi nổi như lá táo. Còn nếu mưa xuống biển cả, thì thấy chẳng thêm chẳng bớt. Cũng như người đại thừa, người tối thượng thừa nghe nói kinh Kim Cang, thì tâm địa mở mang tỏ hiểu. Cho nên biết rằng Bổn tâm tự nó có trí Bát Nhã. Bởi Bổn Tánh của mình thường lấy trí huệ mà xem soi, cho nên chẳng cần dùng văn tự. Ví như nước mưa chẳng phải do trời làm mà có, nguyên bởi năng lực của nước dấy động, khiến cho cả thảy các loài hữu tình, các loài vô tình, tất cả đều được gội nhuần. Cả thảy sông ngòi đều chảy vào bể cả, hiệp làm một thể. Cái Trí Bát Nhã của Bổn Tánh của chúng sanh cũng giống như thế".
"Chư Thiện tri thức, tâm không giác ngộ, Phật là chúng sanh. Một niệm giác ngộ, chúng sanh tức là Phật. Cho nên biết rằng muôn pháp đều ở nơi Bổn Tâm của mình. Vậy sao chẳng do nơi Bổn Tâm của mình mà thấy liền cái Chơn Như Bổn Tánh? Kinh Bồ Tát Giới có nói rằng: “ Cái Bổn Nguyên tự tánh của ta vốn trong sạch. Nếu biết tâm mình và thấy tánh mình, thì thành Phật đạo.” Kinh Tịnh Danh có nói: “Tức thời tâm trí thông suốt, thì phục hồi đặng Bổn Tâm.” Kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Bát Nhã, Hòa Thượng Minh Trực dịch.
- Khóa Hư Lục: Tác phẩm rất nổi tiếng, tổng hợp nhiều bài giảng, tiểu luận, thi kệ chia làm ba quyển.
Quyển Thượng: Phổ thuyết
* Phổ thuyết Tứ Sơn ( sinh, lão, bệnh, tử )
* Phổ thuyết sắc thân
* Phổ khuyến phát Bồ Đề Tâm
* Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ
Quyển Trung: Luận, văn, ngữ lục
* Giới định tuệ luận, Thụ giới luận, Niệm Phật luận, Toạ thiền luận, Tuệ giáo giám luận, Bình đẳng lễ sám văn tự, Giới sát sinh văn, Giới thâu đạo, Giới sắc văn, Giới vọng ngữ văn, Giới tửu văn, Ngữ lục vấn đáp môn hạ, Niệm tụng kệ ( 43 công án).
Quyển Hạ: Lục thì sám hối khoa nghi
* Tựa lục thì sám hối khoa nghi
* Sáu thời gồm có: Thì sáng sớm, Thì giữa trưa, Thì mặt trời lặn, Thì chập tối,Thì nữa đêm, Thì rạng đông,
Sơ nhật thì: ( Thì sáng sớm) Dần thì cảnh sách kệ, Sơ nhật chúc hương, Hiến hương kệ, Hiến hoa kệ. Khải bạch. Sám hội nhãn căn tội. Chí tâm khuyến thỉnh. Chí tâm tùy hủy. Chí tâm hồi hướng. Chí tâm phát nguyện. Sơ nhật vô thường kệ.
Trung nhật thì: ( Thì giữa trưa) Trung nhật trung chúc hương, Khải bạch, Sám hối nhỉ căn tội, Chí tâm phát nguyện, Thử thời vô thường kệ.
Nhật một thì: ( Thì mặt trời lặn) Nhật một chú hương, Khải bạch, Sám hối tỵ căn tội, Chí tâm phát nguyện, Thử thời vô thường kệ.
Sơ dạ thì: ( Thì chập tối ) Hoàng hôn khuyến chúng kệ, Bát khổ kệ, Sơ dạ chúc hương, Khải bạch, Sám hối thiệt căn tội, Chí tâm phát nguyện, Thử thời vô thường kệ.
Bán dạ thì: ( Thì nữa đêm ) Bán dạ chúc hương, Khải bạch, Sám hối thân căn tội, Chí tâm phát nguyện, Thử thời vô thường kệ.
Hậu dạ thì: ( Thì rạng đông ) Hậu dạ chúc hương, Khải bạch, Sám hối ý căn tội, chí tâm phát nguyện, Thử thời vô thường kệ.
Trong sáu thời tu tập, chúng ta thấy Trần Thái Tông chú trọng đến: Dâng hương hoa, tâu bạch, sám hối, phát nguyện, hồi hướng, kệ vô thường. Trong đó có sự thành tâm, trãi lòng, sám hối sáu căn, hướng nguyện, khuyên răn, nhắc nhở. Nếu chúng ta biết áp dụng phương cách tu tập như ông, sẽ mang lại ích lợi một cách hoàn mỹ, thiết thực.
- Phổ thuyết tứ sơn: ( Nói rộng về bốn núi)
Tứ Sơn, là bốn núi tượng trưng cho sinh, lão, bệnh, tử. Đây là chặng đường vô thường, có không, cửa ải, mà ai cũng phải đi qua. Đó là bốn nguyên lý, bất di bất dịch, ta không thể nào trốn chạy hay lánh né được. Chỉ có đương đầu trực diện, sống và thở cùng nó, mới may ra làm chủ được phần nào. Và ta chỉ có thể điều khiển được khi năng lực cơ thể, tinh thần còn sung mãn, nhưng khi vô thường, nhân qủa nghiệp lực, bệnh tật khiến nó yếu đi, hoặc vì lão, bệnh, tử đến, không khéo lúc ấy nó sẽ điều khiển ta. Dù có chờ đợi giây phút đó hay không, nó cũng lù lù xuất hiện, ta bằng lòng hay từ chối nó cũng vẫn hiện hữu. Khi ta biết tỉnh thức tu tập vượt qua, biết thay đổi nghiệp quả số phận, biết làm bạn đồng hành với sinh lão bệnh tử, cũng là lúc ta nhẫn chịu mĩm cười, an phận bằng lòng, như thế phần nào ta đã được thảnh thơi nhẹ bước. Ta sống trong sự tươi vui, an lạc, trong bình minh nắng ấm, trên lối đi về của muôn hoa, hay sống trong hoàng hôn tái tê, lạnh giá với mưa phùn nắng cháy, và sống như thế nào đều do chính ta quyết định.
Bài kệ núi thứ nhứt:
( Chân tể huân đào, vạn tượng thành
Bản lai phi triệu hựu phi manh
Chỉ sai hữu niệm vong vô niệm
Khước bội vô sinh, thụ hữu sinh
Tị trước chư hương, thiệt tham vị
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thanh
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách
Nhật viễn gia hương vạn lý trình.)
Tạo hóa khuôn thiêng đúc vạn hình
Vốn không triệu chứng chẳng mầm xanh
Sai vì hữu niệm quên vô niệm
Trái với vô sinh hướng hữu sinh
Mũi lưỡi tham lam hương lẫn vị
Mắt tai mê mẫn sắc cùng thanh
Phong trần thất thểu làm thân khách
Muôn dặm xa quê cuộc viễn trình.
Đổ Văn Hỷ, Đào Phương Bình, Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2, quyển thượng trang 45
Bài kệ núi thứ tư:
(Bãi đảng cuồn phong quát địa sinh
Ngư ông túy lúy điếu châu hoành
Tứ thủy vân hợp âm mai sắc
Nhất phái ba phiên cổ động thanh
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh
Tạm thời, trần liễm, thiên biên tĩnh
Nguyệt lạc trường giang dạ hỷ canh).
Một trận cuồng phong dậy đất bằng
Ngư ông say khước thả thuyền ngang
Bốn phương mây kéo màu đen kịt
Một giải sông reo sóng dậy tràn
Sầm sập toé tung mưa xối xả
Ý ầm chuyển vận sấm oang vang
Phút giậy bụi cuốn chân trời tạnh
Canh vắng, dòng sông bóng ngyuệt tàn.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 trang 253
Cuộc sống mà chúng ta đang trực diện, phủ vây bởi muôn ngàn đau khổ, âu lo. Những điều chúng ta mong cầu, nó không chịu đến, những thứ mà ta khước từ, xua đuổi nó âm thầm hiện hữu, lôi kéo, xúi dục, khiến ta mãi miết chạy theo, không biết đến bao giờ mới giật mình thức giấc. Không khéo, ta hoang phí đánh mất một đời để phải nổi trôi, chìm đắm trong tử sinh mộng huyển. Ta đi về đâu giữa phong ba bảo tố, với ngút ngàn thống hận, khi đàng trước mịt mờ hoang lộ, đàng sau chập chùng muôn vạn nẽo? Làm sao để giác ngộ, tỉnh thức thắm tô trên nẽo đi về?
Sự đi lại, tán gẫu, nỗi trôi của tâm thức, khiến ta không biết cách nhận thức, biết cách sống, biết cách thở, biết cách tu, nên mãi lăn lộn chìm đắm trong ba đường sáu nẽo chúng sinh. Cứ thế xoay vần, hết xuống lại lên, lên rồi lại xuống, đứng ở nơi nầy trông về hướng khác, nắm được trong tay cái nầy lại lo đi tìm cái kia. Từ trước đến nay ta chỉ lo ôm vào nhận lấy trong sự tích lũy, chứ chưa biết cách nhận và cho trong sự hoan hỷ cùng tuyệt. Cái vòng luẩn quẩn liên kết ấy, ta bỏ một lúc thôi sau đó tìm cách đeo vào, bỏ lúc nầy lấy lúc khác, bỏ tay này tay kia tìm cách lấy lại. Cứ thế ta bị xói mòn, tiêu hao năng lực, phí cả thời gian nào ta có biết. Ta chỉ lo tìm cách thoả mãn bản ngã, nâng niu cung phụng nó cho thật lớn mạnh, tâm lúc nào cũng chạy nhảy lăng xăng, không một phút giây bình tâm tỉnh thức, chưa có cơ hội đặt lại vấn đề, tra vấn với chính ta. Như thế làm sao đi đâu về đâu được? Nơi an lạc nào để ta đến với hành trang và tâm trạng như thế?
- Phổ Thuyết Sắc Thân ( Bàn rộng về sắc thân) ông viết:
" Hởi các người! thân là gốc khổ; chất lấy nghiệp nhân. Nếu tự coi thân đó quả là chân: tức nhận kẻ thù làm ruột thịt.
Các người hãy xem lại cho tường, sắc thân kia khi chưa vào bào thai thì do đâu mà có? Ấy là do niệm nhóm duyên tụ, ngũ uẩn hợp thành. Dáng vóc lầm sinh, hình dung giả lộ. Quên thực quên gốc: hiện dối hiện hư. Hoặc gái hoặc trai: hoặc xinh hoặc xấu. Hết thảy đều để cho tâm rời bỏ, không làm sao trở gót quay về. Nẻo đường sanh tử cứ mãi mê: mặt mũi nguyên xưa thôi mất hết. Chỉ giương mắt, bề ngoài xem xét: nào ngoái đầu hướng nội soi nhìn. Khởi đầu, sinh thực hoá sinh: nơi đến, mộng tràn nói mộng. Lăn lăn lộn lộn: vội vội vàng vàng. Lấy ảo làm chân: bỏ không theo sắc. Gáo đầu lâu , hoa cài ngọc giắt: túi da xấu, xạ ngát hương xông. Cắt lụa là che bọc máu hồng: dồi son phấn át thùng phân thải. Trang sức bề ngoài như vậy, vẫn là cái gốc nhớp nhơ. Thế mà không tự thẹn với mình ư: lại còn chứa lòng yêu thương đắm đuối".
Kệ rằng:
Vô vị chân nhân xích nhục đoàn
Hồng hồng bạch bạch mạc tương man
Thùy tri vân quyển, trường không tịnh
Thúy lộ thiên biên, nhất dạng san.
Vô vị chân nhân thịt đỏ au
Hồng hồng trắng trắng, lừa dối nhau
Ai hay mây cuốn, trời quang tạnh
Núi hiện chân trời, biếc một màu
Huệ Chi dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2, quyển thượng trang 54
Sắc thân là thân do cha mẹ sanh ra, bốn đại ( đất, nước, gió, lửa) và năm uẩn ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hợp thành, tự nó vốn giả hợp. Trần Thái Tông nhờ lãnh hội được trí tuệ của Bát Nhã, nên phăng ra được cội nguồn của vô thường, sinh tử. Khi đề cập đến "sắc" tức các Pháp, còn mang ý nghĩa "sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc" nghiã là: " các pháp chẳng khác với Bát Nhã (không), Bát Nhã chẳng khác với các Pháp; các Pháp tức là Bát Nhã (không), Bát Nhã tức là các Pháp ".
Bồ Tát khi quán chiếu, thường nghiệm, thâm nhập, vào biển Trí huệ vô tận của Bát Nhã, thấy năm uẩn đều "không" nên vĩnh viễn, xa lìa các khổ, chứng đắc cảnh giới vi diệu, an nhiên, thường tịch của giải thoát.
Vô vị chân nhân, còn gọi là "bản lai diện mục", tức là mặt mũi thật sự của mình trước khi cha mẹ chưa sanh. Trong tất cả chúng ta đều tàng chứa Phật tánh, Chân như, thể tánh giác ngộ, khả năng thành Phật. Khi nào vô minh còn che phủ, phiền não còn ngự trị, thì Phật tánh ấy không hiện hữu. Chỉ khi nào quét sạch màng đêm tăm tối cuả vô minh, ánh sáng trí tuệ của tâm thức bùng lên, khi nào đoạn trừ được khổ đau, phiền não, tức khắc Phật tánh ấy lộ diện. Lúc ấy ta hoan ca trong khúc ca chứng đạo, thong dong trên mọi lối đi về của luân hồi, sinh tử, xa rời thống khổ phủ vây.
- Phổ Khuyến Phát Bồ Đề Tâm ( Rộng khuyên mọi người mở lòng Bồ Đề) có đoạn:
" Rõ ràng thay, ngày tháng trăm năm chỉ là phút chốc. Cái ảo thân tứ đại há được lâu dài. Càng ngày càng đắm trần lao, mỗi lúc mỗi vương nghiệp thức. Chẳng hiểu biết sự viên minh của một tính, chỉ buông tuồng cái tham dục của sáu căn. Công danh rất mực chỉ là một giấc mộng to, phú qúy hơn người cũng khó tránh vô thường hai chữ. Cậy mình cậy nó, rút cuộc thành không, khoe giỏi khoe tài, cuối cùng chẳng thực."
" Thanh sơn đê xứ kiến thiên thoát
Hồng ngẫu khai thời văn thủy hương"
" Non xanh nơi thấp trông trời rộng
Sen đỏ mùa hoa nghe nước thơm."
Đổ Văn Hỷ- Băng Thanh dịch, Thơ Văn lý Trần tập 2, quyển Thượng trang 64
- Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ ( Nói rộng về một con đường tiến lên) :
“Bàn Sơn có lời thùy ngữ sau đây: “Một con đường hướng thượng, ngàn thánh không truyền; học giả vì vậy mà khổ công nhọc mình như con vượn tìm bắt bóng hình của nó” (hướng thượng nhất lộ, thiên thánh bất truyền, học nhân lao hình, như hầu tróc ảnh). Quý vị học giả bốn phương hãy hướng về đầu nẻo ấy mà tham thủ lấy thiền ý kia xem sao. Tôi xin hỏi: các vị làm sao mà “tham thủ” được thiền ý ấy? Nếu có chủ tâm tham thủ và đối tượng tham thủ thì cũng như anh chàng gàn điên kia, trên đầu lại muốn thêm có một cái đầu, sau lưng lại có muốn thêm một cái đuôi, trong mắt lại muốn có thêm con ngươi, trên da thịt lại có thêm nhiều cục bướu. Đề tài ấy, nói tới thì môi miệng cứng câm, nhìn tới thì đồng tử rơi rụng... Ông già mắt vàng liếc mắt làm ngơ; Hồ tăng mắt xanh dương mi đứng ngó; Mã Tổ vứt phất trần; Thủ Sơn giấu cào tre; Triệu Châu xé áo gai; Vân Môn bỏ bánh Hồ; Đức Sơn liệng gậy; Lâm Tế nuốt tiếng hét; Phật phật Tổ tổ đều tiềm ẩn tung tích, người người ai nấy đều táng đởm kinh hồn. Đó là một vật dùi sắt đâm vào không được, kim đồng xuyên qua không thủng, ánh sáng nháng ra từ đá lửa mau thế mà không đuổi kịp nó, làn chớp trên trời so với nó cũng còn chậm rì. Chưa thấy được nó thì dù tỉnh ngộ cũng còn trong làng trầm túy; dù mê man cũng còn dẫm trên đường sinh tử; dù đã được phú chúc trên hội Linh Sơn thì cũng vẫn còn ở trong chốn lậu đậu như thường; dù được Thiếu Thất truyền cho thì cũng như còn là trong hang giây quấn. Phải có cơ dương tinh nhuệ mau như chớp giật, một tiếng hét cũng khế hợp được căn cơ; phải có ngôn tài thao thao như dòng sông, hễ thoại đầu đưa ra là giải quyết ngay được. Tham khảo đi tham khảo lại, sâu ngày dài tháng, nếu không dám đi trên con đường đèo trơn trợt thì làm sao thoát được thân phận trong hang sâu núi thẩm?
Này quý vị, hễ đã tới đây thì chớ bỏ qua dịp quý mà không tham cứu. Nhiều kẻ học giả đưa mắt nhìn sườn núi cheo leo, nghĩ rằng khó mà bước tới. Hôm nay vì quý vị tôi không khỏi đánh liều tay rờ râu cọp, chân đi đầu sào chót vót. Khi nói, phải biết rằng như gió thổi tung reo; khi im phải biết rằng như hồ trong trăng chiếu; khi đi, phải biết rằng như nước chảy mây trôi; khi đứng, phải biết rằng như núi yên non vững. Lời nào nói ra cũng đều nằm trong kế hoạch linh hoạt của Thích Ca; câu nào cất lên cũng đều phù hợp với gia phong Sơ Tổ. Buông đi thì tám chữ mở toang, nắm lại thì nhất môn tuyệt đỉnh, hạng ma quỷ sẽ trở thành lâu đài Di Lặc, núi Hắc Sơn sẽ chẳng khác cảnh giới Phổ Hiền: đâu đâu cũng là đại quang minh tạng, căn cơ nào cũng là bất nhị pháp môn. Ngại gì ánh sáng đến khi bóng tối đi, quản chi lúc mây che thì trăng hết tỏ. Ngọc minh châu nằm lòng bàn tay, xanh thì chiếu xanh, vàng thì chiếu ánh sắc vàng; gương cổ dựng trên đài: Hồ thì hiện Hồ, Hán thì hiện Hán. Đâu cần nhìn đến huyễn thể, vì đâu đâu cũng là pháp thân, khỏi nhọc đỉnh đầu phóng quang, vốn sẵn đã có trong sáu thần thông diệu dụng. Cung điện ma vương đảo lộn, tâm can ngoại đạo lật bày; biến trái đất làm vàng ròng cho quốc gia, đãi nhân thiên lấy sông dài làm sữa ngọt; chuyển pháp luân thường trực trong lỗ mũi, hóa bảo tháp hiện thực dưới lông mi. Trên sóng nước, thiếu nữ bằng đá múa khúc Bà Sa, trong mây bạc, người gỗ nhạc công thổi sáo ca bài ca lưu khách. Khi gặp vũ trường liền diễn xuất, lúc thấy chỗ tốt thì nghỉ ngơi; hoặc đưa tay tìm dắt, hoặc quay về sơn dã, khi biếng nhác thì theo {chân đám} mây ngủ {trên tảng} đá, lúc hứng chi thì vịnh nguyệt triều phong; ưu du nơi tửu tứ trà phương, tiếu ngạo là đường hoa liễu bá.
Hoa vàng rỡ rỡ, không đâu là tâm bát nhã, tre tím xanh xanh, không đâu là không lý chân như. Nhổ cỏ dại hiện bản lai diện mục, con đường mòn cắt đứt nẽo tử sinh. Hồi đầu cưỡi ngựa sắt mà về, xỏ mũi trâu bùn đi bước một. Không lấy một pháp trong vạn pháp làm bạn thì đâu còn sở đắc nào? Phật cũng không, tâm cũng không, chân cũng đúng mà giả cũng đúng. Ngoài cửa tam yếu dù hét “nhị” cũng là “tam”. Đầu đường thập tự có hô “cửu” vẫn là “thập”, lấy sáo không lỗ tấu khúc vô sinh. Dùng đàn không giây gãy bài khoái hoạt. Ai ai mà không phải tri âm, đâu đâu lại chẳng là bè bạn? Một con đường hướng thượng ấy, làm sao ta hiểu được? Hãy nghe kỹ nghe kỹ. Ai nghe lọt được thiền ngữ ấy thì tai sẽ bị ba ngày điếc đặc. Nếu chẳng nghe lọt, há lại bỏ đi hay sao? Bởi vì nơi nào cũng có những cây dương xanh có thể buộc ngựa, nhà nào cũng có con đường dẫn về kinh đô. Đường về dưới nguyệt ít ai đến, một ánh trăng khuya lạnh khắp miền...” Nguyễn Lang dịch, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận cuốn 1, trang 265-268
Chưa một ai, và không một ai đủ thẩm quyền để truy tìm một đinh nghĩa về Thiền. Nó lặng thinh bao trùm lên cõi có không, vô tận. Dùng trí thức năng động, dong ruổi để thẩm tra, ắt hẳn lạc xa nghìn trùng, quan ải. Nó lãng đãng bồng bềnh theo mây trời đến đi, hội tụ. Quay mặt lại nó thật gần mà cũng thật xa như mấy độ quan san, cách trở. Khi nắm bắt, nó vụt bay không lời từ giả, bặt mất tăm hơi. Tất cả chỉ có sự diệu dụng trong mỗi hành hoạt, không bị bủa vây, giới hạn nào kìm toả. Khi nào ta biết quán chiếu thực tại một cách liên tục, bền bỉ không sát na, phút giây nào ngừng nghĩ. Ta phải gõ nhịp liên tục trong tận cùng tâm thức, quán chiếu tỉ mĩ mọi biến đổi chuyển hướng, dong ruỗi của tâm thức. Tự mình trãi nghiệm, khai phá nội tâm, đến khi nào đạt được thâm nghĩa, hành vô hành, thắp sáng hiện hữu, làm sống dậy sự thức tỉnh vẹn toàn, mở tung cánh cửa thức giác nhiệm mầu. Khi nào vượt lên trên tất cả, không níu kéo, tìm cách đóng khung nó trong tháp ngà quan niệm, suy luận. Lúc đó ta mới thấy được sự diệu dụng, vô cùng, đầy linh hiện, và bộ mặt đích thực, vô thủy, vô chung. Khi ấy ta không còn hoài công rượt theo đuổi bắt, nó dâng trào sẵn trong ta, cùng ta, trên mọi lối đi về thanh thoát.
Tư tưởng Trần Thái Tông cao thâm diệu vợi, vượt ra ngoài giới hạn so đo. Không nằm ở nơi biên kiến, nhị nguyên, đối tượng nhận thức. Nó chặt tan, làm đóng băng phạm trù ngôn ngữ, mọi ngôn từ trở nên bế tắt, bất lực. Nó thâm nhập vào từng dòng lưu chuyển, làm thức dậy bản thể tịch nhiên, hòa nhịp cùng giai điệu giải thoát, cất lên khúc ca chứng đạo, làm rung chuyển núi đồi tâm thức, vỡ tung vọng niệm lăn xăn, làm sống lại bản thể bất biến, vô tận, xưa nay.
Đường về trăng sáng ít ai đến
Một ánh trăng đêm lạnh khắp miền.
( Hồi trình nguyệt hạ nhân hy đáo
Nhất đạo thiềm quang đại địa hàn )
- Niệm Phật Luận: (Bàn về niệm Phật)
" Niệm Phật là điều khởi dậy do tâm. Tâm khởi dậy điều thiện tức là ý nghĩ thiện. Ý nghĩ thiện khởi dậy thì thiện nghiệp báo lại. Tâm khởi dậy điều ác tức là ý nghĩ ác. Ý nghĩ ác nảy sinh thì ác nghiệp ứng theo. Như gương hiện ảnh, như bóng theo hình. Cho nên thiền sư Vĩnh Gia nói rằng: "Ai chẳng có điều nghĩ, ai chẳng có điều nảy sinh" là nói về việc đó.
Nay kẻ tu hành muốn khơi dậy ý nghĩ chân chính để dập tắc ba nghiệp, cũng là nhờ công niệm Phật vậy. Niệm Phật dập tắc được ba nghiệp là cớ sao?
Vì rằng trong lúc niệm Phật thân thẳng ngồi ngay, không làm việc tà, như vậy là tắc được nghiệp thân. Miệng tụng lời chân chính, không nói điều xằng bậy, thế là tắt được nghiệp miệng. Ý chăm chú ở sự tinh tiến, không nảy sinh ý nghĩ tà, thế là tắt được nghiệp ý. Nhưng kẻ trí có ba hạng. Bậc thượng trí thì tâm tức Phật, không phải nhờ thêm sự tu hành. Ý nghĩ là bụi trần không vướng một mảy. Ý nghĩ bụi trần vốn tịnh, cho nên nói " Như như không động tức là thân Phật". Thân Phật tức là thân ta, không có hai tướng. Tướng và tướng không phải là hai, lặng lẽ tồn tại hằng thường. Tồn tại mà không biết đó là Phật sống.
Bậc trung trí ắt nhờ vào niệm Phật. Chú ý tinh cần, luôn luôn niệm mà không quên thì tâm mình ắt tự thuần thiện. Ý nghĩ thiện đã hiện ra thì ý nghĩ ác sẽ bị tiêu tan; ý nghĩ ác đã bị tiêu tan thì chỉ còn ý nghĩ thiện. Dùng ý nghĩ mà ý thức về ý nghĩ thì mọi ý nghĩ đều bị diệt hết. Khi ý nghĩ đã bị tiêu diệt ắt trở về chính đạo; lúc mệnh hết qua đời sẽ được niềm vui cõi niết bàn. " thường lạc ngã tịnh" là đạo của Phật.
Kẻ hạ trí miệng chuyên cần niệm lời Phật, lòng mong thấy hình tướng Phật, thân nguyền sinh ở nước Phật, ngày đêm tu hành chăm chỉ, không thoái chí thay đổi, như vậy đến khi mệnh hết qua đời sẽ theo ý nghĩ thiện mà được sinh ở nước Phật; sau đó lãnh hội được chính pháp mà chư Phật nêu ra và chứng được bồ đề cũng được Phật quả." Đổ Văn Hỷ dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển thượng, trang 85.
Ông đề cập đến thân, khẩu, ý, ba vấn đề quan trọng trong việc gây nên thiện nghiệp hay ác quả, cũng như thành tựu sự nghiệp giải thoát. Một khi ta tăng trưởng lòng từ bi đến với muôn loài, dâng yêu thương đến muôn vật, từ tâm của ta chan hoà khắp muôn nơi, cũng là lúc ta khép lại phần nào ác nghiệp. Khi ta kiểm soát tâm ý không dong ruỗi trong phiền não, khổ đau, không tìm cách tiêu diệt, gây hại đến muôn loài, khiến ta lúc nào cũng nhẹ nhàng an lạc thảnh thơi, cũng là lúc trí tuệ của ta được dịp bừng sáng. Khi ta hành trì gìới luật, những hưng khởi, tác động thường xuyên được kiểm soát, cũng là lúc ta tự trang nghiêm chính mình với sự sáng soi của trí tuệ tình thức, dâng hiến đến cho mình và cho đời đoá hoa an lạc, thường tịnh.
Giáo lý niệm Phật thịnh hành vào thế kỷ thứ mười một, phù hợp với tất cả mọi căn cơ nên ta dễ dàng tu tập trong mọi hoàn cảnh. Niệm Phật đến khi nào đạt được nhất niệm, chỉ nghe và biết tiếng niệm Phật vang dội mãi ở trong tâm mình, niệm Phật cho đến khi huân tập, thâm nhập, tàng chứa vào trong tạng thức. Hành động nào cũng có Phật, suy tư nào cũng thấy Phật ngự trị, cho đến khi Phật tánh ấy lộ diện hoàn toàn, thì lúc lâm chung mới đủ năng lực vãng sanh về cực lạc. Dĩ nhiên về đến đó không có nghĩa ta kết thúc hành trình tu tập, mà cần phải tiếp tục dụng công mới mong đạt được quả vị giải thoát.
Tịnh độ, không phải pháp môn dành cho người đang sống chỉ lo hướng về cõi chết, và ở tận mãi phương tây xa xôi nào đó. Dù chết, chặng đường mà tất cả chúng sanh đều phải đi qua, nhưng nếu ta dốc lòng chuẩn bị cho mỗi việc chết, như thế sự có mặt của ta trong cuộc đời nầy hoá ra vô vị sao? Bởi lẽ sống chết đan xen lẫn nhau, trong sự sống có bóng dáng của chết xen vào, và chết không phải sự kết thúc chấm dứt một hành trình. Nó chỉ là chặng đường đến đi, cái còn lại vẫn là nghiệp quả ta góp nhặt, cưu mang theo, dù đó là thiện hay ác nghiệp. Đó là định luật, chân lý bất di bất dịch, không cách nào chạy trốn hay xua đuổi được, ta chỉ có thể theo đó thăng hoa làm tươi đẹp, an lạc, giải thoát. Tất cả mọi con đường đi đến giải thoát trong đạo Phật, nhằm giải quyết cái hiện tại ngay bây giờ và ở đây, những nổ lực phải nổ lực ngay từ đây và trong mỗi phút giây bây giờ của đời sống, không đợi chờ đến ngày mai. Nếu ta không an lành trong hiện tại, nếu ta cứ mãi âu lo, phiền muộn khổ đau, với chuổi dài nối kết của thời gian lẫn không gian, với bản chất vô thường sinh diệt, có chờ chúng ta đến tận ngày mai ấy hay không?
Giá trị cùng ý nghĩa đích thực của sự sống nơi con người, không phải nhà cửa đồ sộ, tiền rừng biển bạc, quyền cao chức trọng, thông suốt cổ kim, mà là những tu tập, đóng góp, cống hiến sự an lành đến cho chính ta, tha nhân và muôn loài. Sự tỉnh thức, giải thoát được huân tập nơi nội tâm, là định hướng tốt đẹp cho hiện tại, tương lai và cũng là nghiệp lực mang theo cho hành trình tiếp nối khác. Ta không thể về thế giới cực lạc, khi trong ta chất đầy phiền não, khổ đau, và càng không có nghĩa miệng thì luôn niệm Phật mà tâm vẫn chạy theo trần cảnh, dong ruỗi mọi ngõ ngách. Dù cho Đức Phật A Di Đà phát nguyện độ tận hết thảy chúng sinh, được vãng sanh về thế giới của ngài, thì chúng ta cũng khó lòng đến đó được. Niệm Phật cho đến khi nào tự tánh A Di Dà bừng dậy, liên tục không gián đoạn ở trong tâm ta, thấy được tự tánh Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Lượng Công Đức, đạt được niệm Phật Ba La Mật. Lúc ấy Cực Lạc thế giới ở ngay hiện tiền, không cần phải chờ khi nhắm mắt xuôi tay. Ta cần phải tu làm sao cảnh gìới cực lạc hiện hữu trong từng suy tư, tác nghiệp, chỉ có điều này mới giúp ta vượt thoát, thăng tiến ngay trong hiện tại, khi ấy ta bước chân về đâu, nơi ấy biến thành tịnh độ. Lúc ấy, dù cho qúa khứ hiện tại tương lai mặc vần xoay chuyển, ta vẫn hiên ngang tự tại trong dòng biến hiện, nổi trôi.
- Ngữ lục vấn đáp môn hạ: (Ngữ lục hỏi đáp với học trò)
" Một hôm vua chơi chùa Chân Giáo, nhà sư Đức Thành nước Tống tiến lên hỏi:
Đức Thế Tôn chưa rời Đâu Suất đã giáng xuống vương cung, chưa lọt lòng mẹ đã độ hết thảy chúng sinh là thế nào?
Vua đáp:
Muôn sông có nước trăng muôn sông
Vạn dặm không mây trời vạn dặm.
Tăng nói:
Chưa rời Đâu suất, lọt bào thai
Chỉ bảo phân minh đã rõ rồi
Đâu suất bào thai nay đã rách
Dám mong phân giải một đôi lời.
Vua đáp:
Mây sinh đỉnh núi bồng bềnh trắng
Nước đến Tiêu Tương một sắc trong.
Tăng nói:
Mưa tạnh, sắc non phơi
Mây đi, đông sáng ngời.
Thế nào là ẩn hiện như một?
Vua nói:
Ngoài đứa con dòng dõi của ta
Ai người dám bước vào đường ấy.
Tăng nói:
Cổ kim không khác lối
Thông đạt cùng một đường.
Bệ hạ cho rằng riêng mình Thế Tôn đắc đạo hay sao?
Vua đáp:
Mưa xuân không cao thấp
Nhành hoa có ngắn dài.
Tăng hỏi:
Người người tự đầy đủ
Kẻ kẻ vốn viên thành.
Cớ sao Thế Tôn phải vào núi tu đạo?
Vua nói:
Bởi bất bình, kiếm rời hộp báu
Nhân chửa bệnh, thuốc xuất bình vàng.
Tăng nói:
Chớ để bụi bám mắt
Đừng cắt nhọt trên thân.
Như phận kẻ học đạo còn phải có việc tu chứng nữa không?
Vua đáp:
Nước chảy xuống đồi, không cố ý
Mây ra khỏi núi, vốn vô tâm.
Tăng không đáp.
Vua lại nói:
Đừng rằng "đạo" chính "tâm không"
"Tâm không" cách "đạo" một trùng cửa quan.
Tăng nói:
Đã coi tâm là không thì cái gì là một trùng cửa quan?
Vua nhắc lại:
Nước chảy xuống đồi, không cố ý
Mây ra khỏi núi, vốn vô tâm.
Tăng không đáp.
Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển Thượng trang 106-107
Phút giây tuyệt vời nhứt đó là " Mạc vị vô tâm vân thị đaọ. Vô tâm do cách nhất trùng quan." và " Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý. Bạch vân xuất tụ bản vô tâm". Tâm không và đạo biên giới ngăn cách một trùng cửa quan. Có đủ năng lực, nội công để đẩy bung cánh cửa nầy không phải một sớm một chiều và ai cũng có thể làm được. Cõi lòng phải thảnh thơi, an nhiên tự tại, như nước chảy mây trôi không vấn vương, níu bắt. Cần phải dụng công trong từng sát na, phải liên tục gõ cửa thì cửa mới mở. Đến khi nào thấy được bản thể của tâm cảnh, nhập lại hoà điệu thành một, cất lên khúc ca chứng đạo, vượt cả thời gian lẫn không gian, dịu mát như ánh trăng rằm soi chiếu, chọc thủng màng đêm tăm tối của vô minh phủ lấp bấy lâu nay.
Có một cái gì sâu xa trong tận cùng tâm thức bật dậy nổi lên, khiến ta nổ lực hướng theo. Khi ta không biết đoạn trừ tiêu diệt cái củ, thì cái mới không có cơ hội phát sinh, nếu không chấm dứt chuyển hoá phiền não khổ đau, thì an lạc giác ngộ không có cơ may trổi dậy, nếu không hất tung xô đẩy cái nầy, thì cái khác cứ nhập nhằng ở lại đó. Khi nào ta biết dẫn dắt, hoá thân chuyển đổi làm bạn đồng hành, hướng nó đi về điểm khác, không còn phiền lụy khổ đau, sống trong trạng thái an tịnh. Muốn bước vào cánh cửa không môn, tất cả hành trang đều phải để lại sau lưng, dù đó một niệm một ý bất chợt thoáng qua, một níu kéo vô tình thức dậy, cũng khiến ta bi đẩy ngược trở lại. Còn truy tìm Niết Bàn để chứng đắc, còn tham sân si, chấp chặt một điều gì, thì ta đều phải trả giá, bị trói buộc phải tốn công nhọc lòng tháo gỡ. Chặng đường để đến được cánh cửa vô môn ấy, ta phải làm sao hể đi là đến được, cất bước là đã phóng mình đến đích. Nó thật mau, thật gần mà cũng quan san cách trở, không phải một sớm một chiều đến được, khi trong ta đong đầy bao phiền muộn âu lo khổ sở. Làm sao và làm sao? Một câu hỏi chỉ có chính ta mới biết cách trả lời, tìm ra đáp số.
Khi Thái Tông soạn thảo Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, không phải để ông sám hối trong việc phế Hoàng Hậu Chiêu Thánh phong Thuận Thiên làm Hoàng Hậu, và càng không phải ông sám hối cho việc dòng họ nhà Trần cướp ngôi, giết chết tôn thất nhà Lý. Dĩ nhiên các tội lỗi ấy Thái Tông tự nghĩ, không riêng do Trần Thủ Độ gây ra, mà cả dòng họ và là tội lỗi, nhân quả, nghiêp báo của chính mình. Những điều đó đè nặng lên tâm tư, dự phần vào việc ông ngự chế ra sám pháp ấy. Nhưng ông không sáng tác ra sám hối nầy cho riêng một ai, và vì một ai. Ông tự sám hối tội nghiệp của mình đã tác tạo trong nhiều đời nhiều kiếp, và cũng vì tất cả chúng sanh. Nhưng trên hết đó là sự cảnh tỉnh, nhắc nhở, sách tấn cho mình và cho mỗi chúng ta trong việc thẩm định, quan sát, tư duy lại chính mình trong từng phút giây. Như ông đã nói : "tự làm lợi mình để làm lợi người".
Dù tư tưởng, văn phong của Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi trong sáng, cao thâm, siêu thoát, vẫn chưa được thịnh hành ở Việt Nam. Ngược lại bộ Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương Hoàng Sám) do vua Lương Võ Đế ở bên Tàu chủ trương, sáng tác, lại thịnh hành. Với mục đích dành cho chư Tăng dùng để tụng sám hối cho bà hoàng hậu Hy Thị, đã nhảy xuống giếng tự tử và sau đó hóa thành con rắn mãng xà. Về sau nhờ sự chú nguyện, cùng năng lực của Đại Tăng bà được hoá kiếp siêu sanh.
Truyền thống văn hoá của Phật Giáo Việt Nam, cùng sự giác ngộ chứng đắc, mà thầy tổ cha ông để lại, đã trãi qua mấy ngàn năm. Chừng đó cũng đủ để chúng ta làm hành trang tu tập, gạn lọc thân tâm để đi đến giải thoát mà không cần thiết phải chạy theo vay mượn, ngóng đợi bất cứ trào lưu, thời đại nào. Dĩ nhiên chúng ta có quyền dung hòa, kết hợp tư tưởng trong sự rộng mở, soi sáng tâm linh, cũng như trong việc tìm lại chính mình. Nhưng quyết không để mình bị lệ thuộc, nô lệ, dù đó là sự lệ thuộc vào tri giác. Đức Phật từng cảnh giác chúng ta, chỉ tin vào những gì do suy tư, thẩm thấu, do trí tuệ chính mình mang lại.
Về khía cạnh bản chất đặc thù, cùng sự tự hào về Dân Tộc tính, chúng ta cần phải duy trì, truyền bá, phát huy nền văn hoá dân tộc cho thật lớn mạnh. Cho dù ngàn năm qua bị người Tàu đô hộ, nhưng ông cha ta đã đẩy lùi sự đô hộ ấy hàng mấy thề kỷ trước. Không biết người Trung Hoa có dùng Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi của ta để trì tụng không?
Có lẽ Trần Thái Tông đã làm cuộc cách mạng, thay đổi phương pháp tu tập cho phù hợp với bối cảnh, tâm thức, xã hội lúc bấy gìờ, từ đó về sau hình thành hai thời công phu sáng và chiều, với sự kết hợp Thiền Tông, Tinh Độ, Mật Tông, thành phương pháp tu tập căn bản ở thiền môn? Như buổi sáng trước khi thức dậy, ta có giờ thiền tọa, xong rồi đến thời công phu khuya tụng Kinh Lăng Nghiêm, gồm có Ngũ Đệ và Thập Chú. Buổi trưa Cúng Ngọ, Quá Đường, Thọ Trai, Kinh Hành Niệm Phật. Buổi chiều có thời công phu chiều, tụng kinh Sám Hối Hồng Danh, Kinh A Di Dà, Mông Sơn Thí Thực, dâng cúng thực phẩm đến Cô Hồn Thập Loại, nhờ thần lực của chư Phật, Bồ Tát và nguyện lực của người trì tụng mà chúng sanh đó có một bửa ăn no đủ. Buổi tối có thời khóa tụng kinh A Di Đà. Và trước khi đi ngũ ta có giờ thiền toạ hoặc niệm Phật. Trong cuốn kinh Thiền Môn Nhật Tụng còn gọi Kinh Nhật Tụng, chúng ta dùng để tu tập mỗi ngày, sự kết hợp rõ nét lắm có cả Thiền, Tinh, Mật.
Thiền tọa giúp ta tỉnh thức, đạt được chánh định, khai mở nội tâm phát sinh trí tuệ, mỗi khi chúng ta thực tập thiền cần phải có không gian và thời gian thích hợp, trong khi hằng ngày ta phải vất vã lo chuyện áo cơm, thời giờ dùng để tu tập thật là giới hạn. Ta có thể thực tập niệm Phật bất cứ nơi nào, ở đâu trong mọi hoàn cảnh, thay vì suy nghĩ mông lung, phiền não phát khởi, nhờ thường xuyên niệm Phật khiến tâm ta luôn được an lành. Năng lực, oai lực của thần chú trong Mật Tông giúp ta tiêu trừ, chuyển đổi nghiệp lực, trong tất cả chúng sanh ai lại không bị nghiệp chướng dẫn dắt, chi phối. Nếu ta biết cách áp dụng cho thật thích hợp trong từng hoàn cảnh thì sự tu tập của mình dễ thăng tiến và có kết qủa. Bởi lẽ trong đạo Phật có vô lượng pháp môn tu, không có pháp môn nào cao hơn pháp môn nào. Chỉ có hành giả, người tu thì có cao thấp, do vì công năng tu tập có sâu, dày, có thật sự dụng công nhiều hay ít, vì thế sở đắc có mau có chậm, có cao có thấp. Vấn đề ở chổ, tu làm sao và tu như thế nào để chúng ta sớm được an lạc, giác ngộ.
Muốn khai mở tri thức để đi đến sự giác ngộ, ta cần phải quật tung nội tại, tự lực nương vào kết hợp với tha lực, tâm năng rộng mở linh thông cùng vũ trụ, tiểu ngã hòa nhịp cùng đại ngã, nội giới, ngoại gìới, căn và trần, tâm và cảnh. Một khi chưa quân bình được hai đối cực nội và ngoại, trong và ngoài, những tác động của nó dù đến từ đâu, đều khiến ta phải, lặn hụp trong phiền não, sinh tử. Nếu biết cách đối trị, dung hoà, liên kết, thì những hưng khởi, níu kéo ấy dù đến từ bên ngoài hay trong, cũng là phương cách nhằm thẩm định, kiểm tra lại nội lực đang tìm ẩn ở trong ta. Nhiều khi ta lầm tưởng mình đạt được sự vững chãi ở nội tâm, nhưng khi gió bát phong thổi lên ta trở nên cuốn cuồng, mất phương hướng tìm cách đối phó, vì thế rơi vào khủng hoảng, bế tắc, đổ vỡ.
Ta luôn bị đàn áp, lý tưởng hoá, nô lệ, vô minh bao phủ ngăn ngại. Nên con người thật thuần khiết, bản lai diện mục chưa có dịp xuất hiện, chỉ khi nào ta để cho bản năng, tâm thức con người ấy diệt đi, ta mới làm sống, tái sinh lại con người thật của mình, được như thế phần nào ta đã giác ngộ. Đây chỉ là một chặng đường chứ chưa hẳn sự chấm dứt một hành trình, ta còn phải liên tục dụng công đến khi nào chấm dứt vòng luân hồi lẩn quẩn, đạt được sự giải thoát tuyệt vời.
Khi căn và trần gặp nhau, khoảng giữa đó là sự nhận biết (thức) theo đó dẫn dắt ta đi vào muôn vạn nẽo, ru ta ngũ say trong sự sai sử. Khiến ta nhiều phen chạy theo, trong sự bất lực với bao lụy phiền, dẫm đạp lên muôn ngàn nỗi đau đớn của chính mình và đồng loại, cứ thế ta vung tay đẩy tất cả rơi vào thống khổ mà không một sự dày vò hối hận, tiếc thương. Thỉnh thoảng ta chợt dừng lại nhưng không phải để tra vấn với chính mình mà tìm mọi cách lấy đà, tiếp bước cho bản ngã, cho phiền não, tham sân si được dịp ngự trị dài lâu hơn. Chỉ khi nào ta bị bế tắc, thất bại ê chề, đau đớn phủ ngập lối đi, hơi thở đong đầy phiền lụy, sinh lão bệnh tử ào ào ập đến. Lúc ấy may ra ta mới giật mình nhìn lại chính ta, không biết có muộn chăng vì tuổi già sức yếu, bệnh hoạn, âu lo, đau khổ triền miên, luân phiên thăm viếng? Ôi nỗi đau còn hoài, còn ở lại, còn dài dài, còn mãi mãi, biết đến khi nào?
Muốn đạt sự tỉnh thức, ta cần khai dẫn, hướng sự nhận thức đến gần với tâm giác ngộ. Liên tục tư duy, quán chiếu vô thường, biến đổi, sinh diệt của thực tại. Chuyển hóa, thăng hoa, nâng tầm nhận thức thấu rõ, thông suốt, ở bình diện cao mà tâm biến động, nổi trôi, phiền não không bao giờ đụng đến được.
Ta đọc vài đoạn để chiêm nghiệm lại con người thật của mình và cũng để sám hối ba nghiệp, sáu căn.
- Dần thì cảnh sách chúng kệ: (Bài kệ cảnh sách giờ Dần)
Ánh dương vừa mới hé
Mặt đất tối rạng dần
Ý xôn xao trỗi dậy
Hình tranh nhau phân vân
Đừng ôm xác chết nữa
Ngững đầu lên thiền chân
Siêng năng trong sáu niệm
Mới khế ngộ cơ thần.
- Sơ nhật chúc hương: (Lễ chúc hương buổi sớm)
“Phục dĩ: bóng thỏ về Tây, vầng ô đã rạng: nơi chiếu Phạn, họp muôn dòng Thanh Tịnh; trên cõi Không, lễ các bậc Thánh Hiền. Muốn gửi tin bằng gỗ chiên đàn; phải kính đốt xông loài hương báu. Hương này, trồng từ rừng Giới Luật, tưới bằng nước Thiền Na; chặt trong vườn Trí Tuệ, đẽo bằng đao Giải Thoát. Hương không dùng rìu búa sức người mà hình thể tự nhiên tự kết. Đốt nén bảo hương Tri Kiến; kết thành đài mây Quang Minh. Lúc hương xông khắp chốn thơm tho; nơi khói tỏa đầy trời ngào ngạt. Nay nhân buổi sớm, đốt hương cúng dường”.
- Hiến hương kệ: (Bài kệ dâng hương)
Ngào ngạt trầm hương rừng chính định
Chiên đàn vườn tuệ đã vun trồng
Giới đạo đẽo gọt nên hình núi
Đốt tại lò Tâm để hiến dâng
- Hiến hoa kệ: (Bài kệ dâng hoa)
Hoa nở sáng ngời trên đất tâm
Hoa tiên rải xuống chẳng thơm bằng
Hái dâng từng đóa lên chư Phật
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rung.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 1 trang 256-257
- Chí tâm khuyến thỉnh: (Dốc lòng khuyên mời)
Kính xin chư Phật mười phương
Thánh hiền, Bồ Tát cùng hàng tăng ni
Mở tâm vô lượng từ bi
Chúng sinh vượt độ sông mê đến bờ.
- Chí tâm phát nguyện: (Dốc lòng phát nguyện)
Một nguyền rộng khai đường chính kiến
Hai nguyền vừa dụi mắt tinh nhanh
Ba nguyền xem hình không quyến luyến
Bốn nguyền thấy sắc chẳng bận tình
Năm nguyền đầu mê mau sớm tỉnh
Sáu nguyền mắt tuệ tự viên thành
Bảy nguyền mộng đời đừng đắm đuối
Tám nguyền giữ mãi tính anh minh
Chín nguyền nhìn đời, mờ tối mất
Mười nguyền ngó lại, huyễn hoa đình
Mười một nguyền xa trông mây chướng cuộn
Mười hai nguyền chớp mắt nghiệp băng thanh.
Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2, quyển Thượng trang 168,172
- Sám hối ý căn tội: (Sám hối tội căn do Ý)
"Dốc lòng sám hối, bọn chúng tôi từ vô kiếp tới nay, bỏ mất bản tâm, không hay chính đạo. Đoạ ba đường khổ: bởi sáu căn sai. Không sám hối trước, khó ăn năn sau.
Tội căn ý là: Vấn vương nghĩ ngợi, không lúc nào thôi, mắc mưu tình trần, lấp tâm chấp tướng. Như tằm cuộn kèn càng buộc càng dăng, như bướm lao đèn tự thiêu tự đốt. Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo sinh càn; quấy nhiễu tất lòng, đều do tam độc.
Tội keo tham là: âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ, mười vốn nghìn lời, còn cho chưa đủ. Của như sông chứa; lòng tự chén rò. Rót vào lại hết; nên nói chưa vừa. Tiền mục thóc dư, chẳng cưu đói rét; lược chồng lụa chất, nào có giúp ai. Được người mấy chục, chưa nói là nhiều; hại đến một đồng, cho là hao lớn. Trên từ châu báu; dưới đến tơ gai. Kho đụn chất đầy; chưa từng bố thí. bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo; khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.
Tội giận giữ là: căn tham là gốc; lửa giận tự thiêu. Quắt mắt quát to; tiêu tan hòa khí. Chẳng riêng người tục; cả đến thầy tăng. Kinh luận tranh giành; cùng nhau công kích. Chê cả sư trưởng; nhiếc đến mẹ cha. Cỏ nhẩn lụi vàng; lửa độc rực cháy. Buông lời hại vật; cất tiếng hại người. Không nghĩ từ bi; không theo luật cấm. Bàn thiền tựa thánh; trước cảnh như ngu. Dẫu ở cửa không chưa thành vô ngã. Như cây sinh lửa; lửa cháy đốt cây. Những tội trên đây đều do nghiệp giận.
Tội ngu si là: căn tính đần độn; ý thức tối tăm. Chẳng hiểu tôn ti; chẳng chia thiện ác. Chặt cây hại xác; giết gấu gãy tay. Mắng Phật thánh tai; nhổ trời ướt mặt. Quên ơn quên đức; bội nghĩa bội nhân. Không xét không hay, đều vì si nghiệp.
Các tội như vậy, rất nặng rất sâu; đến lúc mệnh chung, phải sa địa ngục. Qua nghìn vạn kiếp, mới được thụ sinh; nếu được thụ sinh, lại thành người độn. Nếu không sám hối, sao được tiêu trừ. Nay ở Phật tiền, thảy đều sám hối " Băng Thanh - Đổ Văn Hỷ dịch, Thơ Văn Lý Trần tập 2 quyển thượng trang 218-219
Sám hối là một phương pháp trãi lòng, dâng hiến, đối diện với chình mình, với những nghiệp quả do mình tác tạo trong hiện tại và trong vô lượng kiếp số về trước. Đem tất cả phơi bày, cùng với tâm thành, hướng về chư Phật, chư Bồ Tát, thành tâm sám hối và phát nguyện không bao giờ tái phạm. Một khi ta biết cách làm sống lại con người thật của mình, khai quật bản thể giác ngộ, Phật tánh, đang có sẳn trong chúng ta và trong tất cả chúng sanh, liên tục gìn giữ duy trì, quyết không tái phạm, lúc đó ta mới thấy được ý nghĩa sám hối thật sự.
Từ trước đến nay chúng ta luôn sống trong sự tích chứa, góp nhặt mỗi ngày một ít phiền não khổ đau, cứ thế nó đong đầy trong ta từ lúc nào mình không hề hay biết. Ta chỉ biết nổ lực để cầu, để xin, để nhận, để được ân sủng. Chứ chưa biết nổ lực để cho, để đền, để tặng, để dâng hiến. Ta chưa biết cách buông xã, nên cứ chìm dần chìm xuống mãi, do vì cưu mang, nhận vào chứ không chịu cho ra, nên không có dịp thoát khỏi, cứ mãi đắm chìm trong sinh tử luân hồi. Bởi vì những thứ mà ta có được cũng chỉ là sự trá hình biến dạng khiến ta lầm tưởng là thật, đúng ra nó đang bị vô thường chi phối huỷ hoại. Chỉ khi nào ta biết thực tập cách buông bỏ, hoan hỷ, biết cách phá trừ chấp ngã chấp pháp, khi nào đạt được lý lẽ của chân thường bất biến, lúc ấy có không, được mất, không làm hề hấn, ta mới thật sự nhẹ nhàng đến đi không ngăn ngại.
Hình như nỗi khổ đau gặm nhắm, những nhập nhằng gian khổ ăn sâu, thấm vào trong tận cùng tâm thức của ta từ thưở nào. Từ thuở cha mẹ chưa sanh ra, từ vô lượng kiếp số, nó cứ dai dẳng bám theo, đeo mãi mà không có cơ hội trút bỏ được, cứ mãi lang thang phiêu bồng trầm luân trong sinh tử. Ta chỉ có thể thoát ra, là lúc ta tìm thấy một hành trình mới, một sự huân tập khác, làm thay đổi toàn bộ cục diện cũng như bản chất từ ngàn xưa. Điều mới đó, là sự thay đổi, hoán chuyển thói quen tập khí trong nhiều đời, trong mọi suy tư và hành động, thì những khởi dậy đó sẽ mang hương sắc tươi đẹp, an lạc, giải thoát.
Hầu như trong tất cả sáng tác của Trần thái Tông cuối cùng đều dùng đến thi ca, thi kệ làm biểu tượng, chuyên chở nội tâm giác ngộ. Có thể lối diễn đạt, xử dụng thi ca trong ngôn ngữ dễ cảm nhận, và tiến đến gần với chúng ta hơn. Nó đòi hỏi kẻ thưởng ngoạn phải tư duy đúng mức, để bắt được tần số cung bậc, nếu không sẽ hoài công vô ích. Trong công án, thi kệ, ngôn ngữ thi ca trở nên quyền biến, linh hoạt, cô đọng. Vì thế dễ đánh động tâm thức của kẻ đối diện, khi kẻ ấy biết vận dụng thắng duyên nội tại, bởi lẽ khi nó vụt khởi, không đi qua chặng đường suy luận, so đo, mà do huân tập bởi trí tuệ, tỉnh thức mới có được. Điều nầy nói lên công phu tu tập ở mỗi tâm năng, sự tàng chứa trong mỗi tâm thức. Ở đây chỉ đề cập đến sự mở tung, đồng cảm, bắt nhịp của tâm thức, như sự" gảy mỗ" một thuật ngữ vi diệu của thiền. Vì lẽ nếu dùng trí thức năng động để dệt nên, sẽ có bóng dáng giả hợp của sắc không, bản chất vô thường của ngôn ngữ, và sự ngự trị của vô minh, như thế sẽ không đi qua được chặng đường truy cập tự thể. Nếu vậy, ta vẫn là kẻ đứng bên ngoài để ngắm nhìn, phê phán, chưa có dịp xúc tác vào bên trong, làm cho ta càng rời xa giác ngộ hơn. Vì lẽ giác ngộ một khi khởi lên, sẽ đẩy lùi tất cả, như ánh sáng bừng lên tức khắc bóng tối phải tiêu tan. Cái khó, và sự cùng tuyệt của giác ngộ là mức độ huân tập, tỉnh thức, duy trì có dài lâu, có sâu dày ở trong ta hay không?
Công án, sự chứng ngôn bằng ngôn ngữ, một thứ siêu ngôn, vượt ra ngoài mọi cấu tạo, phá vỡ giai tầng, nối kết của tâm ý. Nhằm phong toả tâm thức của thiền sinh, khiến rơi vào thế bí, cùng quẩn, với sự tra vấn, đánh động, gõ nhịp liên tục, khiến tâm thức không có chổ nương dựa, trụ bám vào đâu, không một kẻ hở để ý thức có dịp xen vào lũng đọan, níu kéo. Xoay tất cả năng lực liên tục đánh vào một điểm duy nhất cho đến khi nào nó vở tung ra, trông thấy thật sự những bí ẩn chôn dấu đàng sau, đó là cái gì ra sao. Như tiếng sấm nổ vang dội khiến ta giật mình choàng tỉnh, như cơn nước lũ cuốn phăng tất cả, không lưu lại dấu vết. Chỉ có tác động, quật khởi, thường nghiệm trong sự rộng mở, và trong sát na nào đó tức khắc ta bừng lên giác ngộ.
Hình thức công án xuyên qua niệm tụng của Trần Thái Tông, như là một nghi thức, một kỷ thuật, một phương cách hiệu nghiệm, nhằm kiểm soát sự đi lại, phóng ý, của tâm thức. Bằng vào con đường thường nghiệm xuyên qua cửa ngõ thân và ý, tâm và hành, song song trong việc xoáy thẳng, đập vào tận cùng mọi ngõ ngách, khiến cho giác ngộ vụt khởi. Nó tạo nên sự bắt nhịp nhẹ nhàng không gây thương tổn, khủng hoảng cho tâm thức. Tưạ như làn gió mát thổi lùa qua khung cửa, làm cho tâm hồn rộng mở hân hoan, bao nhiêu chiêm bao, mộng mị, ngũ say nào đó ở trong ta có dịp cựa mình tỉnh giấc.
Ta thử đọc và chiêm nghiệm một vài công án trong số 43 công án Thiền của ông.
Công án một:
Nêu:
Thế Tôn chưa rời đâu xuất đã giáng xuống cung vua, chưa lọt lòng mẹ đã độ hết thảy chúng sinh.
Niệm: Gươm giáo chưa cầm
Tướng tài đã lộ.
Tụng: Chưa hình ấu tử, chửa rời quê
Đêm thẳm đưa người qua bến mê
Cao bước dạo chơi ngoài khoảng cách
Không cần thuyền bản với phao bè.
Công án thứ năm:
Nêu:
Thế Tôn lên toà. Văn Thù Bồ Tát thưa rằng: thấu suốt phép của Phật, Phép của Phật là như thế.
Niệm: Đàn không giây gảy khúc dương xuân
Vang mãi muôn đời âm chẳng dứt.
Tụng: Từng câu từng tiếng, không tỳ vết
Sừng giấu nhưng đuôi vẫn lộ ra
Thôi lấy ống tre thay sáo trúc
Vì người dạo khúc thái bình ca.
Công án thứ mười:
Nêu:
Mã tổ nói từ sau loạn rợ Hồ ba mươi năm chưa từng thiếu tương muối.
Niệm: Mặc dù chẳng phạm mảy may.
Vẫn là cầm bánh liếm tay.
Tụng: Bình sinh đánh bạn với ma men
Nhà ở thường như quán rượu quen
Vi thử khoe mình người láu lĩnh
Giữa đường phải cởi áo cầm tiền.
Công án thứ bốn mươi ba:
Nêu:
Từ Minh hỏi Chân Điểm Hung về đại ý Phật pháp.
Chân đáp: Mây "không " sinh đỉnh núi
Trăng " có" rơi đáy sông.
Minh quát: Đầu đã bạc, răng đã vàng mà còn kiến giải như thế à? Chân rơi nước mắt hầu lâu thưa: Chẳng hiểu thế nào là ý lớn về Phật pháp.
Minh nói: Mây 'không" sinh đỉnh núi.
Trăng "có" rơi đáy sông.
Chân bừng tỉnh ngộ.
Niệm: Người nhân thấy nó bảo là nhân.
Người trí thấy nó bảo là trí.
Tụng: Đây, đó cùng rung một điệu cầm.
Lòng riêng nhắn nhủ bạn tri âm.
Mây "không", trăng "có" tuy cùng dạng.
Khác ấy: sơn cao và thủy thâm.
Hứ!
Chạy vạy suốt ngày trong bụi đỏ
Trong nhà, của báu có không hay.
Hừ!
Buông tay, không dựa, tính phơi bày
Thuyền trú hoa lau, chài ngũ say.
Lê Hữu Nhiệm- Băng Thanh dịch, Thơ Văn Lý Trần, tập 2 quyển thượng, trang 136,137,139,150.
Khi đến gần, đối diện với bệnh tật sống chết, khi thước phim nhân quả nghiệp lực tàng chứa trong tâm thức, chủng tử bùng lên, giành giựt, quyết định. Cũng là lúc nghiệp lực nặng nhẹ vi tế, theo đó dẫn dắt ta đi về nơi ấy. Tất cả nhửng tác tạo ở tại thế giới nầy, ở ngay nơi đây, ở ngay lúc nầy, đều phải giải quyết cũng tại nơi chốn nầy. Ta té xuống đất cũng phải vịn đất mà đứng dậy, chờ để được về thế giới nào khác không biết nó có không? Bởi lẽ ta sống thở ở nơi đây, ở ngay hiện tại nầy, nếm đủ buồn vui, liên tục bị đau khổ hành hạ, lại bị chính cái ta, cái bản ngã ấy quấy rầy, lừa dối, ru ngũ. Khiến ta phải khổ đau ê chề, từ ngày này qua ngày khác, không một phút giây nào dừng lại, không có dịp xem lại chính mình. Ta không thể chờ đợi về thế gìới khác mới lo giải quyết, không biết nó có tồn tại hay không, hay đó chỉ là sự hình dung tưởng tượng, ru ta ngũ để dễ bề sai khiến? Sự thật nó nằm ở trong ta chứ không nằm ở nơi khác, ta sống như thế nào, ta chết cũng như thế ấy, ta đau khổ trong hiện tại, thì liệu ta có an lạc trong tương lai?
Lúc Trần Thái Tông sắp bước vào thế giới của sinh ly tử biệt, ông còn minh mẫn đã là hy hữu rồi, càng hy hữu hơn, khi ông vẫn còn tỉnh thức an lạc, để trả lời những sở đắc về Phật pháp. Chừng đó, khiến cho ta cúi đầu quy ngưỡng trước nội tâm chứng ngộ tuyệt vời ở nơi ông.
" Khi Ngài nằm trên giường bệnh, vua Trần Thánh Tông vào thăm, nhân hỏi về đạo Phật:
- Chân không với ngoan không là đồng hay dị?
Vua Thái Tông đáp:
- Tự lòng mê hay ngộ nên có "chân" và "ngoan" khác nhau, còn Hư không vẫn là một. Ví như cái nhà ở, mở cửa ra thì sáng, đóng cửa lại thì tối. Sáng tối dẫu khác nhau, nhưng cái nhà thì vẫn chỉ là một.
Bửa sau Quốc Sư Đại Đăng vào vấn an, hỏi Ngài:
- Bệ Hạ mắc bệnh đấy ư?
Ngài đáp:
- Tấm thân tứ đại vốn là bệnh rồi, còn Chân Tánh nguyên lai đối với sinh tử còn chẳng dính dáng gì đến thay huống chi là bệnh.
Sau đó vài ngày, ngài lặng yên không nói, xua hai bên tả hữu mọi người lui ra, trối trăng việc nước lại cho con là vua Trần Thánh Tông.
Vua Thánh Tông muốn sai Quốc sư Phù Vân và Đại Đăng vào diễn cái phép xuất thế gian. Vua Trần Thái Tông lớn tiếng nói:
- Đến lúc này bớt đi được mảy tóc nào thì dường như cắt được cái nhọt trên thịt; thêm vào mảy tóc nào thì khác nào rắc bụi vào mắt. Phù Vân bàn huyền, Đại Đăng nói diệu, đều là lời thừa cả, có ích gì đâu?
Rồi Ngài tịch ở Vạn Thọ cung, giữa ngày một tháng tư năm Bảo phù thứ V (1277) đời vua Trần Thánh Tông, táng ở Chiêu Lăng".
Hình như sinh tử, vô thường, đến đi không làm hề hấn những con người tự tại, giải thoát. Sự có mặt của họ ở trong cuộc đời này chỉ là sự dừng chân hoá độ, thăm hỏi thế gian và rồi sau đó ung dung rũ sạch tấm thân tứ đại nhẹ bước vân du trong sự chuyển tiếp vì hạnh nguyện độ sanh khác. Người đi về cõi vô sinh diệt, hương trí tuệ giác ngộ, trần gian nghìn năm còn đọng lại.
Gửi ý kiến của bạn