Chương 4: Đối Phó Với Hôn Trầm Và Trạo Cử

12 Tháng Chín 201200:00(Xem: 11745)

Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 3
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Hạ)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎

Chương 4: Đối Phó với Hôn Trầm và Trạo Cử

(c)) Làm gì sau khi quý vị tập trung lên đối tượng thiền

(1)) Làm gì khi hôn trầm và trạo cử xảy ra.

(a’)) Sử dụng phương thuốc trị sự thất bại trong việc nhận biết hôn trầm và trạo cử

(1’)) Xác định các đặc tính của hôn trầm và trạo cử

(2’)) Phương pháp phát triển tỉnh thức nhận biết được hôn trầm và trạo cử

(b’)) Sử dụng phương thuốc trị việc thất bại trong nỗ lực loại trừ chúng ngay cả khi nhận ra chúng.

(1’)) Sự chú tâm và cách ngưng hôn trầm và trạo cử

(2’)) Các nguyên nhân sâu xa của hôn trầm và trạo cử

(2)) Làm gì khi hôn trầm và trạo cử không hiện diện

 

–––––––\––––––

 

(c)) Làm gì sau khi quý vị tập trung lên đối tượng thiền

Phần này có hai phân mục:

1. Làm gì khi hôn trầm và trạo cử xảy ra

2. Làm gì khi hôn trầm và trạo cử không hiện diện

 

(1)) Làm gì khi hôn trầm và trạo cử xảy ra

Mục này có hai bộ phận

1. Sử dụng liều thuốc trị thất bại trong việc nhận biết hôn trầm và trạo cử

2. Sử dụng liều thuốc trị thất bại trong nỗ lực loại trừ chúng ngay cả khi nhận ra chúng

 

(a’)) Sử dụng liều thuốc trị thất bại trong nhận biết hôn trầm và trạo cử

Ở đây có hai tiểu mục: (1) Xác định các đặc tính của hôn trầm và trạo cử và (2) Phương pháp phát triển tỉnh thức nhận biết được hôn trầm và trạo cử trong khi thiền.

 

(1’)) Xác định các đặc tính của hôn trầm và trạo cử

Trong Vi Diệu Pháp Tập Luận của Vô Trước định nghĩa trạo cử[1]:

 

Trạo cử là gì? Đó là trạng thái không yên ổn của tâm, được xem là một dẫn xuất của tham chấp, vốn theo đuổi các đối tượng dễ chịu và tác động như là một trở ngại cho định từ thiền.

 

Có ba khía cạnh trong định nghĩa này: (1) Đối tượng của nó là một thứ hấp dẫn và dễ chịu. (2) Khía cạnh chủ quan của nó là ở chỗ tâm quý vị không yên ổn và phân tán ra ngoài. Vì là một dẫn xuất của tham chấp, nó khởi tác lên đối tượng của mình với một ý tưởng thèm muốn. (3) Chức năng của nó là cản trở sự bình ổn của tâm quý vị lên đối tượng của tâm.

Khi sự chú ý của quý vị hướng nội được giữ nguyên lên đối tượng của nó, thì trạo cử – tức là tính bám chấp vào sắc, thanh, và v.v... – kéo sự chú tâm của quý vị một cách không cưỡng được về hướng các đối tượng này và gây ra sự phân tán. Như được nói đến trong Tuyên Nhập Tụng của Nguyệt Quan[2]:

 

Chỉ như ngươi tập trung vào định từ thiền,

Hãy hướng sự chú tâm của mình đến đó lập đi lập lại.

Mối ràng buộc của phiền não kéo sự chú tâm của ngươi

Một cách không cưỡng nổi bằng dây tham chấp vào các đối tượng. [515]

 

Vấn: Phải chăng trạo cử là khi có sự phân tán trong đó các phiền não làm phân tâm quý vị ra khỏi đối tượng – hay, điều đó là khi có sự phân tán hướng đến các đối tượng đức hạnh khác?

 

Đáp: Trạo cử là một dẫn xuất của tham chấp, nên việc bị phân tâm bởi các phiền não khác thì không phải là trạo cử; mà đúng hơn đó là một tiến trình tinh thần của sự phân tâm thuộc về một trong hai mươi phiền não thứ cấp[3]. Việc phân tâm hướng đến các đối tượng thiện đức có thể liên hệ đến một tâm thiện đức nào đó hay đến tiến trình tinh thần, cho nên không phải tất cả sự phân tâm đều là trạo cử.

Nhiều bản dịch nêu rằng hôn trầm (bying ba) như là sự “chểnh mảng” (zhum pa), nhưng sự “chểnh mảng” này không nên được phân tích như là ý nghĩa về sự chán nản (zhum pa). Về định nghĩa đó, hầu hết các thiền giả trên các đỉnh tuyết sơn này dường như xem hôn trầm là một trạng thái thờ ơ của tâm mà nó lưu lại trên đối tượng thiền của tâm không có sự phân tán vào nơi nào khác nhưng chỉ thiếu sự rõ ràng thấu suốt. Điều này không đúng, vì sự thờ ơ được nói là nguyên nhân gây ra hôn trầm, vậy nên hai trạng thái khác nhau, như đề xuất của Liên Hoa Giới trong phần thứ nhì Giai Trình Thiền[4]:

 

Nếu bị áp lực bởi thờ ơ và buồn ngủ, ngươi thấy tâm mình trở nên lỏng lẻo, hay đang trong nguy cơ của hôn trầm…

 

Cũng vậy, Kinh Giải Thâm Mật có dạy[5]:

 

Nếu có hôn trầm do sự thờ ơ và buồn ngủ, hay nếu ngươi đang đau khổ bởi những phiền não thứ cấp nào đó trong trạng thái thiền sâu, thì đó là một trường hợp của sự phân tâm bên trong.

 

Điều này khẳng định rằng khi tâm quý vị trở nên lỏng lẻo do thờ ơ và buồn ngủ, đó chính là phân tán vào bên trong. Trong Vi Diệu Pháp Tập Luận, ngài Vô Trước cũng bàn thảo về hôn trầm trong khuôn khổ của phiền não thứ cấp của sự phân tán, nhưng sự phân tán theo như ngài giải thích cũng có thể là công hạnh, không nhất thiết là phiền não.

Sau đó, Vô Trước nói về sự thờ ơ trong Vi Diệu Pháp Tập Luận [6]:

 

Thờ ơ là gì? Một trạng thái bất khả dụng {không hữu ích} của tâm được phân lớp như là một dẫn xuất của ảo tưởng, nó tác động hỗ trợ cho tất cả các phiền não nguồn và các phiền não thứ cấp.

 

Vậy nên loại dẫn xuất này của ảo tưởng là sự nặng nề và bất khả dụng của tâm và thân. Trong Vi Diệu Pháp Báu Luận, Thế Thân dạy[7]: [516]

 

Thờ ơ là gì? Sự nặng nề của thân và sự nặng nề của tâm mà chúng là sự bất khả dụng của thân và sự bất khả dụng của tâm.

 

Hôn trầm nghĩa là cách nắm bắt của tâm quý vị lên đối tượng thiền chểnh mảng và nó không nắm bắt được đối tượng một cách mạnh mẽ hay rắn chắc. Nên ngay cả khi có sự thấu suốt, nếu cách tâm quý vị nắm bắt đối tượng không mạnh mẽ thì hôn trầm đã tham dự. Liên Hoa Giới dạy trong phần thứ nhì Giai Trình Thiền[8]:

 

Khi tâm ngươi không thấy đối tượng một cách rõ ràng – như một người mù bẩm sinh, hay một người bước vào chỗ tối tăm, hay như ai đó nhắm mắt – thì hãy nhận ra rằng tâm ngươi đã trở nên hôn trầm.

 

Tôi chưa bao giờ thấy một trình bày rõ ràng về định nghĩa của hôn trầm trong các kinh luận cổ khác.

Hôn trầm có thể là đức hạnh hay trung tính về đạo đức, trong khi thờ ơ thì lại hoặc là một trở ngại tinh thần trung tính hay không đức hạnh và nó là một dẫn xuất chắc chắn từ ảo tưởng. Hơn thế nữa, các kinh văn cổ dạy rằng để loại trừ hôn trầm, quý vị phải đem vào tâm mình các đối tượng dễ chịu như là thân Phật, hay thiền lên ánh sáng để quý vị kích khởi tâm mình. Do đó, quý vị phải ngừng đối tượng khi nó trình hiện không rõ ràng, như thể bóng tối đang làm suy giảm tâm quý vị và quý vị phải đặt một sự chấm dứt lên chất lượng của sự chú tâm vốn đã trở nên yếu ớt. Quý vị cần cả một đối tượng thiền rõ ràng lẫn một cách thức chặt chẽ về việc nắm bắt đối tượng. Riêng một mình đối tượng sáng rõ hay riêng một mình sự thấu suốt về chủ thể thôi thì chưa đủ.

Thật dễ để nhận ra trạo cử, nhưng hôn trầm thì khó để lĩnh hội bởi vì nó không được nhận diện một cách rõ ràng trong các kinh luận thẩm quyền cổ. Nó lại cũng rất quan trọng vì trong trường hợp này đó là một điểm chính yếu của việc hiểu lầm khi nói về sự tập trung không sai sót. Do đó, quý vị nên kinh nghiệm hôn trầm với một sự tỉnh thức nghiêm trì và trên cơ sở đó kiểm soát nó thật tốt và nhận diện nó theo như luận giảng của Liên Hoa Giới trong Giai Trình Thiền. [517]

 

(2’)) Phương pháp phát triển tỉnh thức để nhận biết hôn trầm và trạo cử

Chỉ hiểu biết về hôn trầm và trạo cử thì không đủ; quý vị phải có khả năng phát triển tỉnh thức để phát hiện một cách chính xác mỗi khi hôn trầm hay trạo cử hiện diện trong khi thiền. Hơn thế nữa, bằng cách phát triển từng bước sự tỉnh thức mạnh mẽ, quý vị không chỉ phải phát triển tỉnh thức đủ để nhận ra hôn trầm và trạo cử ngay khi nó xảy ra, mà quý vị còn phải phát triển tỉnh thức nhằm thấy được chúng ngay khi chúng đang ở bên bờ của sự xuất hiện, trước khi chúng thật sự khởi lên. Điều này được trình bày theo các khẳng định của Liên Hoa Giới trong hai phần sau của Giai Trình Thiền[9]

 

Nếu ngươi thấy tâm mình lỏng lẻo, hay đang bị nguy cơ về hôn trầm …

 

Và:

 

Ngươi thấy tâm mình trở nên sôi động hay trong nguy cơ trở nên trạo cử

 

Khi nào quý vị chưa phát triển được một tỉnh thức như thế, thì quý vị không thể kết luận một cách chắc chắn rằng mình thiền không sai sót – không có hôn trầm và trạo cử – trong suốt một thời gian cho trước. Lý do là vì, không phát triển được một tỉnh thức mạnh mẽ, thì quý vị không thể đoan chắc liệu hôn trầm và trạo cử có xảy ra hay không. Tương tự, trong một đoản văn bắt đầu với “Có một sự nhận biết về hôn trầm và trạo cử …”, Ngài Di-lặc dạy trong Trung Biên Phân Biệt Luận[10] rằng quý vị cần tỉnh thức để nhận ra hôn trầm và trạo cử. Theo đó, nếu quý vị chưa phát triển tỉnh thức như là để ngăn ngừa mọi thất bại trong việc nhận ra sự hiện diện của hôn trầm hay trạo cử, thì ngay cả khi quý vị cố gắng thiền trong thời gian lâu dài, quý vị sẽ đánh mất thời giờ dưới ảnh hưởng của hôn trầm và trạo cử vi tế, tức là thất bại trong việc cảm nhận hôn trầm và trạo cử trong lúc chúng đang xảy ra.

 

Vấn: Làm thế nào để phát triển sự tỉnh thức này?

 

Đáp: Nguyên nhân quan trọng nhất của nó là tiến trình bảo lưu toàn tâm mà tôi đã giải thích bên trên[11]. Nếu quý vị có thể phát triển sự toàn tâm liên tục, quý vị sẽ có thể tránh khỏi việc quên lửng đối tượng thiền và trở nên phân tán. Do đó, vì điều này ngăn chặn một thất bại về lâu dài trong việc cảm nhận sự có mặt của hôn trầm và trạo cử, nên quý vị có thể nhận ra hôn trầm và trạo cử một cách dễ dàng. Điều này sẽ hoàn toàn hiển nhiên nếu quý vị kiểm tra lại kinh nghiệm của chính mình về việc mất bao nhiêu lâu để nhận biết hôn trầm và trạo cử khi toàn tâm bị trục trặc và quý vị nhận biết chúng việc nhanh chóng như thế nào khi mà toàn tâm không bị hư hỏng. Về điều này, Tịch Thiên có dạy trong Nhập Bồ-đề Hành Luận[12][518]

 

Khi toàn tâm trụ lại

Ở cổng của tâm ngươi để bảo vệ nó

Thì tỉnh thức sẽ xuất hiện

 

Và An Huệ khẳng định trong Biện Trung Biên Luận Thích[13]:

 

Mệnh đề, “Có sự nhận biết về hôn trầm và trạo cử bởi tỉnh thức nếu toàn tâm không bị sai sót”, cho thấy rằng toàn tâm, khi hoàn toàn hiện diện, thì sẽ kèm theo bằng sự tỉnh thức. Đó là lý do để nói rằng “nếu toàn tâm không bị sai sót …”

 

Nguyên nhân sau đây của sự tỉnh thức thì khác biệt với phương cách để bảo lưu sự tỉnh thức. Tập trung tâm quý vị vào ảnh được hình dung hóa của một giác thể, v.v… hay tập trung lên một phương diện chủ quan như là phẩm chất đơn thuần sáng tỏ và thấy biết của kinh nghiệm. Sau đó, trong khi quý vị đang ở trong toàn tâm như giảng giải bên trên, hãy giữ sự chú ý của quý vị vào đối tượng trong khi liên tục quán kiểm xem nó có bị phân tán nơi khác không. Hãy biết rằng đây là điều tối yếu cho việc bảo lưu sự tỉnh thức. Như ngài Tịch Thiên dạy trong Nhập Bồ Đề Hành Luận[14]:

 

Hãy kiểm đi kiểm lại

Trạng thái thân và tâm

Chỉ tóm lược như thế

Là ý nghĩa để bảo dưỡng tỉnh thức

 

Do đó, bằng cách này quý vị phát triển tỉnh thức nhận thấy được hôn trầm và trạo cử khi chúng ở bên bờ của việc khởi hiện, trong khi với phương pháp để bảo lưu toàn tâm, quý vị ngăn chặn sự quên lãng mà qua đó sự chú tâm bị phân tán và trôi đi. Do vậy, quý vị phải phân biệt hai cách này một cách đúng đắn. Bằng không, nếu quý vị tu tập như hiện đang làm – kết hợp tất cả các nhận biết này mà không hiểu về sự khác nhau của chúng – thì tôi e là sự tập trung hậu quả từ một nguyên nhân lẫn lộn sẽ tự nó trở thành rối tung. Do đó, thật quan trọng để có một phân tích chính xác về điều này trong sự phù hợp với mỗi một trong các kinh luận thẩm quyền chính, và sau đó quyết định nó trong việc tu tập của quý vị. Đừng đặt hy vọng của mình trong sự khẳng định nhẹ dạ, ngài Āryaśūra[15] dạy trong Ba-la-mật-đa Tập Luận[16]:

 

Chỉ sử dụng tinh tấn, ngươi sẽ kết thúc kiệt quệ. Nếu ngươi tu tập với trợ giúp của trí huệ, ngươi sẽ thành tựu kết quả to tát. [519]

 

(b’)) Sử dụng phương thuốc trị sự thất bại trong việc nỗ lực loại trừ chúng ngay cả khi chúng được nhận biết.

Như giải thích bên trên, quý vị phát triển toàn tâm và tỉnh thức rất mạnh thông qua việc sử dụng đúng đắn các phương pháp để bảo trì toàn tâm và tỉnh thức. Tỉnh thức sau đó có khả năng thấy biết ngay cả hôn trầm và trạo cử rất vi tế, nên không có vấn đề gì trong việc nhận biết sự xuất hiện của hôn trầm và trạo cử. Tuy nhiên, khi quý vị không nỗ lực để ngưng hai vấn nạn trên lập tức khi chúng khởi hiện, thì sự thỏa mãn hay thất bại trong việc tự dụng công sẽ cấu thành một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng cho sự tập trung của quý vị. Bởi vì nếu quý vị tu tập theo kiểu này, tâm quý vị sẽ tạo ra các thói quen xấu và sau đó sẽ vô cùng khó để phát triển một sự tập trung không vướng vào hôn trầm và trạo cử. Do đó, để chữa trị một thất bại nhằm tự áp dụng cho mình trong việc xóa bỏ hôn trầm và trạo cử, thì hãy nuôi dưỡng sự chú tâm gọi là dụng công, hay nỗ lực.

Mục này có hai phần: (1) sự chú tâm và cách ngưng hôn trầm và trạo cử và (2) các nguyên nhân sâu xa của hôn trầm và trạo cử.

 

(1’)) Sự chú tâm và cách ngưng hôn trầm và trạo cử

Theo Vô Trước trong Vi Diệu Pháp Tập Luận[17]:

 

Chú tâm là gì? Đó là hoạt động tinh thần của việc dụng tâm ngươi, có chức năng hướng tâm ngươi đến thiện đức, bất thiện hay trung tính về đạo đức.

 

Đấy là điều mà quý vị nên hiểu. Chẳng hạn, các mạt sắt bị buộc chuyển động dưới sức hút của một nam châm. Tương tự, tiến trình tinh thần của sự chú tâm dịch chuyển và kích thích tâm quý vị hướng tới thiện đức, bất thiện hay trung tính. Nên ở đây, tiến trình đó là sự chú tâm áp lên tâm thức quý vị để loại trừ hôn trầm hay trạo cử khi một trong chúng xảy ra.

 

Vấn: Sau khi ngài đánh thức tâm mình nhằm loại trừ hôn trầm và trạo cử, làm sao ngài ngưng được hôn trầm và trạo cử?

 

Đáp: Hôn trầm tinh thần liên can đến sự thu rút vào nội tâm quá mức, dẫn đến vuột khỏi cách thức quý vị nắm bắt đối tượng thiền; vì vậy quý vị nên hướng tâm mình đến những sự việc vui thích vốn khiến cho nó mở rộng hướng ngoại. [520] Đó nên là một thứ như một hình ảnh rất đẹp của đức Phật, không nên là thứ thật vui thích vì sẽ làm khởi lên phiền não. Hay hướng tâm đến một hình ảnh của ánh sáng, như là ánh mặt trời. Khi việc làm này quét sạch hôn trầm, hãy lập tức căng chặt cách mà quý vị nắm bắt đối tượng và giữ nó trong khi thiền. Như Liên Hoa Giới giải thích trong phần đầu của Giai Trình Thiền[18]:

 

Làm thế nào? Khi ngươi bị thờ ơ và buồn ngủ đánh bại, khi hiện diện sự thiếu sáng rõ trong việc nắm bắt đối tượng thiền của ngươi và tâm ngươi trở nên lỏng lẻo, thì hãy quán chiếu lên ý tưởng về ánh sáng hay gợi vào tâm mình những sự việc vui thích nhất, như là các phẩm chất của đức Phật. Xua tan hôn trầm bằng cách này và nắm chặt đối tượng thiền.

 

Trong tình huống này, đừng thiền lên một đối tượng đánh tan tơ tưởng vì sự tỉnh ngộ làm cho tâm quý vị thu rút vào bên trong.

Khi quý vị mở rộng tâm mình bằng cách sử dụng trí huệ thấu suốt để phân tích một đối tượng mà quý vị lựa chọn thì điều này cũng ngưng được hôn trầm. Ba-la-mật-đa Tập Luận của Thánh Dũng dạy[19]:

 

Khi chểnh mảng, hãy làm cho tâm ngươi bị kích thích và được cảm hứng

Bởi công hạnh của năng lực về việc nỗ lực đạt tuệ giác.

 

Do đó, hôn trầm hay chểnh mảng là như sau. Trạng thái tâm mà hai thuật ngữ này diễn tả: gọi là “hôn trầm” vì hiện diện một sự suy giảm trong cách mà quý vị nắm bắt đối tượng thiền. Gọi là “chểnh mảng” vì hiện diện một sự thu rút nội tâm quá mức. Quý vị chống lại nó bằng việc kích thích cách mà quý vị nắm bắt đối tượng và bằng việc làm cho đối tượng thiền mở rộng ra, vậy nên để mở rộng tâm quý vị, Thanh Biện khẳng định trong Trung Đạo Tâm Luận[20]:

 

Trong trường hợp chểnh mảng, hãy mở rộng tâm mình

Qua việc thiền lên một đối tượng bao quát

 

Và:

 

Xa hơn, trong trường hợp chểnh mảng, hãy tự hứng khởi mình

Bằng việc tuân theo các lợi ích của tinh tấn.

 

Cũng thế, Tịch Thiên trong Tập Bồ-tát Học Luận (śikṣā-samuccaya)[21]: “Nếu tâm ngươi trở nên chểnh mảng, hãy tự hứng khởi cho mình bằng việc nuôi dưỡng hoan hỷ”. Các học giả lớn và những người tinh thông đều đồng ý về vấn đề này.

Vậy nên đây là cách quan trọng nhất để chữa trị dứt hôn trầm: Khi quý vị quán chiếu lên các phẩm chất tốt đẹp của những sự việc như là Tam Bảo, các lợi ích của tâm giác ngộ và tầm quan trọng to tát của việc đạt đến hỷ lạc[22], nó sẽ có một hiệu ứng làm hứng khởi tâm quý vị, giống như gáo nước lạnh tạt vào mặt người buồn ngủ. [521] Điều này phụ thuộc vào kinh nghiệm sẵn có của quý vị về thiền quán phân biệt lên các đề tài lợi ích này.

Nếu quý vị phát triển một phương thuốc trị việc tạo thành thói quen cho các nguyên do của hôn trầm – đặc biệt là chểnh mảng, buồn ngủ và điều nào dẫn tới hai thứ này mà qua đó tâm quý vị rơi vào khía cạnh u tối – thì hôn trầm là kết quả từ các nguyên do đó sẽ không nảy sinh hay, nếu đã nảy sinh, thì sẽ ngừng lại. Theo đây, Vô Trước trong Thanh Văn Địa có nói đến những hành động như là đi tản bộ; giữ một bức ảnh sáng trong tâm và tự làm thân thuộc với bức ảnh lập đi lặp lại nhiều lần; bám giữ sự hồi tưởng đến một trong sáu phạm trù: Phật, Pháp, Tăng, giới luật, bố thí và các giác thể[23]; kích khởi tâm ngươi bằng phương tiện về các đối tượng thiền gây nhiều cảm hứng khác; đọc tụng lại các giáo pháp bàn về các sai sót của thờ ơ và buồn ngủ; nhìn chăm chú vào các hướng khác nhau và nhìn lên trăng hay sao; và rửa mặt bằng nước.

Cũng thế, nếu hôn trầm rất nhẹ và chỉ xảy ra ít, thì hãy căng chặt thêm sự nắm bắt của quý vị vào đối tượng và việc thiền liên tục; nhưng nếu hôn trầm nặng và có vẻ xảy đến nhiều lần, hãy ngưng việc nuôi dưỡng sự tập trung, xóa sạch hôn trầm bằng bất kỳ phương thuốc nào kể trên và sau đó tiếp tục việc thiền của quý vị.

Dẫu cho đối tượng thiền dẫn tới việc hướng tâm quý vị vào bên trong hay bên ngoài, nếu đối tượng đó không rõ ràng và quý vị cảm nhận sự u tối – dù ít hay nhiều – làm suy giảm tâm quý vị, thì nó sẽ khó để cắt bỏ hôn trầm nếu quý vị tiếp tục thiền mà không loại trừ nó. Do đó, như là một phương thuốc cho nó, hãy thiền lập đi lặp lại lên sự trình hiện của ánh sáng. Thanh Văn Địa của Vô Trước khẳng định[24]:

 

Nuôi dưỡng định và tuệ một cách đúng đắn, với một tâm thức sáng và chiếu rọi, một tâm thức của ánh sáng thấu suốt, không u tối. Trên đường đến định và tuệ, hãy thiền lên việc cảm thụ sự chiếu sáng theo cách này. [522] Nếu ngươi làm thế, thì ngay cả khi sự chú ý của ngươi lên một đối tượng thiền bắt đầu mờ đục và sự chiếu sáng nhạt dần, thì nhân và duyên từ việc tự quen thuộc của ngươi với việc thiền cách đó sẽ làm rõ sự chú tâm của ngươi vào đối tượng thiền và dẫn đến chiếu sáng mạnh mẽ. Nếu có sự rõ ràng và chiếu sáng mạnh mẽ ngay từ ban đầu, thì sau này sự rõ ràng và chiếu sáng sẽ càng trở nên rực rỡ hơn.

 

Vì ngài dạy rằng quý vị nên nuôi dưỡng sự chiếu sáng ngay cả khi đối tượng thiền rõ ràng từ đầu, thì toàn bộ điều này càng đúng khi đối tượng đó trở nên không rõ ràng. Vô Trước còn mô tả cách để giữ biểu hiện của sự chiếu sáng trong thiền[25]:

 

Hãy lưu giữ trong thiền biểu hiện của sự chiếu sáng từ ánh sáng của một ngọn đèn dầu, ánh sáng của một đống lửa, hay từ vầng thái dương.

 

Hãy thiền lên biểu hiện của sự chiếu sáng không chỉ trong lúc nuôi dưỡng tập trung mà cả trong các dịp khác.

Trong trường hợp trạo cử, đến từ tham chấp, sự chú tâm của quý vị theo đuổi các đối tượng như là sắc tướng và âm thanh; nên để đối trị với nó, hãy đem vào tâm các sự việc làm thức tỉnh khỏi ảo tưởng khiến cho sự chú tâm của quý vị hướng vào bên trong. Ngay khi điều này làm lắng dịu trạo cử, hãy ổn định tâm quý vị lên đối tượng thiền từ trước đó. Trong phần đầu tiên của Giai Trình Thiền, Liên Hoa Giới dạy[26]:

 

Khi ngươi thấy tâm mình thỉnh thoảng trở nên náo động như là việc nhớ lại các sự kiện nhộn nhịp trước đây, chơi bời, v.v..., hãy làm bình lặng trạo cử này bằng cách đem vào tâm trí những sự việc làm thức tỉnh khỏi ảo tưởng, như là sự vô thường. Sau đó cố gắng xúc tiến lên đối tượng thiền mà không để cho tâm ngươi dính dấp vào vận động.

 

 Và Thanh Biện có dạy trong Trung Đạo Tâm Luận[27]:

 

Làm bình lặng các háo hức qua việc nghĩ suy

Đến vô thường và v.v...

 

[28]:

 

Kéo tâm người ra khỏi phân tán bằng việc lưu ý đến

Các sai sót của những đối tượng gây phân tâm

 

Cũng thế, Tịch Thiên khẳng định trong Tập Bồ-tát Học Luận[29] “Nếu trạo cử xảy đến, hãy bình lặng nó và ổn định sự chú tâm của ngươi”. [523]

Vậy nên, nếu trạo cử rất mạnh mẽ và kéo dài khởi hiện, thì quan trọng là quý vị thả lỏng thiền trong một thời gian và nuôi dưỡng ý tưởng về sự tỉnh ngộ, hơn là cố gắng kéo tâm quý vị và hướng nó về đối tượng thiền mỗi khi trở nên phân tán. Đối với trạo cử vốn không nổi trội nhiều, nên hãy hướng sự chú tâm bị phân tán lại, và cố định sự chú tâm của quý vị lên đối tượng thiền. Điều này từ khẳng định của Thánh Dũng trong Ba-la-mật-đa Tập Luận[30]:

 

Khi tâm ngươi trở nên trạo cử hãy dừng sự quấy rối này

Bằng việc bình lặng nó và ổn định sự chú tâm của ngươi

 

Và những bài luận của Vô Trước về các Địa giảng rằng đoạn kinh văn “ngươi tập trung tâm mình”, là nói đến một phương thuốc trị trạo cử.

Nói chung, nếu tâm bị trạo cử, quý vị nên tập trung lên đối tượng thiền, trong khi nếu tâm bị hôn trầm quý vị nên nghĩ đến một đối tượng đầy hỷ lạc. Thanh Văn Địa của Vô Trước viết[31]:

 

Do vậy, một khi tâm ngươi đã trở nên thu vào bên trong và ngươi thấy có sự chểnh mảng hay nguy cơ của chểnh mảng, hãy bảo dưỡng và làm hoan hỷ tâm mình bằng cách nghĩ về những sự việc gây cảm hứng bất kỳ. Đây là việc bảo dưỡng tâm ngươi. Làm thế nào để ổn định tâm ngươi? Trong khi bảo dưỡng, khi ngươi để ý thấy tâm mình bị kích động hay có nguy cơ của trạo cử, hãy thu tâm vào bên trong và ổn định trong một sự bình ổn thản nhiên.

 

Khi tâm bị trạo cử, đừng nghĩ đến các đối tượng hỷ lạc và hứng thú vì điều này sẽ gây cho tâm quý vị bị phân tán ra ngoài.

 

(2’))Các nguyên nhân tiềm tàng của hôn trầm và trạo cử

Trong Du-già Hành Địa Luận của Vô Trước dạy[32]:

 

Các dấu hiệu của hôn trầm là gì? Việc không kiềm chế được các cơ quan cảm xúc; không ăn uống điều độ; không nỗ lực tu tập mà lại ngủ trong các phiên sớm và trễ hơn của buổi tối; hiện đang thiếu tỉnh thức; hành xử lừa dối; ngủ quá; không có kỹ năng; biếng nhác về: các sở nguyện, tinh tấn, chú tâm và quán chiếu; chỉ để một phần chú ý đến định mà không tự tập thuần thục với định cũng như là tinh luyện nó; để tâm ngươi lưu lại trong u tối; và không hoan hỷ trong việc tập trung lên đối tượng thiền. [524]

 

Ở đây, “các dấu hiệu của hôn trầm” nên được hiểu như là các nguyên nhân của hôn trầm. “Biếng nhác” dụng công lên các việc tinh tấn, chú tâm và quán chiếu cũng như là các sở nguyện. Cùng một bản luận dạy rằng[33]:

 

Các dấu hiệu của trạo cử là gì? Gồm bốn điểm đầu tiên nêu trong danh mục các dấu hiệu của hôn trầm bên trên – không kiềm chế được các cơ quan cảm xúc v.v...; ứng xử tham chấp; có cung cách ồn ào; thiếu một cảm xúc về sự tỉnh ngộ; không có kỹ năng; có một ý tưởng bám chấp lớn vào sở nguyện của ngươi, v.v...; thất bại trong việc tự làm cho thuần thục sự tinh tấn; thiền trong cách thức không cân bằng thiếu tinh luyện sự lĩnh hội của ngươi về đối tượng thiền; và bị phân tán bởi nhiều loại chủ đề kích động như là các ý tưởng về các thân quyến.

 

“Các dấu hiệu của trạo cử” là các nguyên do của trạo cử. “Bám chấp lớn” là một tinh thần đặt lên một đối tượng vui sướng quá mức. “Sở nguyện, v.v...” nói đến bốn phạm trù [sở nguyện, tinh tấn, chú tâm và quán chiếu] đã được giải thích trước đây.

Do đó, bốn thực hành để kiềm chế các cơ quan cảm xúc vốn đã được bàn đến trước đây trong phần luyện tập giữa các buổi thiền[34] là điều đầu tiên quan trọng cho việc ngưng cả hôn trầm lẫn trạo cử. Hơn thế nữa, nếu quý vị nhận biết các nguyên nhân ấy và cố gắng ngừng chúng thì điều này dĩ nhiên rất lợi ích cho việc làm gián đoạn hôn trầm và trạo cử. Bởi thế, hãy sử dụng tỉnh thức để cảnh báo ngay cả hôn trầm và trạo cử vi tế. Bằng mọi cách khả dĩ, quý vị nên ngưng hôn trầm và trạo cử, không khoan nhượng chúng trong mọi hình thức. Trung Biên Phân Biệt Luận của Di-lặc dạy rằng thất bại trong việc thực hiện điều này là một sai sót của sự tập trung được gọi là “bất dụng công”. [525]

Một số người dần dà lại chịu thua, vì nghĩ rằng: “Trạo cử và phân tán nhẹ còn dai dẳng ngay cả khi tôi cắt bỏ chúng ngay từ đầu, nên tôi sẽ không cắt bỏ chúng nữa”. Hay khi hôn trầm và trạo cử không mạnh mẽ và không dai dẳng trong các chu kỳ lâu dài, họ có thể nghĩ là “Vì chúng yếu và tồn tại trong khoảnh khắc, mình không tích lũy các nghiệp chướng. Nên mình không cần phải cắt bỏ chúng”. Những ai nghĩ theo cách này và thất bại trong việc tự dụng công cho mình để loại trừ các chướng ngại đã không biết cách thức đúng đắn để thành tựu tập trung tinh thần, nhưng lại làm ra vẻ họ đạt được. Họ đánh lừa những ai khát vọng để có sự tập trung, vì tiếp cận của họ đặt họ ra ngoài truyền thống của các phương tiện nhằm đạt đến tập trung được trải ra bởi các bậc thầy như là tôn giả Di-lặc.

Ngoài ra, trong khuôn khổ của việc chống lại hôn trầm và trạo cử, từ ban đầu quý vị sẽ hầu như thường bị gián đoạn bởi trạo cử và phân tán, vậy nên hãy gắng sức loại trừ chúng. Nếu qua thực hành điều này, quý vị ngưng được trạo cử và phân tán mức thô, thì quý vị sẽ có được một chút bình ổn; vào điểm này, hãy nỗ lực để đề phòng hôn trầm. Nếu quý vị đề phòng hôn trầm với một nhận thức cao, thì trạo cử – vi tế hơn trước có thể lại làm gián đoạn sự bình ổn của quý vị. Cho nên hãy cố gắng để loại trừ điều này; nếu quý vị ngưng được nó, thì sự bình ổn sẽ tăng cường hơn. Sau đó hôn trầm sẽ lại phát khởi, vậy nên hãy cố giải trừ hôn trầm.

Tổng kết, hãy thu rút tâm quý vị khỏi tản mạn và trạo cử, giữ cố định lên đối tượng thiền một cách nội tâm và tìm kiếm bình ổn. Mỗi lần bình ổn xuất hiện, hãy đề phòng cẩn thận chống lại hôn trầm và đem lại một cường độ mạnh mẽ. Quý vị sẽ thành tựu tập trung không sai sót qua việc luân phiên giữa hai tính trạng này. Đừng trông đợi thành tựu bình ổn chỉ qua phương tiện của sự thấu suốt mà thiếu sự mạnh mẽ đi theo với một cách thức mãnh liệt của việc nắm bắt đối tượng.

 

(2)) Làm gì khi hôn trầm và trạo cử không hiện diện

Qua việc liên tục thiền sau khi đã loại trừ ngay cả hôn trầm và trạo cử vi tế, như đã giảng giải trên, tâm quý vị sẽ bước vào trạng thái cân bằng không còn bị mất thăng bằng bởi cả hôn trầm và trạo cử. [526] Tại thời điểm này, tự mình dụng công hay gắng sức sẽ là một sai sót về tập trung, vậy nên hãy nuôi dưỡng bình lặng {tịnh xả} như là một phương thuốc cho việc này. Liên Hoa Giới dạy trong phần thứ nhì Giai Trình Thiền[35]:

 

Khi hôn trầm và trạo cử không còn và ngươi thấy sự chú tâm của mình lưu lại trong bình thản trên đối tượng thiền, hãy thả lỏng nỗ lực của ngươi và giữ nguyên {trụ lại} trong bình lặng, sau đó giữ nguyên trong cách này bao lâu tùy ngươi.

 

Vấn: Làm sao lại có thể như vậy khi việc dụng công cho chính Ngài, hay việc tạo ra một nỗ lực lại trở thành một vấn đề?

 

Đáp: Qua thiền, tức là qua việc chuyển sự chú ý vào bên trong khi tâm quý vị trạo cử và kích khởi nó khi tâm quý vị bị hôn trầm, quý vị đạt được tin tưởng rằng hôn trầm và trạo cử sẽ không xảy ra trong suốt thời gian của mỗi buổi thiền thuận tiện. Vào lúc này quý vị vẫn rất cảnh giác với hôn trầm và trạo cử, như là lúc đầu. Bảo lưu việc [cảnh giác] này sẽ có vấn đề. Tâm quý vị sẽ trở nên phân tán, nên vào lúc đó quý vị phải biết thả lỏng, như khẳng định của Liên Hoa Giới trong phần thứ nhì và thứ ba Giai Trình Thiền[36] “Nếu ngươi tự nỗ lực khi tâm mình đã nhập vào thế cân bằng thì tâm ngươi sẽ bị phân tán”. Điều này kéo theo việc thả lỏng nỗ lực, nhưng đừng hy sinh sức mạnh của cách mà quý vị nắm bắt đối tượng của mình.

 

Do vậy, sự nuôi dưỡng bình lặng này không phải được thi hành mỗi khi hôn trầm và trạo cử không hiện diện mà là một khi quý vị đã giảm thiểu được áp lực của hôn trầm và trạo cử; vì nếu quý vị không làm thế, thì sẽ không có bình lặng.

 

Vấn: Đây là loại bình lặng {tịnh xả}gì?

 

Đáp: Nói chung có ba loại bình lặng[37] được thuyết giảng: (1) cảm giác vô tư lự, (2) sự dung xả là một trong tứ vô lượng tâm và (3) sự bình lặng tương ưng với sự dụng công. Đây là sự bình lặng tương ưng với dụng công. Bản chất của nó được hiểu theo đoạn văn của Vô Trước trong Thanh Văn Địa[38] [527]

 

Bình lặng là gì? Khi tâm ngươi đi theo đối tượng thiền liên hệ với định và tuệ, nó tập trung với sự bình thản an ổn, một xúc tiến tinh thần tự động, một ý tưởng của tinh thần hoàn thiện, không có nỗ lực tinh thần hoạt động sau khi trở nên khả dụng và một tinh thần cân bằng thoát khỏi các khổ đau.

 

Khi quý vị thành tựu bình lặng như thế – trong những dịp hôn trầm và trạo cử không có mặt lúc quý vị nuôi dưỡng sự tập trung – thì hãy lưu lại với sự bình lặng này và hãy đặt tâm an nghỉ mà không sử dụng nỗ lực mạnh mẽ. Các biểu hiện của loại chú tâm này được mô tả trong cùng một bản luận[39]:

 

Các biểu hiện của bình lặng là gi? Đối tượng thiền đặt trước tâm ngươi trong bình lặng; tâm ngươi không tràn ngập tinh tấn quá mức với sự chú trọng lên đối tượng thiền.

 

Thời điểm để nuôi dưỡng bình lặng cũng được đề ra trong bài luận đó[40]:

 

Khi nào là lúc cho bình lặng? Trong nội dung của định và tuệ khi tâm quý vị không còn hôn trầm và trạo cử.

 

Các giải thích bên trên về phương pháp phát triển sự tập trung không sai sót đều tương ưng với giáo pháp của tôn giả Di-lặc trong Trung Biên Phân Biệt Luận[41]:

 

Lưu lại với tinh tấn,

Tâm ngươi giờ khả dụng và ngươi thành tựu mọi mục tiêu

Đây là quả của việc xóa tan năm sai lạc

Và dựa trên tám liều trị tâm

Năm sai lạc là biếng lười,

Quên cả nhiều giáo huấn,

Hôn trầm và trạo cử

Bất dụng công và dụng công

Tám liều thuốc là cơ sở [ước mong] mà [nỗ lực] dựa vào

Nhân [tin tưởng], quả [nhu hoạt]

Không lãng quên đối tượng thiền

Nhận biết ngay hôn trầm và trạo cử

Dụng công để khử trừ chúng

Và thản nhiên bình ổn tâm khi đã chế ngự được chúng

 

Trong các câu kệ trên thì “Lưu lại với” là việc giữ gìn hiệu quả của tinh tấn cho lợi ích của việc loại trừ các duyên không thuận lợi. Với điều này, một sự tập trung mà trong đó tâm khả dụng của quý vị phát khởi. Hơn thế nữa, vì đây là nền tảng hay cơ sở của các năng lực siêu việt vốn thành tựu tất cả các mục tiêu – toàn trí và v.v... – nên quý vị đạt đến tất cả các mục tiêu.

Làm gì để phát triển sự tập trung như thế? [528] Nó phát triển như là kết quả của việc áp dụng tám liều thuốc trị nhằm xóa bỏ năm sai lạc. Các sai lạc này là: vào thời điểm chuẩn bị: {1} biếng nhác là một sai sót vì quý vị không tự dụng công vào tập trung. Khi quý vị đang tiến hành tập trung, {2} quên lửng các giáo huấn là sai sót vì quý vị quên đối tượng mà theo đó quý vị được chỉ dạy để thiền, tâm quý vị không được đặt trong cân bằng lên đối tượng thiền. Khi nó được đặt lên thiền cân bằng, thì {3} hôn trầm và trạo cử là sai sót vì chúng làm tâm quý vị bất khả dụng. Khi hôn trầm và trạo cử xảy đến, thiếu nỗ lực [{4} bất dụng công] là sai sót vì nó không chế ngự được cả hai. Khi hôn trầm và trạo cử không hiện diện, thì sai sót là sự chủ tâm {5} dụng công. Liên Hoa Giới chỉ ra trong phần thứ ba Giai Trình Thiền rằng có năm sai sót nếu hôn trầm và trạo cử được xem như một, có sáu nếu chúng được liệt kê riêng lẻ.

Trong số tám phương thuốc chữa cho những sai sót đó, có bốn phương thuốc cho sự biếng nhác – vững tin, mong mỏi, nỗ lực và tỉnh thức. Sau đến các phương thuốc trị quên lửng, hôn trầm và trạo cử, bất dụng công và dụng công một cách tương ứng là toàn tâm, tỉnh thức để nhận biết hôn trầm và trạo cử, chủ tâm để dụng công và thản nhiên xác lập bình lặng. Tôi đã giải thích chi tiết bên trên[42].

Đây là các giáo pháp tinh túy nhất để thành tựu định. Chúng được đề xuất trong cả 3 phần Giai Trình Thiền của đại sư Liên Hoa Giới cũng như trong các trình bày của nhiều học giả Ấn-độ lớn về việc thành tựu tập trung tinh thần. Chúng cũng được giải thích trong luận bàn về việc thành tựu định của Atiśa trong bản Bồ-đề Đạo Đăng Luận của chính ngài. Các thiện xảo sư trước đó về giai trình của đạo pháp cũng đã truyền đạt các ý kiến sơ lược về các điểm này, nhưng những người mong ước nuôi dưỡng thiền định chưa hiểu cách thức để tiến hành. Do đó, tôi mới trình bày ra chi tiết.

Toàn tâm và tỉnh thức xóa tan hôn trầm và trạo cử từ sự tập trung nhất tâm của quý vị là một chủ đề chung cho tất cả các giáo huấn cá nhân về pháp tu tập này. [529] Vậy nên đừng nghĩ rằng: “Đây là giáo pháp dành riêng cho các luận thừa[43], nhưng nó không cần thiết cho Mật Chú thừa”. Nó cũng dùng chung cho cả Mật Chú thừa, vì việc này cũng đã được khẳng định trong các Mật Điển Du-già Tối Thượng. Chương hai trong phần đầu của tuyệt phẩm Hợp Nghi Mật Điển[44] nói rằng:

 

Sự tập trung về việc ước nguyện, nền tảng của các khả năng siêu việt liên hệ đến sự dụng công chữa trị, dựa vào nơi trú cô liêu; dựa trên sự thoát khỏi tham chấp; và dựa trên sự diệt độ. Có sự chuyển hóa xuyên suốt bằng ý nghĩa của việc giải trừ đúng đắn. Với ước nguyện này, quý vị thiền không bị chểnh mảng quá nhiều hay phấn khích quá nhiều …

 

Nó cũng mô tả ba sự tập trung về tinh tấn, về quán chiếu và về tâm theo cùng một cách. Sự tập trung khả dụng, như đã giải thích, là cơ sở để đạt đến các phẩm chất như là các khả năng siêu việt. Do đó, vì nó như là một nền tảng, nên được gọi là nền tảng của các khả năng siêu việt. Các luận văn như là Biện Trung Biên Luận Thích của An Huệ giải thích rằng có bốn lộ trình để đạt đến điều này: (1) thành tựu nó qua nguyện ước mãnh liệt (2) thành tựu nó qua tinh tấn kéo dài, (3) thành tựu tập trung tinh thần qua việc kiểm soát phân biệt {phân tích quán chiếu} về đối tượng thiền – ba lộ trình đầu này lần lượt gọi là tập trung nguyện ước, tập trung tinh tấn và tập trung quán chiếu – và (4) thành tựu nhất tâm dựa trên sự hiện hữu trong tâm quý vị những hạt giống của sự tập trung trước đó; điều này gọi là tập trung tinh thần. “Chểnh mảng quá nhiều” là sự thả lỏng quá mức và “phấn khích quá nhiều” là sự căng chặt quá mức. Điểm chính ở đây là quý vị nên bảo lưu thiền sao cho không có hai sự quá mức này.



[1]BA114 AS, Fradhan 1950: 9.9-10, P5550: 239.5.3-4.

[2]BA115 Desana-stava, D1159: Ka 205b4-5.

[3]BA116 Mô tả về hai mươi phiền não thứ cấp, xem Hopkins 1983: 261-66 và Rabten 1988: 61-67.

 {Theo GS Hopkins, tên gọi là phiền não thứ cấp vì chúng gần gũi hay chúng là các bộ phận của phiền não gốc rễ (tức là tham, sân, si, kiêu, nghi và tà kiến). Có hai mươi phiền não thứ cấp lần lược là: (1) hiếu chiến (karodha); (2) oán hận (upanāha); (3) giấu giếm (mrakṣha); (4) ác tâm (pradāsha); (5) ghen tỵ (irṣhyā); (6) keo kiệt (mātsarya); (7) lừa đảo (māyā); (8) giả tạo (shāṭhya); (9) kiêu mạn (mada); (10) gây hại (vihiṃsā); (11) không xấu hổ (āhrīkya); (12) không biết khó chịu (anapatrāpya); (13) thờ ơ (mê mờ) (styāna); (14) trạo cử (phấn khích) (auddhatya); (15) bất tín (không có niềm tin) (āshraddhya); (16) lười biếng (kausīdya); (17) không tận tâm (pramāda); (18) quên (thiếu chánh niệm) (muṣhitasmṛtitā); (19) không tự quán kiểm (thiếu tỉnh giác) (asaṃprajanya); (20) phân tâm (vikṣhepa). Meditation ở Emptiness. P260. Jeffrey Hopkins. Wisdom. 1996}.

[4]BA117 Bk2,P5311: 33.2.1.

[5]BA118 Sn, Lamotte 1935:112; P774:17.4.7-8.

[6]BA119 AS, Pradhan 1975:9.8; P5550: 240.1.4.

[7]BA120 Abhidharmakośa-bhāṣya Shastri 1972:191; P5591:145.4.6.

[8]BA121 Bk2,P5311: 33.2.3-4.

[9]BA122 Ibid., P5311: 33.2.4-5. Bk3, Tucci 1971: 9; D3917: Ki 59a5-6.

[10]BA123 Madhyanta-vibhaga: 4.5b, D4021: Phi 43a4-5.

[11]BA124 LRCM: 506-08.

[12]BA125 BCA: 5.33a-c; P5272: 249.1.9.

[13]BA126 Madhyanta-vibhaga-tika, Yamaguchi 1934:175.9-11; P5528:128.2.4.

[14]BA127 BCA: 5.108; P5272: 250.3.6.

[15]Tên dịch nghĩa của Āryaśūra là Thánh Dũng.

[16]BA128 PS: 1.15ab; P5340:17.4.8-17.5.1.

[17]BA129 AS, Pradhan 1975:5-6; P5550: 238.3.4-5.

[18]BA130 Bkl, Tucci 1986:206; P5310: 25.3.5-6.

[19]BA131 PS: 5.13ab; P5340:16.2.1-2.

[20]BA132. Madhyamaka-hrdaya-karika, D3855: Dza 4a7.

[21]BA133. śikṣāsamuccaya, Vaidya 1961b: 112.24; D3940: Khi 114a6.

[22]BA134. Về Tam Bảo, Xem LRCM: 131-158 (Great Treatise 2000:177-207); leisure, LRCM; 77-86 (Great Treatise 2000:117-28); tinh thần của LRCM: 283-340.

[23]BA135. Về một mô tả của 6 phạm trù này xem Conze 1990: 551-53.

[24]BA136. Śbh Wayman 1978: 448 n. 100; cf. Shukla 1973: 421-22; P5537:111.3.3-6.

[25]BA137 Ibid., Wayman 1978: 448 n. 101; P5537:100.1.8 về các bàn luận xa hơn của thuật ngữ “sign” (mtshan ma, nimiHa) mà được xem là đặc tính mấu chốt của một hiện tượng bởi đó nó được bám chấp theo khái niệm, Xem Vajirañāṇa 1975: 31-34 and Conze 1990:11-12.

[26]BA138 Bkl, Tucci 1986: 206-07; P5310: 25.3.6-7.

[27]BA139 Madhyamaka-hṛdaya-kārikā D3855: Dza 4a6-7.

[28]BA140 Ibid., D3855: Dza 4a7.

[29]BA141 Śikṣāsamuccaya Vaidya 1961b: 112.24; D3940: Khi 114a6-7.

[30]BA142 PS: 5.13cd; P5340: 16.2.2.

[31]BA143 Śbh P5537: 92.5.3-6.

[32]BA144 yogā-caryā-bhūmi (Sa'i dngos gzhi), P5536: 273.2.4-7.

[33]BA145 Ibid., P5536: 273.2.7-273.3.2.

[34]BA146 LRCM: 61-69 (Great Treatise 2000:101-08) Bốn phạm trù này là để kiềm chế các cơ quan thụ cảm tác động bằng tỉnh thức, ăn uống đúng, và sau cùng là cách tu tập cần mẫn và cách hành xử đúng đắn vào lúc ngủ.

[35]BA147 Bk2, P5311: 33.2.6-7.

[36]BA148 Ibid., P5311: 34.3.3. Bk3, Tucci 1971: 11; D3917: Ki 60a2-3.

[37]BA149 Trong khuôn khổ của định thuật ngữ btangsnyoms là “sự bình lặng” nhưng trong bối cảnh của cảm xúc và tứ vô lượng tâm thì nó được dịch là “xả bỏ”. Tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả. về chi tiết bàn thảo xem Vajirañāṇa và Ñāṇamoli 1991: 288-319.

[38]BA150 Śbh , Wayman 1961:117-118; P5537:105.5.3-6.

[39]BA151 Ibid., Wayman 1961:118; P5537:105.5.6-7.

[40]BA152 Ibid., Wayman 1961:118; P5537:105.5.7.

[41]BA153 Madhyānta-vibhāga, D4021: Phi 43a3-5.

[42] BA154 Bốn sai sót đầu được giải thích trong LRCM: 489-504; toàn tâm và tỉnh thức trong LRCM: 505-512; dụng công, LRCM: 515-525; bất dụng công, LRCM: 525-529

[43]BA155 “Các luận thừa” (mtshan nyid kyi theg pa) là các Ba-la-mật-đa thừa {kinh thừa hay hiển thừa}.

[44]BA156 Saṃpuṭi–nāma-mahā-tantra D381: Ga 76b3-77al.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Mười 2015(Xem: 10014)
Trong một cơ duyên dịch giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt ma, tôi khắc ghi lời ngài rằng, nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hành mà đức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Thực ra tất cả giáo pháp, phương pháp thực hành của đức Thế Tôn đều mang pháp vị giải thoát. Đức Phật tuyên thuyết nhiều giáo pháp ứng hợp cho căn cơ của mỗi chúng sinh.
27 Tháng Tám 2015(Xem: 19968)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác
27 Tháng Năm 2015(Xem: 12922)
Cuốn sách này gồm một hợp tuyển những tác phẩm của Longchen Rabjam (1308-1363) về Dzogpa Chenpo (S. mahasandhi, Việt : Đại Toàn Thiện). Những bản dịch có một giới thiệu chi tiết căn cứ chặt chẽ trên kinh điển và những giải thích truyền thống về phương diện bí truyền sâu xa nhất của Phật giáo.
01 Tháng Hai 2015(Xem: 16762)
Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành.