Cuộc Đời Của Một Thiền Sư Nổi Tiếng Thế Giới

14 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 17244)

CUỘC ĐỜI CỦA MỘT THIỀN SƯ NỔI TIẾNG THẾ GIỚI
Bằng Hư (Người đưa tin)

thien_su_1-contentThiền sư Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng tại Hoa Kỳ. Cuộc đời tu thiền của Philip Kapleau đã trải qua không ít những khó khăn, gian khổ nhưng cũng vì thế mà đầy ắp những câu chuyện thú vị.

Từ vị quan tòa mê Thiền…

 

Thiền sư Philip Kapleau sinh năm 1912 trong một gia đình theo đạo Tin Lành thuộc tầng lớp lao động ở New Haven thuộc bang Connecticut ở miền đông bắc nước Mỹ. Cho đến trước năm 35 tuổi, khi Philip Kapleau bắt đầu những suy tư đầu tiên về Thiền, vị thiền sư Tây phương này đã sống một cuộc sống bình thường như rất nhiều thanh niên Mỹ lúc bấy giờ. Khi đến tuổi trưởng thành, Philip Kapleau bắt đầu kiếm sống bằng nghề kế toán tại một cửa hàng. 

Sau đó ít lâu, Philip Kapleau quyết định theo học một khóa đào tạo luật ngắn hạn. Sau khóa học, Philip Kapleau may mắn có được một chân báo cáo viên trong tòa án liên bang ở Connecticut. Nghề báo cáo viên tòa án không để lại ảnh hưởng gì lớn trong sự nghiệp của Philip Kapleau, tuy nhiên, nó lại chính là con đường dẫn Philip Kapleau đến với Thiền tông nơi ông có được sự nghiệp lừng lẫy của mình.

Bước ngoặt trong cuộc đời của vị thiền sư phương Tây bắt đầu vào năm 1945 khi ông được lựa chọn làm báo cáo viên trong hai phiên tòa xử tội ác chiến tranh của Tòa án Quân sự Quốc tế tại Nuremberg, Đức. Tiếp đó, ông lại được chỉ định vào vị trí tương tự trong phiên tòa xử tội ác chiến tranh diễn ra ở Tokyo, Nhật Bản. Và đó cũng là thời điểm lần đầu tiên, Philip Kapleau biết tới Thiền tông.

Tháng 3/1947, Philip Kapleau đến làm việc tại Tòa án Quân sự Quốc tế tại Tokyo, Nhật Bản. So với phiên xử những tên tội phạm chiến tranh của phe phát xít, những kẻ vừa thất bại trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra tại Đức mà Philip Kapleau tham dự trước đó ít lâu, phiên xử ở Tokyo diễn ra dễ chịu và ít căng thẳng hơn. Và điều này để lại ấn tượng mạnh đối với Philip Kapleau. 

Vị báo cáo viên 35 tuổi cảm thấy rằng những người Nhật ông nơi đây không giống với những người Đức ông đã từng gặp. Họ tỏ ra là những người sẵn sàng chấp nhận những đau khổ của riêng mình để trả giá cho những nỗi đau mà họ đã gây ra cho những người khác. 

Một điều khác cũng khiến Philip Kapleau ấn tượng không kém chính là sự bình an và tĩnh lặng đến tuyệt vời ở nước Nhật dù chiến tranh mới đi qua không lâu, đặc biệt là vào những buổi chiều khi ông chạy bộ dưới những tán cây dẫn vào các thiền viện.

Từ việc bất ngờ, rồi tò mò và hiếu kỳ, Philip Kapleau đã bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân vì đâu có sự khác biệt giữa những người Nhật và người Đức, dù trước đây họ từng thuộc phe phát xít. Và Philip Kapleau biết được rằng, việc người Nhật sẵn sàng chấp nhận những trừng phạt là vì họ luôn tin vào “Luật nghiệp quả báo ứng”. 

Khái niệm về luật nhân quả này cuốn hút Philip Kapleau vì nó hoàn toàn khác với sự tự bào chữa mà ông từng thấy ở Đức. Philip Kapleau quyết định tìm hiểu về khái niệm thú vị này. Và sự tò mò đã tạo ra cơ duyên đưa Philip Kapleau đến với đại sư D.T. Suzuki. 

Tại thành phố Kamakura, ông gặp và tiếp xúc với Suzuki, nghe giảng giải về cốt lõi của nghiệp quả và giáo lý thiền Đại thừa. Sau những buổi giảng ngắn ngủi ấy, Philip Kapleau bắt đầu quan tâm đến Phật giáo.

Khi phiên tòa ở Tokyo kết thúc, Philip Kapleau quay trở lại mỹ và tiếp tục làm việc tại tòa án Connecticut. Tuy nhiên, cuộc sống của ông đã thay đổi hoàn toàn kể từ sau hai phiên tòa xử tội phạm chiến tranh ở Đức và Nhật. Những ấn tượng, suy tư không thể giải quyết triệt để cứ quanh quẩn trong đầu ông. Philip Kapleau muốn tìm hiểu và học Thiền, nhưng khi ấy, Thiền tông chưa đến được nước Mỹ. 

Philip Kapleau đã phải tham gia một lớp giáo ly đạo Bahai và những cuộc họp của Hội Vệ Đà, tuy nhiên, tất cả đều không đem lại tác dụng. Mọi sự thay đổi chỉ bắt đầu khi thiền sư D.T. Suzuki đến Mỹ vào năm 1950. Ngay lập tức, Philip Kapleau ghi tên tham dự lớp học triết lý Phật giáo thiền do Suzuki đứng lớp. 

Trong những bài giảng ấy, thiền sư Suzuki có nói với các học trò của mình rằng: “Thiền không phải là triết học mà là một lối sống. Nếu các vị muốn học Thiền nên đến thẳng Nhật Bản, các vị phải sống với nó và cuộc đời của các vị sẽ thay đổi”. Câu nói của thiền sư Suzuki đã tác động mạnh tới Philip Kapleau và vị báo cáo viên tòa án quyết định đến Nhật Bản để học Thiền.

Vào năm 1953, ở tuổi 44, Philip Kapleau bỏ việc tại tòa án để đến Nhật xin được xuất gia học Thiền. Tuy nhiên, lòng nhiệt tâm của Philip Kapleau đã bị dội một gáo nước lạnh khi hai vị thiền sư đầu tiên mà ông tới gặp đã từ chối không nhận ông làm đệ tử vì ông không biết tiếng Nhật. Với sự kiên nhẫn và lòng nhiệt thành cuối cùng một thiên sư tên là Soen Nakagawa ở chùa Hosshinji đã tiếp nhận Philip Kapleau. 

Sau ba năm tu tại chùa Hosshinji, sức khỏe của Philip Kapleau ngày một tệ đi vì những giới luật khắc nghiệt và chế độ ăn uống thiếu thốn ở nơi đây. 

Nhận thấy rằng, Philip Kapleau không thể tu thiền theo cách thông thường như những người khác, thiền sư Soen đã giới thiệu ông tới gặp thiền sư Harada. Soen nói với Kapleau rằng: “Cậu sẽ có được một sư phụ tốt hơn nhiều”. Sau khi theo học Harada 3 năm, Philip Kapleau tiếp tục theo học một thiền sư khác tên là Yasutani, người kế thừa thiền sư Harada. Và đây cũng là thiền sư mà Philip Kapleau theo học lâu nhất. 

Nhờ vào những nỗ lực học tập không ngừng, vào mùa hè năm 1958, Philip Kapleau đã đạt ngộ và được thiền sư Yasutani ấn chứng ban cho danh hiệu “Thiền sư”. Thời gian sau đó, Philip Kapleau kết hôn, sinh con và bắt đầu giảng dạy trong các thiền viện dòng Harada-Yasutani. Và cũng bắt đầu từ đây, Philip Kapleau chính thức bước vào cuộc hành trình truyền bá Thiền tông đến với xứ sở phương Tây. 

Đến thiền sư nổi tiếng thế giới

Với khả năng ghi tốc ký của người báo cáo viên tòa án cộng với khả năng thành thạo Nhật ngữ của mình, Philip Kapleau được thiền sư Yasutani cho phép ghi lại hầu hết các bài giảng về Thiền, phỏng vấn học sinh, các thiền sư cũng như ghi chép tỉ mỉ về cuộc sống của những người thực hành Thiền tông. 

Philip Kapleau là người phương Tây đầu tiên được phép chi chép lại những bài giảng về Thiền. Và chính điều này đã giúp Philip Kapleau có được cuốn sách nhập môn Thiền kinh điển của người Tây phương. Tập hợp những gì đã ghi chép và quan sát được, Philip Kapleau đã biên soạn thành cuốn sách với tựa là “Ba cột trụ của Thiền”

Cuốn sách đã được in và xuất bản tại Nhật vào năm 1965 bằng tiếng Anh với số lượng 150 ngàn cuốn. Cuốn sách này sau đó đã được phát hành đi khắp thế giới và được chuyển dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau. Nhưng sự nghiệp truyền bá Thiền tông của vị thiền sư Tây phương này không chỉ dừng lại ở đó.

Sau 13 năm tu học tại Nhật, năm 1965, Philip Kapleau quyết định trở về Mỹ và bắt đầu sứ mệnh truyền bá Thiền tông tới xứ sở Hợp chủng quốc. Đó là thời điểm, ông gặp hai trong số những độc giả đầu tiên của cuốn sách “Ba cột trụ của Thiền” xuất bản tại Nhật, hai thương nhân Ralph Chapin ở New York và Dorris Carlson ở Rochester. 

Sau khi về nước ít lâu, Dorris Carlson đã mời ông tới Rochester để thăm một nhóm nhỏ những người tu học Thiền tông theo hướng dẫn của ông trong cuốn sách “Ba cột trụ của Thiền”. 

Cho tới tháng 6 năm 1966, dưới sự giúp đỡ của Carlson, Philip Kapleau đã thành lập trung tâm Thiền Rochester. Ngay từ khi mới thành lập, trung tâm Thiền của Philip Kapleau đã liên tục mở những khóa tu cho các thiền sinh Mỹ đến tham dự. Và ngay lập tức, nó đã gây được tiếng vang lớn.

Từ giữa thập niên 60, thiền sư Philip Kapleau bắt đầu những chuyến đi giảng về Thiền trên khắp nước Mỹ. Philip Kapleau nói chuyện ở các trường cao đẳng, đại học, các hội nghị,… Bất cứ là thành phần nào, tầng lớp nào, muốn được nghe giảng về giáo lý Thiền tông, Philip Kapleau đều không ngần ngại từ chối. 

Không chỉ giới hạn trong lãnh thổ nước Mỹ, Philip Kapleau đã có nhiều chuyến giảng Thiền tại Canada, Mexico, Costa Rica, Đức, Pháp và Ba Lan,… Với phong cách rất giản dị, với cách nói chuyện hài hước, dí dỏm và đặc biệt là vốn kiến thức sâu sắc về Thiền tông, những bài giảng của Philip Kapleau đã cuốn hút đông đảo những người đến tham dự. 

Và bằng chứng cho những thành công của bài giảng ấy là những dòng người ngày càng đông đúc hơn đổ về trung tâm Thiền Rochester mà Philip Kapleau xây dựng.

Vào năm 1968, một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã thiệu rụi tất cả trung tâm mà thiền sư Philip Kapleau dày công xây dựng. Trên đống hoang tàn đổ nát, Philip Kapleau vẫn không nản chí. Ông quyết định sẽ xây dựng lại tất cả. Và nhờ sự nỗ lực của bản thân cũng như các đệ tử, Philip Kapleau không chỉ xây dựng lại mà còn mở rộng trung tâm thiền của mình. 

Các khoa tu Thiền vẫn tiếp tục đón học sinh, các buổi lễ vẫn được thực hiện theo đúng truyền thống của Thiền tông. Và mặc dù một số nghi lễ truyền thống đã được điều chỉnh cho phù hợp với thời đại và nền văn hóa Mỹ, vốn khác xa với những nền văn hóa phương Đông, song thiền sư Philip Kapleau cho đến tận cuối đời vẫn cố gắng để giữ gìn tinh thần Thiền tông mà các đại sư Harad và Yasutani đã từng truyền dạy.

Ở tuổi 92, vị thiền sư lừng danh của thế giới Tây phương cảm thấy cơ thể mình không còn được như trước nữa. Mặc dù được các bác sĩ chăm sóc và cứu chữa, song thiền sư Philip Kapleau vẫn biết rằng mình không thể qua khỏi được. Vào 6/5/2004, thiền sư Philip Kapleau qua đời một cách nhẹ nhàng thanh thản ngay tại sân sau của Trung tâm Thiền Rochester ông dày công xây dựng trong vòng tay của những đệ tử và bạn bè.

Bằng Hư
(Phật Tử Việt Nam)

BA TRỤ THIỀN - Thiền sư PHILIP KAPLEAU - ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
QUÝ TRỌNG SỰ SỐNG Đại sư Philip Kapleau - Nguyễn Văn Nhật (dịch)



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Sáu 2016(Xem: 5259)
Đã là ngày thứ mười lăm của lịch Tây Tạng, một cách truyền thống đây là thời gian để làm mới. Đức Đạt Lai Lạt Ma đang ở thị trấn của Đạo Tràng Giác Ngộ, Bodhgaya, để tỏ lòng tôn kính đến Phật tích thiêng liêng nhất của Phật Giáo. Sau một vài ngày cần thiết để nghỉ ngơi ở đây, ngài sẽ tiếp tục cuộc hành hương đến đỉnh Linh Thứu trước khi trở lại để truyền lễ quán đảnh Thời Luân. Đức Đạt Lai Lạt Ma bước lên ngai của ngài bên trong Đại Tháp Giác Ngộ, dưới tàng cây bồ đề cổ kính, hậu duệ trực tiếp của cây bồ đề xưa kia nơi Đức Phật đã đạt đến Giác Ngộ hai nghìn năm trăm trước. đông đảo những tu sĩ Tây Tạng ngồi đối diện với ngài trong khoảng sân rộng. Họ đã đến đây để tham dự nghi thức sojong hai lần một tháng - sám hối.
15 Tháng Sáu 2016(Xem: 5329)
Ánh sáng buổi trưa chiếu ấm áp và dễ chịu trên những tàn tích của Đại Học Na Lan Đà cổ xưa. Đức Đạt Lai Lạt Ma và một đoàn tùy tùng khoảng một trăm tu sĩ ngồi và trì tụng kinh chú trên bãi cỏ đối diện trực tiếp với phần còn lại của ngôi tháp cao chín mươi bộ. Tất cả đã đến đây sau khi dừng chân ở Sarnath, trong một cuộc hành hiếm hoi để tỏ lòng tôn kính đến những Phật tử ưu việt Ấn Độ, những người đã học và dạy tại Na Lan Đà. Lãnh tụ Tây Tạng đã không đến đây trong hơn hai thập niên.
10 Tháng Sáu 2016(Xem: 5644)
Đức Đạt Lai Lạt Ma bước ra khỏi chiếc xe đại sứ bọc thép trắng và cất bước hướng đến một khán đài tạm cạnh tháp Sarnath (tháp Chuyển Pháp Luân ở Lộc Uyển). Có khoảng vài trăm khách hành hương và tu sĩ đã tập họp, đang chờ đợi ngài thuyết giảng. Đấy là tháng Giêng, và lãnh tụ Tây Tạng tiến hành một cuộc hành hương hiếm hoi đến những Phật tích thiêng liêng nhất ở Ấn Độ. Sarnath là nơi dừng chân đầu tiên, hơn hai mươi lạt ma cao cấp trong bộ y áo màu đỏ quen thuộc, cầm một bó nhang trong tay, xếp hàng trên lối đi chào đón ngài.
06 Tháng Sáu 2016(Xem: 5145)
Có một cảm giác hấp dẫn mạnh mẽ bất ngờ tại thiền phòng riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở Dharamsala, biến chuyển trong năm ngày thành một phòng họp cho Hội Nghị Tâm Thức và Đời Sống lần thứ 10. Mọi con mắt đang đổ dồn về Steven Chu, khôi nguyên vật lý của Hoa Kỳ. Ông ngồi trên ghế được xếp bên phải của Đức Đạt Lai Lạt Ma, một bình hoa bằng đồng đầy những hoa tươi ở phía sau ông. Chu đang chuẩn bị để giải thích mối quan hệ tiềm tàng giữa toán học và cơ học lượng tử đến Đức Đạt Lai Lạt Ma và hội nghị.
17 Tháng Năm 2016(Xem: 5615)
Những ngày hội mừng Một Trăm Năm Giải Nobel Hòa Bình là trọn vẹn. Tôi đang ngồi tại phòng khách gác lững của Khách Sạn sang trọng Holmenkollen, chờ để có thức uống với Lodi Gyari Rinpoche, đại diện đặc biệt của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Phòng chờ đợi đông đảo. Tôi có thể thấy tác giả quyển Holocaust (Vụ Diệt Chủng Do Thái) và khôi nguyên hòa bình Elie Wiesel đang mãi mê đàm luận với một người đồng hành, hoàn toàn không chú ý tới sự huyên náo chung quanh ông. Một người khôi nguyên khác, José Ramos-Hortas của Đông Timor, ở tại một chiếc bàn ngay bên cạnh, ông đang trả lời phỏng vấn với một vài phóng viên.
19 Tháng Tư 2016(Xem: 5197)
Kể từ khi anh được phát hiện treo cổ trong ký túc xá vào tháng Giêng này, câu chuyện về cuộc đời của Rohith Vemula đã được khơi lại thành đề tài nói chuyện về hệ thống đẳng cấp và sự kỳ thị đặt căn bản trên đẳng cấp tại Ấn Độ, đặc biệt hơn là trong các trường đại học.
05 Tháng Tư 2016(Xem: 5657)
Phòng hành thiền của Đức Đạt Lai Lạt Ma được tắm trong ánh nắng dịu dàng của buổi sáng. Những tủ đựng đồ bằng gỗ chạm trổ tinh vi đứng dọc bên tường, ở giữa chúng tôi có thể thấy nhiều bức tượng bằng đồng và vô số sản phẩm thủ công tôn giáo. Cả kho kinh điển Tây Tạng gói trong những tấm vải vàng và gấm thêu kim tuyến chồng chất đầy những kệ sách được làm theo truyền thống. Trung tâm của phòng được chiếm ưu thế bởi một bàn thờ trang trí công phu. Một bức tượng - cao không quá hai bộ được đặt trong một ngôi điện nho nhỏ bằng gỗ và thủy tinh - thật là một nơi đáng ngưỡng mộ. Không gian trầm lặng tuyệt đẹp, một sự thanh lịch bình dị.
02 Tháng Tư 2016(Xem: 4957)
Đây là trích đoạn (lần thứ ba) từ buổi nói chuyện Hỏi & Đáp với Thượng Tọa Pomnyun tại trường Đại Học Princeton vào ngày 1/10/2014. Người phỏng-vấn hỏi Thượng Tọa Pomnyun trở thành một nhà sư như thế nào.