Tuệ Trung Thượng Sĩ: Kẻ Ngông Cuồng Trong Đôi Mắt Phàm Tình

01 Tháng Tám 201100:00(Xem: 12979)

TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ:
KẺ NGÔNG CUỒNG TRONG ĐÔI MẮT PHÀM TÌNH

Huệ giáo

Sống và Chết là hai vấn đề tối trọng. Đã biết bao nhiêu nhà tư tưởng, triết gia cho đến hàng thứ dân, tất cả đã tốn nhiều công sức, bút mực, và để tâm tìm hiểu đến vấn đề này. Thế mới biết sống và chết thật hệ trọng biết bao, cho thân phận con người trong trần thế. Đây quả là những điều hết sức căn bản trong đời sống mà con người luôn tự hỏi với chính mình và thế giới chung quanh. Sống làm gì? Thế nào? Và chết sẽ đi về đâu? Có phải chăng sống và chết là một hiện tượng, như bao hiện tượng khác biểu hiện trong thế giới tự nhiên không một may may chống trái.

Tuệ Trung Thượng sĩ là một con người như bao con người khác sinh ra và lớn lên, già chết không ra ngoài quy luật nghìn đời. Đó là quy luật đổi thay - Vô thường của vũ trụ bao la. Nhưng tại sao chính ngay cái bình thường ấy, ông là kẻ khác thường. Khác thường trong hành động, trong sự suy nghĩ, đời sống cho đến nỗi chúng ta dễ lầm lẫn ông là kẻ ngông cuồng khi chưa hiểu rõ về Ông.

Nguyên tố nào đã cấu thành một con người Thượng Sĩ? Động cơ nào đã thúc đẫy ông dám vứt bỏ, quay lưng với vở tuồng lớn đang diễn ra hết sức sôi động trên sân khấu cuộc đời. Đây có phải là một nguyên tố:

Hình hài suy yếu đâu phải là chuyện đáng buồn
Cũng không phải chim hạc lánh đàn gà
Nghìn màu xanh, muôn vẽ thúy tràn ngập làng nước
Góc bể bên trời là nơi nuôi dưỡng chân tánh của ta.

( Dưỡng chân- Đỗ Văn Hỷ dịch).

Trong cái bình thường, Sinh-Lão-Bệnh-Tử là một quy luật hết sức tự nhiên. Chuyện đã tự nhiên thì có đáng gì để quan tâm, ở đây điều mà Thượng Sĩ quan tâm chính là làm sao để tìm cho bằng được một con đường để hòa nhập với cái mênh mông của vũ trụ. Góc bể bên trời là nơi có thể dong thuyền thực hiện một chuyến đi vào cỏi bao la vô tận của đại dương, kẻ ngông cuồng Thượng sĩ đó đã chọn bến cho con tàu của mình.

Vì đã lấy giả tạo thêm cái giả khác, cái đau buồn bi thảm khi phân ly, sự mất mát làm thú đau thương để nuôi dưỡng mạng sống; con người đã lầm nhận giặc là bạn, đã nuôi ong tay áo trở lại hại mình. Sống chết là trò hề, là cái huyễn được tạo ra ngay trong cuộc đời, thế mà con người cứ bám víu vào nó, thấy rõ được điều này một con người tầm thường đã biến thành Thượng Sĩ.

Cho đến thấy rõ được mặt thật của cuộc đời (Pháp nhĩ như thị), Thượng Sĩ vẫn chưa lấy làm tự mãn, và thọ hưởng những gì ông đã đạt được. Cuộc đời - Thế giới muôn màu sắc, sở dĩ nó đẹp - Chính là nó luôn luôn biến đỗi và chính nó biết phủ định lấy nó. Thượng sĩ đã không nắm giữ, bám víu và chấp nhận sự phủ phàng để quay lưng với những biến đổi không thật mà tìm đến cái gì vĩnh hằng hơn.

Sự nhận thức - Vốn dĩ nó muôn trùng, chính ngay sự đa dạng đó, Thượng sĩ đã cảm nhận được vọng thức. Sự sai lầm ở thế giới trong ta dẫn đến sự sai lầm lớn về thế giới quanh ta. Từ nơi không thấy được sự thật với chính mình, giá trị bên trong của một con người. Con người cứ rong đuổi tìm con người của mình ở bên ngoài, mượn giá trị bên ngoài làm giá trị cho mình, có biết đâu giá trị đó chính là kết quả quyết định bản lĩnh của mình.

Ngay chính nơi nương tựa thiêng liêng nhất của con nguời, điều mà con người chưa bao giờ thấy được, có chăng đó chỉ là một đức tin thành khẩn nhất. Thế mà Thượng Sĩ quả quyết chẳng ở đâu xa:

Giẫm chân tới đầu cổng chùa chưa được giây lát
Buông lời dọc ngang viết lên bài kệ
Năng gần đây, ngòi bút trở nên hờ hững
Như Lai ở ba giới cũng chả biết là thế nào!

(Đề Tinh xá - Đỗ văn hỷ dịch).

Cái lầm lẫn mà muôn đời con người cứ lầm lẫn, chính ông đã không lầm lẫn, tuyệt đích là cái biết không hai. Thực thể là thực thể, không có hai mặt trong một thực thể. Do vậy, khơi dậy được cái sâu sắc bên trong, ông đã đặt bút ngay trong bài “ Tùy cơ ứng đối”:

Vốn không tâm không đạo
Có đạo chẳng không tâm
Tâm đạo là hư tịch
Biết nơi nào trung tâm.

Tâm và Đạo chẳng ở đâu; sinh tử chính là Niết bàn; phiền não tức Bồ đề. Ngay chính Niết bàn cũng là điều hư dối, Thượng sĩ đã đánh bật nhận thức thường tình của con người. Đến và Đi là lẽ “Đạo”, lẽ thường tình, đừng nói sống mà có chết. Sống là biểu hiện của cái chết, chết là sự nẩy mầm cho đời sống mới. Nhận thức được điều then chốt ấy trong cuộc sống, thấy rõ bản chất của chính sự vật, mới có một nhận thức đúng (minh minh thường tự tại), Tuệ Trung đã có bản lĩnh làm được điều đó. Sự vi diệu của cuộc sống Thượng sĩ đã nhận chân được trong dòng chảy vô tận, đã giúp ông thấy được chính ông cũng không ngoài hiện tượng trôi chảy. Cứ thế và cứ để nó trôi êm đềm như thế, đừng ngăn cản, dại dột chết đuối bởi một dòng sông :

Thôi đừng hỏi con đường của sống và chết làm gì
Thời tiết của nhân duyên cứ thế tự nó hình thành
Mây núi đã có cái thế bay ra khỏi núi
Nước suối không tiếng nào không phải là
tiếng nước giao vào dòng suối.
Hàng năm hoa vẫn nở vào tháng ba
Sáng sớm gà vẫn gáy vào canh năm
Ai là ngườI hiểu được mặt người Mẹ
Mới tin rằng người và trời đều là giả danh.

( Thời tiết yên định - Đỗ văn Hỷ dịch).

Phật chẳng ở đâu xa - Đạo chẳng màng tìm kiếm. Chết chính là sự thay đỗi của cuộc sống, vươn lên cho sự sống thường còn chính là sự thực hiện một công trình chết. Ai đã đến và ai đã đi trong một thế giới chưa từng thay đổi:

Tâm mà sinh chừ sinh tử sinh
Tâm mà diệt chừ sinh tử diệt
Sanh tử xưa nay vốn tánh không
Chết là dối chết sinh dối sinh
………
Chớ như hươu khát nước đuổi bóng nước
………
Kẻ ngu sống chết mãi lo âu
Người trí rõ thông nhàn thôi vậy.

( Trúc Thiên dịch)

Đánh bật lẽ thường để dành lại cái “Thị thường” như thế, có phải đây là Kẻ Ngông Cuồng Trong Đôi Mắt Phàm Tình không vậy?

 

(Cùng một tác giả)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Chín 2014(Xem: 10906)
14 Tháng Tám 2014(Xem: 6596)
Thông thường, nhắc đến các vị Thiền sư đời Trần, chúng ta vẫn chỉ nghe nhắc đến Trần Thái Tông, Huệ Trung thượng sĩ, Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang. Trần Thái Tông là tác giả Khóa Hư Lục, bản văn Thiền đồ sộ nhất đời Trần. Huệ Trung thượng sĩ là tác giả Thượng sĩ ngữ lục, bản văn Thiền đã biểu lộ một trí huệ sắc bén, một phong cách phóng khoái không thua gì những ngữ lục của các thiền sư nổi tiếng Trung Hoa.
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 7399)
Truyện Kiều là tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của nền Thi ca Việt Nam. Người trẻ nào trong thời gian học Trung học cũng có dịp được nghe về truyện Kiều và học một ít về truyện Kiều. Nhưng vì truyện Kiều là một tác phẩm cổ điển và lại có nhiều điển tích cho nên đối với người trẻ, thưởng thức hết được cái hay của truyện Kiều là một chuyện không dễ.
26 Tháng Sáu 2014(Xem: 7914)
Trăng hạ huyền chếch trên đầu ngọn thông cuối đường. Một mình giữa đêm. Trụ đèn kiên nhẫn đứng thẳng và im lặng; bên cạnh cây bạch đàn cao ngất đang lao xao trước gió. Đèn vàng lay lắt tỏa bóng trong màn sương. Màu bông giấy đỏ rực dưới nắng mai, giờ trở nên tím sẫm.
20 Tháng Sáu 2014(Xem: 5367)
Sau khi đại phá quân Nam Hán tại sông Bạch Đằng năm 938 thì năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, chấm dứt 1000 năm lệ thuộc, đem lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc. Ông ở ngôi được 6 năm, đến năm 949 thì mất. Và sau đó là loạn lạc kéo dài, đến năm 965 thì nhà Ngô sụp đổ. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, lập nên nhà Đinh – Đinh Tiên Hoàng - đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
11 Tháng Sáu 2014(Xem: 9406)
Phóng cuồng ngâm: Từ trước đến nay, chữ “cuồng” này người ta thường hiểu là ngông, là cuồng, là điên. Đấy là hiểu theo nghĩa đen. Khá hơn chút nữa – đa phần bản dịch – đều nói cuồng là cuồng nhiệt, ý khí mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Lý Việt Dũng trong ‘Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục dịch giải’ - đã nói về cái cuồng theo nghĩa như thế này, đáng cho chúng ta suy gẫm:
10 Tháng Sáu 2014(Xem: 5682)
Tuệ Trung Thượng Sĩ đã tiếp thu được mọi nguyên lý sâu xa, vi diệu nhất của Thiền học từ sư phụ Tiêu Diêu, rồi truyền dạy lại cho Trần Nhân Tông, đệ nhất tổ phái Thiền học Trúc Lâm Yên Tử. Chính vì thế Tuệ Trung Thượng Sĩ được coi là người tiên phong của phái Thiền học Trúc Lâm Yên Tử.