Lời Tựa Của Chủ Biên Cho Bản Dịch Anh Ngữ

11 Tháng Chín 201200:00(Xem: 7196)

Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 2
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Trung)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎

Lời Tựa Của Chủ Biên Cho Bản Dịch Anh Ngữ

 

Đây là tập hai trong bản dịch gồm ba tập của Đại Luận Vể Giai Trình Đến Giác Ngộ (Byang chub lam rim che ba). Tập này là chung cuộc của một đề án do Trung Tâm Học Tập Phật Giáo Tây Tạng (TTHTPGTT) đề xuất vào năm 1992. Tập một đã được Nhà Xuất Bản Snow Lion xuất bản năm 2000 và tập ba năm 2002. Vị trí trung gian của tập này cho thấy nó là phần chính yếu của Đại Luận. Tập này bàn về tâm Bồ-đề (bodhicitta; byang chub kyi sems) và Bồ-tát hành, các bậc đại nhân mà động lực đằng sau các hành động của họ là tinh thần vị tha này.

Ban Dịch Thuật Lamrim Chenmo đã theo cùng một thủ tục và hình thức đã dùng cho tập một và tập ba, ngoại trừ việc đưa vào các ghi chú về trích dẫn những tham khảo bằng tiếng Phạn và tham khảo (được xác định bằng chữ viết tắt D) danh mục Tohoku (Ui et al. 1934) theo văn bản có chú giải bằng tiếng Tây Tạng của Tsultrim Kelsang Khangkar. Những thành viên của ban phiên dịch tham gia vào tập này gồm có Natalie M. Hauptman, Gareth Sparham, Daniel Cozort, và John Makransky. Những dịch giả này lại cũng sử dụng ấn bản Tso-ngon (mTsho-sngon) của Lam rim chen mo được Tso Ngon People's Press xuất bản tại Zi-ling vào năm 1985. Các dịch giả cũng tham khảo chú giải Bốn Chú Thích Liên Kết (Lam rim mchan bzhi sbrags ma) và luôn luôn dùng chú giải này để diễn giải các trích dẫn. Các hiệu đính viên lại có được sự trợ giúp quý báu của các học giả Phật giáo lỗi lạc đương thời người Tây Tạng Denma Lochö Rimbochay và Loling Geshe Yeshe Tapkay; các vị này đã đọc hết văn bản và thảo luận các đoạn khó. Trong suốt 12 năm của đề án, các hiệu đính viên đã biết được sự quý báu và hiếm hoi của hai quý nhân này.

Trong khi làm việc với đề án, tôi thường có ảo tưởng rằng chính tôi đã làm tất cả mọi việc. Tuy nhiên, như được đề cập trong tập sách này, sự phân biệt giữa cái ta và người khác không sắc nét như chúng ta thường suy nghĩ. Do đó, tôi muốn cảm tạ những đóng góp to lớn của những người khác, những người cũng đóng những vai trò thiết yếu như tôi trong việc đưa đề án này tới chỗ hoàn tất. Trong những lời tựa của hai tập kia tôi đã cảm tạ nhiều người, và tôi luôn ghi nhớ sự giúp đỡ không ngừng của họ với tấm lòng yêu mến sâu xa nhất. Tuy nhiên tôi sẽ thiếu sót nếu như tôi không đặc biệt cảm tạ một số người mà những đóng góp của họ đã đặc biệt lợi lạc cho tôi trong hai năm qua, thời gian cần thiết để hoàn tất tập cuối cùng này.

Tôi xin được đặc biệt bày tỏ lòng tri ân sâu xa nhất lên Đức Dalai Lama, nguồn hứng khởi bất tuyệt cho công trình này. Các hoạt động của ngài là hiện thân của những lý tưởng cao cả được mô tả trong tập sách, quả thật như thế ngài là ánh sáng hy vọng cho những ai ước muốn hòa bình trong thế giới đầy tranh chấp này. Để đáp lại sự khẩn cầu của tôi, ngài nói rằng ngài sẽ giảng dậy toàn bộ Đại Luận tại TTHTPGTT, và tôi nguyện cầu cho vinh dự to tát này sớm trở thành hiện thực. Tôi cũng không ngừng đội ơn thầy bổn sư của tôi, Geshe Ngawang Wangyal, ảnh hưởng sâu xa của người trong cuộc đời tôi đã khiến người trở thành nguồn sức mạnh yểm trợ luôn luôn hiện diện. Bao giờ cũng vậy, tôi cảm kích những nỗ lực của các dịch giả và của các học giả người Tây Tạng được nhắc tới ở trên. Đặc biệt tôi muốn nói tới hai học giả người Tây Tạng. Geshe Yeshe Tapkay đầu tiên đề nghị tôi tiến hành đề án này và sau đó đề án đã nhận được những trợ giúp quý báu và không một chút ngần ngại của ông. Denma Lochö Rimbochay đã luôn hướng dẫn và yểm trợ cho tôi. Tôi vô cùng biết ơn lòng từ ái quảng đại mà hai vị đã dành cho tôi. Trong số các dịch giả tôi đặc biệt cảm kích những nỗ lực phụ trội của Gareth Sparham, người đã hiệu đính bản thảo gốc, đưa vào tất cả các ghi chú về trích dẫn, và soạn thảo thư mục tác giả. Tôi cũng rất biết ơn Guy Newland, người đã đưa ra những gợi ý thích đáng làm sáng sủa cho bản dịch. Tôi cũng cảm tạ Gray Tuttle và Brady Whitton đã đưa ra những đề nghị hiệu đính đầy thâm ý. Tôi cũng rất biết ơn người chủ biên của Snow Lion là Susan Kyser về tất cả những nỗ lực tốt bụng trong việc làm kỹ lưỡng của cô để cho văn bản có tính nhất quán, không mắc phải những điểm trái ngược nhau. Ngoài ra tôi cũng xin cảm tạ Steven Rhodes của Snow Lion về sự trợ giúp liên quan đến thư mục tác giả, cũng như Jeff Cox và Sidney Piburn về sự ủng hộ và khuyến khích của họ.

Tôi cũng muốn bày tỏ lòng cảm kích của tôi tới toàn thể gia đình, thân hữu, học viên, và ủng hộ viên của TTHTPGTT, những người từ tấm lòng của mình đã đóng góp để cho công trình này thành hình: song thân của tôi, Eric and Nancy Cutler, tấm lòng tốt không thể đong lường đựợc của các vị là điều tôi không thể nào đền trả được; Buff và Johnnie Chace và, Ben, con trai của họ về tình bạn quý báu và yểm trợ tài chính; các bạn bè và yểm trợ viên khác của tôi – Alexander Levchuk, Martha Keys, Pierroluigi Squillante, Mukesh and Sepna Sehgal, Sharon Cohen, Frank and Raksha Weber, Chip và Susan Carlin, Harvey Aronson và Anne C. Klein, Elizabeth S. Napper, Thao và Gai Nguyen, Al Bellini, Victoria Jenks, Jim và Bonnie Onembo, Nick và Shelley Guarriello, Pence và Joanie Ziegler, David và Victoria Urubshurow, Frank và Khady Lusby, Jane Bullis, Jim Mershon, Vera Krivoshein, Sally Ward, Chot và Armen Elliott, và Louise Duhaime; một số học viên của TTHTPGTT vể sự yểm trợ của họ – Amy và John Miller, Jennifer Collins, và Thomas Santornartino; và các tiến sĩ của TTHTPGTT – Peter Beskyd, James Goodwin, Frank Viverette, Jerry Cohen, David và Ming Ming Molony, Davis Smith và Kendra Lawrence, và Robert Blease.

Tôi muốn nói đến một người mà qua sự cộng tác vào đề án này đã khiến cho tất cả mọi thứ khác có thể thực hiện được. Tính chất các trách nhiệm của tôi tại TTHTPGTT đa tạp tới mức tôi không thể nào đặt tay lên bàn phím gõ chữ được nếu tôi không có được sự hỗ trợ của vợ tôi Diana. Kể từ khi đề án khởi đầu, nhà tôi đã quên mình, càng ngày càng gánh vác thêm nhiều nhiệm vụ để TTHTPGTT hoạt động trôi chảy đồng thời giúp tôi trong đề án phiên dịch này bất cứ khi nào cần thiết. Trong suốt 12 năm thực hiện đề án, tôi khó mà có thể đi đúng những gì đã đề ra và điều này chỉ có thể thực hiện được do lòng tận tụy sâu xa của Diana đối với tầm nhìn bao la của thầy bổn sư của chúng tôi, năng lực và lòng nhiệt tình vô bờ, một khả năng bền vững để luôn đặt những quyền lợi của mình xuống hàng thứ yếu cũng như trí thông minh rất thực tiễn của nhà tôi. Cũng như đứa trẻ lớn lên nhờ vào tình thương và sự bảo bọc của người mẹ, tương tự như vậy, Diana chính là người mẹ của công trình dịch thuật này. Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn điều này.

 

Joshua W.C. Cutler

Trung Tâm Học Tập Phật Giáo Tây Tạng

Washington, New Jersey
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Mười 2015(Xem: 10006)
Trong một cơ duyên dịch giáo pháp của Đức Đạt Lai Lạt ma, tôi khắc ghi lời ngài rằng, nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hành mà đức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Thực ra tất cả giáo pháp, phương pháp thực hành của đức Thế Tôn đều mang pháp vị giải thoát. Đức Phật tuyên thuyết nhiều giáo pháp ứng hợp cho căn cơ của mỗi chúng sinh.
27 Tháng Tám 2015(Xem: 19950)
Hôm nay, 19-11-2010, tôi đã từng được yêu cầu nói về một số hiểu biết thông thường sai lạc về Phật Giáo. Và có nhiều thứ đa dạng khác nhau, với nhiều lý do khác nhau. Có một số đặc thù là văn hóa, hoặc là đối với văn hóa phương Tây, hay đối với Á châu và những nền văn hóa khác bị ảnh hưởng bởi sự suy nghĩ của phương Tây hiện đại. Có những hiểu biết sai lầm có thể đến từ những vùng văn hóa khác
27 Tháng Năm 2015(Xem: 12914)
Cuốn sách này gồm một hợp tuyển những tác phẩm của Longchen Rabjam (1308-1363) về Dzogpa Chenpo (S. mahasandhi, Việt : Đại Toàn Thiện). Những bản dịch có một giới thiệu chi tiết căn cứ chặt chẽ trên kinh điển và những giải thích truyền thống về phương diện bí truyền sâu xa nhất của Phật giáo.
01 Tháng Hai 2015(Xem: 16720)
Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành.