Lược ý Nghi Thức "Phóng Liên Đăng" Trong Đại Lễ Vu Lan Phật Giáo Bắc Truyền

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 83624)
tuyentapvulan-03

LƯỢC Ý NGHI THỨC "PHÓNG LIÊN ĐĂNG"
TRONG ĐẠI LỄ VU LAN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN

Thích Tâm Mãn

Mỗi năm đến tháng bảy mưa ngâu lất phất, tiết trời u trầm, cảm như thấy như có chút gì đó buồn thương, bao nhiêu nhớ thương về những người thân đã khuất, gợi đến cho tất cả mọi người nổi niềm vương vấn xa xưa, rồi nhớ thương quay về theo cảm niệm tri ân và báo ân tha thiết, tạo nên không khí của một mùa đại lễ “Báo Hiếu Vu Lan” đầy triết lý hiếu đạo và tình người. Có câu ca dao mà hầu như đã là người Việt Nam thì ai cũng phải biết và ý thức được mình nên làm gì, đó là: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

blank

Một năm Phật Giáo có hai lễ hội thắp nến đó là Pháp Hội Dược Sư thắp đèn Diên mạng cầu an đầu năm, trong dân gian có Tiết Thượng Nguyên có hội đèn lồng tết Nguyên Tiêu. đến tháng bảy pháp hội Vu Lan Bồn, thả đèn hoa sen để cầu nguyện cho chư hương linh siêu sanh cực lạc, trong dân gian gọi là Tiết Trung Nguyên, Quỷ tiết Phóng Hà Đăng siêu độ âm hồn.

Đốt đèn thả xuống sông cầu nguyện là tập tục lâu đời có nguồn gốc từ Ấn Độ, những tín đồ của Đạo Bà La Môn, họ đốt đèn thả xuống sông Hằng và các ao hồ linh thiêng, để cầu nguyện Thần Linh phù hộ, Phật Giáo tiếp nhận tập tục này đưa vào trong nghi thức cầu siêu “Vu Lan Bồn” và nghi thức này được các vị truyền giáo đại sư đem truyền vào Đông Độ.

Tính chất đạo đức và nhân văn của nghi thức này phù hợp với quan niệm đạo đức của người Đông Độ, nên rất nhanh chóng được chấp nhận và dần dần trở thành một nghi tiết quan trọng luôn được thực hiện trong lễ hội “Tiết Trung Nguyên Phổ Độ” đại lễ Vu Lan Báo Hiếu Phật Giáo Bắc Truyền, trong sách Đế Kinh Tế Thời Kỷ Thắng, phần Trung Nguyên chép: “Mỗi năm đến tiết trung nguyên khởi kiến Đạo Tràng Vu Lan Bồn, từ ngày 13 cho đến ngày 15 đều làm lễ đốt đèn thả xuống sông…”.

blank

Trong sách Đài Loan Đại Bách Khoa Toàn Thư chép: “Rằm tháng bảy âm lịch, tín đồ Phật Giáo cử hành nghi thức khánh chúc Pháp hội Vu Lan Bồn, đồng thời đây cũng là lễ tiết trung nguyên của người Đông Độ cúng tế tổ tiên. Pháp Hội Vu Lan Bồn là kỷ niệm ngày Mục Kiền Liên Tôn Giả cứu mẹ, đây cũng là ngày hội hoằng dương Đạo Hiếu, và khuyến tấn Phật tử học tập theo hạnh hiếu của Tôn Giả Mục Liên. Pháp hội này được dân gian cử hành rất trọng thể và nhiều tiết mục, như làm Thuyền Pháp, đốt Liên Hoa Đăng, phóng Hà Đăng, cúng bái Tổ tiên .v.v...”.

Trong Hô Lan Hà Truyện có chép về ý nghĩa của nghi thức thả đèn liên hoa cầu nguyện trong lễ Vu Lan như: “ngày rằm tháng bảy là ngày hội của các vong hồn, các oan hồn chết oan uổng, hay nghiệp báo nặng nề phải thọ khổ ở địa ngục, không thể siêu thoát được, trong cảnh giới địa ngục âm u đen tối, không tìm được đường ra, nếu muốn siêu thoát cần phải có ánh sáng trí tuệ để dẫn đường. Đến ngày rằm tháng bảy, lễ hội Vu Lan, các vong linh nhờ các ngọn đèn liên hoa dẫn đường, nương theo ánh sánh của Phật mà vãng sanh Tịnh độ.”.

Đèn Hoa Sen là vật cúng dường quan trọng trong đại lễ này, vì hoa đăng tượng trưng cho trí huệ, diệt trừ u ám, lấy đèn trí tuệ để chiếu sáng chính mình cũng như mọi người, và đem ánh sáng trí tuệ của Phật soi sáng cỏi u minh độ cho các âm linh siêu sanh về cỏi Tịnh độ. Trong Thiên Giám Luận Đàn chép: “Đốt sáng đèn liên hoa thả xuống nước, để chiếu sáng cỏi u minh, siêu độ các vong hồn ngạ quỷ.”

blank

Đèn để phóng đăng thường làm theo hình dáng hoa sen nên có tên Liên Hoa Đăng, đây là một kiểu dáng đèn của Phật Giáo khác với kiểu đốt nến thả trôi sông của Bà La Môn Giáo, vì Phật Giáo quan niệm “Diệu Pháp Liên Hoa” hoa sen có 4 đức: 1. Hương thơm, 2. Thanh tịnh không ô nhiễm, 3. Nhu nhã hòa hợp, 4. Khả ái trang nghiêm; vì hoa sen mang đầy đủ tính chất tượng trưng của Đạo Phật nên dùng hình dáng này làm hoa đăng.

Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “Ta là Sa Môn, ở trong đời uế trược, nên phải như hoa sen, không bị ô nhiễm...”, thứ nữa hoa sen là loại hoa thể hiện đức tính đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài thường được xưng tán là “Liên Hoa Vương”, cho nên dùng loại hoa này làm hình dáng của đèn, để thể hiện tinh thần cứu khổ độ sanh của Đạo Phật.

Trong kệ Hồi Hướng có câu: “Nguyện sanh về trong cỏi Tịnh Độ ở Tây Phương, chín phẩm sen vàng là cha mẹ, hoa nở thấy Phật ngộ được pháp vô sanh, kết bạn cùng với chư vị Bồ Tát bất thối chuyển.”, và đây cũng là tâm nguyện ý nghĩa chính của nghi thức phóng liên hoa đăng, cầu nguyện cho người đã khuất, nương theo hoa sen thanh tịnh thác sanh về cảnh giới của Đức Phật A Di Đà, nên lấy hình dáng hoa sen làm đèn là cụ túc ý nghĩa nhất.

blank

Nghi thức Phóng Liên Đăng được truyền vào Đông Độ rất sớm và người khởi xướng hoằng dương nghi thức này là Vua Lương Võ Đế thời Nam Triều của Trung Quốc, trong sách Đế Vương Dữ Phật Giáo chép: “Đời Nhà Lương niên hiệu Đại Đồng thứ 4 (538), Vua Lương Võ Đế đến chùa Đồng Thái, thiết lễ Vu Lan Bồn Trai, cúng dường trai tăng, siêu độ vong linh, trong lễ Vu Lan này, lần đầu tiên có tổ chức lễ thả đèn hoa sen xuống phóng sanh trì, để cầu siêu độ cho các vong linh...”, ban đầu nghi thức này chỉ do chư Tăng trong pháp hội đem đèn thả xuống ao phóng sanh trong chùa, dần dần được truyền ra dân gian phát triển thành lễ hội phóng đăng xuống các sông hồ ở các địa phương, từ đó nghi thức này được lưu hành trong Phật Giáo cũng như dân gian.

Đến thời nhà Đường thì nghi thức Phóng Đăng trong Phật Giáo đạt đến cực thạnh, truyền đi khắp các nước có Phật Giáo Bắc Truyền. Trong sách Đế Kinh Cảnh Vật Lược chép: “Ngày 15 tháng 7, các chùa đều mở hội Vu Lan Bồn, buổi tối đều có đốt đèn thả xuống sông, nghi thức này được gọi là Phóng Hà Đăng…”. Đến đời Tống thì triều đình quy định trong tiết Trung Nguyên tất cả các nơi đều phải làm lễ đốt đèn liên hoa thả xuống sông, tế độ cô hồn, chân tế bạc độ chư âm linh, diễn kịch Mục Liên cứu mẹ.v.v…

Ở Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng, thả đèn hoa sen xuống sông hồ để cầu siêu cho người đã khuất, đây là một nghi thức truyền thống có nguồn cội từ Phật Giáo được truyền vào Việt Nam từ rất sớm theo truyền thuyết cho rằng do các vị Phạm Tăng truyền đến Việt Nam.

Phong tục đốt đèn quang minh, thả đèn bay lên trên trời, hay đem đèn thả xuống sông hồ để cầu bình an hay cầu nguyện cho người đã khuất trong những nghi thức Đại Lễ của Phật Giáo, nghi thức giàu tính nhân văn này khi được truyền vào Việt Nam nhanh chóng được Dân tộc Việt chấp nhận và dần trở thành nếp văn hóa truyền thống mang tính đạo đức dân tộc của người Việt Nam, được lưu truyền rất là rộng rãi và những phong tục ấy vẫn còn được truyền lại cho đến ngày nay.

blank

Thời Lý Trần có hội đèn Quảng Chiếu cầu quốc thái dân an vào đầu năm luôn được triều đình đứng ra tổ chức. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng có ghi vào năm Canh Tý (1120): “Mùa Xuân, tháng Hai, mở hội đèn Quảng Chiếu” và vào năm Bính Ngọ (1126) “Mùa Xuân tháng Giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội ở phủ Đô Hộ, xuống chiếu cho sứ thần của Chiêm Thành xem”.

Trong sách Đại Việt Sử Lược ghi vào năm Canh Dần (1110): “Mùa Xuân tháng Giêng, tổ chức hội đèn Quảng Chiếu ở ngoài cửa Đại Hưng” và trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh cũng có mô tả khá chi tiết về lễ kỳ an - hội đèn Quảng Chiếu.v.v... qua đó cho ta thấy phong tục đốt đèn trong các dịp đại lễ đã trở thành nếp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Việt Nam còn có các điệu múa về hoa đăng như múa “Bài Bông” múa “Lục Cúng Hoa Đăng”.v.v...qua đó cho ta thấy tục đốt đèn cúng dường hay để cầu nguyện của Phật Giáo đã đi sâu vào truyền thống Văn hóa nghi thức Phật Giáo Việt Nam và văn hóa truyền thống Dân Tộc Việt Nam.

Những năm gần đây nghi thức phóng đăng được phục hồi và được tổ chức quy mô vô cùng hoành tráng trong các dịp Đại lễ như Đại Lễ Phật Đản, Đại Lễ Vu Lan và trong các Đại lễ kỳ siêu trong cả nước, “Uống nước nhớ nguồn” thắp nến tri ân, thả hoa đăng cầu nguyện cho chư anh linh siêu thoát là một trong những nếp văn hóa vô cùng đẹp của Dân Tộc Việt Nam, đồng thời thể hiện sự tiếp nối nếp đẹp đạo đức gia phong của Dân Tộc Việt Nam ngàn đời và mãi mãi.

Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com
Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú
Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
22 Tháng Giêng 2015(Xem: 10109)
06 Tháng Giêng 2015(Xem: 5965)
Một vị Hòa thượng đã nói đùa: “Chùa thờ linh lúc nào cũng đông đúc Phật tử đến sinh hoạt, việc điều hành chùa tuy bận rộn nhưng dễ dàng vì có phương tiện cúng dường của Phật tử. Trái lại, những ngôi chùa chỉ đào tạo Tăng Ni có trình độ giáo lý cao như cử nhân, tiến sĩ thì phần lớn không có chúng, không có Phật tử”, và vị này đã kết luận: “tiến linh có phần ‘hơn’ tiến sĩ!!!”.
16 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 19345)
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5261)
Vị trí địa lí và các sinh hoạt văn hóa kinh tế giữa Trung Quốc (TQ) và Việt Nam (VN) đã để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ theo dòng thời gian, nhất là khi Phật giáo (PG) du nhập vào Đông Nam Á và TQ. Phần này chú trọng vào các cách đọc (âm Hán Việt) của chữ 梵 phạn hay phạm trong các tài liệu cổ TQ và các dữ kiện tương ứng trong tiếng Việt.
19 Tháng Mười Một 2014(Xem: 6022)
Tôi không có ý định nói tiếp ý của câu ca dao thứ hai “ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta” vì mình chưa đủ trải nghiệm và hiểu biết để đoan chắc rằng “lắm kẻ” đó có “giòn” hơn hay không “giòn” hơn ta. Tôi chỉ xin nói về một vài trải nghiệm nho nhỏ khi “ra đường” để có dịp nhìn lại mình khi “ở nhà” với những mối quan hệ “mẹ con” thân thuộc.
03 Tháng Mười Một 2014(Xem: 4636)
Nghệ thuật Phạm-bối của Phật giáo ra đời trong không gian kỳ ảo của nhiều cung bậc âm thanh, từ các thể tán ca, ngâm vịnh của những tôn giáo mang ảnh hưởng Vệ-đà. Mặc dù Đức Phật đã mở một lối đi riêng mang tính tiên phong về phương diện tư tưởng nói chung và lãnh vực nghệ thuật nói riêng; tuy vậy, vẫn có những giao thoa nhất định trong hành hoạt đời thường, vì cùng sinh hoạt và tồn tại trong một không gian văn hóa.
29 Tháng Mười 2014(Xem: 5323)
Theo các nguồn sử liệu đáng tin cậy, đạo Phật truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch, cho đến Khương Tăng Hội là vị tăng sĩ có sử tích đầu tiên trong lịch sử (sanh khoảng năm 190 - mất năm 280 sau tây lịch) và để lại nhiều tài liệu viết dịch;[1]từ ấy đến nay đã gần hai ngàn năm.
14 Tháng Mười 2014(Xem: 5774)
Hằng năm, sau ba tháng an cư, nhập hạ trước, từ ngày 16/6 đến 16/9, suốt một tháng, tức là từ ngày 16/9 đến ngày 16/10 ÂL. trùng với ba tháng mùa mưa ở Ấn Độ, chư tăng được phép thọ nhận y Kaṭhina do thí chủ cúng dường. Truyền thống này có sự tích và nhân duyên từ thời đức Phật:
27 Tháng Chín 2014(Xem: 7123)
Như thường lệ, đúng vào ngày Chủ nhật hàng tuần, chư tôn đức Phật giáo Nam Tông tỉnh Thừa Thiên Huế đều có pháp khất thực trên những con đường êm ả của xứ Huế thơ mộng. Những bước chân nhẹ nhàng, thong thả với chánh niệm, pháp khất thực đã thể hiện nét đẹp văn hóa của Phật giáo xứ Huế và dần trở thành thân thuộc với người dân.
01 Tháng Chín 2014(Xem: 10564)
Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả.