- Lời Nói Đầu Của Bản Dịch Việt Ngữ
- Kính Lễ & Lời Cảm Tạ
- Lời Tựa Từ Chủ Biên Của Bản Dịch Anh Ngữ
- Lời Nói Đầu Cho Bản Dịch Anh Ngữ
- Lamrim Lotsawas & Bảng Chữ Viết Tắt
- Dàn Ý Tập I
- Khai Luận
- Chương 1: Atiśa
- Chương 2: Giá Trị Cao Quý Của Phật Pháp
- Chương 3: Phương Cách Lắng Nghe Và Lý Giải Về Giáo Pháp Của Đức Phật
- Chương 4: Nương Tựa Vào Thầy
- Chương 5: Thời Thiền
- Chương 6: Bác Bỏ Quan Niệm Sai Lầm Về Thiền
- Chương 7: Một Kiếp Người An Lạc Và Thuận Duyên
- Chương 8: Ba Loại Người
- Chương 9: Chánh Niệm Về Cái Chết
- Chương 10: Quán Tưởng Về Kiếp Sống Tương Lai Của Quý Vị
- Chương 11: Quy Y Tam Bảo
- Chương 12: Giới Quy Y
- Chương 13: Các Tính Chất Tổng Quát Của Nghiệp
- Chương 14: Các Loại Nghiệp Khác Nhau
- Chương 15: Trau Dồi Giới Hạnh
- Chương 16: Thái Độ Của Người Có Ít Khả Năng
- Chương 17: Tám Loại Khổ
- Chương 18: Sáu Loại Khổ
- Chương 19: Thiền Quán Thêm Về Khổ
- Chương 20: Nguồn Gốc Của Sự Khổ
- Chương 21: Mười Hai Yếu Tố Duyên Khởi
- Chương 22: Thái Độ Của Một Người Có Khả Năng Trung Bình
- Chương 23: Nắm Chắc Bản Chất Của Con Đường Dẫn Tới Giải Thoát
- Chương 24: Tính Chất Của Tam Vô Lậu Học
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 1
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Thượng)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Chương 17: Tám Loại Khổ
2) Điều phục tâm trong các giai trình đạo của người có khả năng trung bình
a) Huấn luyện tâm trí
i) Xác định thế nào là tâm hướng tới giải thoát
ii) Phương pháp phát triển tâm hướng tới giải thoát
a’ Suy ngẫm về khổ và nguồn gốc của khổ
1’ Suy ngẫm về khổ đế - những khuyết điểm của sinh tử luân hồi
a” Cho thấy tầm quan trọng của việc Đức Phật khẳng định khổ đế là chân lý đầu tiên của Tứ Đế[1]
b” Cách thiền quán thực tế về khổ
1”Suy ngẫm về cái khổ chung của sinh tử luân hồi
(a) Suy ngẫm về tám loại khổ
(i) Khổ của việc sinh ra đời
(ii) Khổ của tuổi già
(iii) Khổ của bệnh
(iv) Khổ của chết
(v) Khổ của việc phải gặp điều bất như ý
(vi) Khổ của việc phải xa lìa điều như ý
(vii) Khổ của việc không có được những thứ mình muốn
(viii) Khổ của ngũ uẩn bị chiếm hữu
––––\––––
2) Điều phục tâm trong các giai trình đạo của người có khả năng trung bình [206]
Con xin cung kính cúi đầu trước các vị thầy tôn kính với tâm bi mẫn rộng lớn.
Hãy ghi nhớ {giữ chính niệm} tới cái chết và suy ngẫm về việc quý vị sẽ sa vào một cảnh giới khốn khổ sau khi chết. Hãy hướng tới tâm xa lìa thế gian và siêng năng mưu cầu một kiếp tái sinh hạnh phúc. Nếu quý vị nỗ lực từ bỏ tội lỗi và trau dồi đức hạnh qua việc thực hành đúng chuẩn mực về quy y và qua suy ngẫm về các nghiệp thiện và bất thiện và sự chắc chắn về kết quả của các nghiệp này, quý vị sẽ có được một kiếp tái sinh hạnh phúc. Tuy nhiên, đừng mãn nguyện với việc chỉ cần đạt được điều này mà thôi: sau khi quý vị đã phát triển thái độ của người có căn cơ nhỏ, hãy phát triển thái độ của người có khả năng trung bình – đó là, hãy ghê chán tất cả sinh tử luân hồi. Trên cơ sở này, quý vị có thể ước mong trở thành người có khả năng lớn bằng cách phát triển tâm giác ngộ tối thượng.
Do đó, quý vị phải tu tập thái độ của người có căn cơ trung bình. Tại sao? Bởi vì ngay cả khi quý vị đạt được địa vị của một vị thánh hoặc của người, quý vị sẽ sai lầm nếu quý vị tin một vị thế như vậy là có khả năng hỷ lạc do bản chất, bởi vì quý vị vẫn chưa thoát được cái khổ vì duyên sinh[2]. Cho nên, trên thực tế, quý vị không có được một hạnh phúc nào cả – đời sống của quý vị rồi cũng sẽ đi đến một kết thúc tệ hại, bởi vì chắc chắn quý vị sẽ lại rơi vào một cảnh giới khốn khổ. Kiếp sống con người hoặc kiếp sống ở cõi trời cũng giống như đang nghỉ trên con vách đứng ngay trước khi rơi xuống vực thẳm. Trong Nhập Bồ-đề Hành Luận: [3]
Sau khi đã liên tục được những kiếp tái sinh hạnh phúc,
Và được hưởng nhiều vui thú ở đó,
Ngươi sẽ chết và rơi vào đau khổ lâu dài
Và không thể chịu nổi của các cảnh giới khốn khổ.
Thư Gửi Đệ Tử[4], của ngài Nguyệt Quan:
Ngươi liên tục quay vòng trong sinh tử luân hồi,
Tuy vậy ai vào được một cảnh giới hạnh phúc, lầm tưởng tịch tĩnh đã là hạnh phúc
Chắc chắn sẽ lại bất lực lang thang
Qua hàng trăm cõi giống và không giống vậy.
Do đó, quý vị không được có một chút ảo mộng nào về các cõi hạnh phúc như là mình đã từng không còn ảo mộng về các cõi khổ đau. Như Tứ Bách Kệ Tụng {Bốn Trăm Câu Kệ} của ngài Thánh Thiên nói:[5]
Các cảnh giới cao làm người trí kinh sợ
Như là sợ địa ngục.
Khó có kiếp sống nào
Lại không làm họ kinh sợ.
Lại nữa, Bát Thiên Bảo Đức Tập Kệ {Kệ Tóm Tắt Trí Tuệ Bát Nhã Tám Ngàn Dòng} nói:[6] Những ai có tâm trí bám víu vào sinh tử luân hồi sẽ liên tục không ngừng trôi lăn ở đó.
Thư Gửi Đệ Tử:[7]
Ngươi càng nhận thấy mọi chúng sinh hạnh phúc,
Bóng tối mê lầm của ngươi càng dày đặc.
Ngươi càng nhận thấy mọi chúng sinh đau khổ,
Bóng tối mê lầm của ngươi càng giảm đi.
Ngươi càng suy nghĩ về điều vui thú,
Lửa tham luyến càng lan rộng thêm.
Ngươi càng suy nghĩ về điều khó chịu,
Lửa tham luyến càng giảm bớt đi.
Từ thời vô thủy quý vị đã bị điều kiện hóa để tin rằng các điều kỳ diệu của dòng luân hồi là các cội nguồn của hạnh phúc, và quý vị đã có thói quen phóng tưởng lên chúng một hình ảnh sai lầm coi chúng là đẹp đẽ. Nhưng nếu, như là một cách đối trị, quý vị tập thiền quán về những khổ đau và khó chịu của nó, quý vị sẽ diệt trừ được những ý niệm sai lầm này. Ngài Nguyệt Quan nói rằng nếu quý vị xao lãng thiền quán về những điều này, vô minh và tham luyến sẽ tăng trưởng, và quý vị sẽ tiếp tục cung cấp nhiên liệu cho quá trình sinh tử luân hồi. Do đó, điều tối quan trọng là phải thiền quán về những khuyết điểm của dòng luân hồi.
Những khuyết điểm của dòng luân hồi được giải thích trong ba phần sau đây:
1. Huấn luyện tâm trí (Chương 17-21)
2. Mức quyết tâm muốn được tự do (Chương 22)
3.Phá tan quan niệm sai lầm (Chương 22)
a) Huấn luyện tâm trí
Được giải thích trong hai phần:
1. Xác định thế nào là tâm hướng tới giải thoát
2. Phương pháp phát triển tâm hướng tới giải thoát
i) Xác định thế nào là tâm hướng tới giải thoát
Giải thoát có nghĩa là được tự do thoát khỏi ràng buộc, và các thứ trói buộc quý vị vào dòng luân hồi là nghiệp và phiền não. Bị chúng khống chế, các uẩn[8] được tái sinh theo cách ba tầng: về ba cõi thì các uẩn sinh ra ở dục giới, và v.v.; về loại chúng sinh, chúng được sinh ra làm năm loại [trời, người, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục] hoặc sáu loại [năm ở trên cộng với a-tu-la]; và về loại tái sinh, chúng được sinh ra bằng bốn cách – sinh từ dạ con, sinh từ trứng, sinh từ nhiệt và ẩm, và hốt nhiên sinh ra[9]. Vì đây là bản chất của sự trói buộc, sự tự do không bị nghiệp và phiền não thôi thúc phải tái sinh chính là sự giải thoát và ước muốn đạt được tự do đó chính là tâm hướng tới giải thoát. Trong từng thời điểm, hoạt động tác hợp của nghiệp và phiền não sinh lên rồi diệt, nhưng sự tiêu diệt này không phải là giải thoát. Cho dù các pháp được sinh ra sẽ không tồn tại trong một sát-na thứ hai, sự tiêu diệt này không tùy thuộc vào các duyên dẫn tới giải thoát, chẳng hạn như sự tu tập một phương cách đối trị [trí tuệ vô ngã]. Nếu đây là giải thoát thì mọi người đã được giải thoát mà chẳng cần nỗ lực gì, và đó là điều vô lý. Do đó, nếu quý vị không tu tập cách đối trị, trong tương lai quý vị sẽ lại tái sinh, bởi vì quý vị chỉ có thể chấm dứt tái sinh bằng cách tu tập biện pháp đối trị.
ii) Phương pháp phát triển tâm hướng tới giải thoát
Sự mong muốn hết khổ vì khát nước dựa trên cơ sở nhận thấy rằng quý vị không muốn bị dày vò do cái khát. Cũng vậy, ý muốn được giải thoát – tức là làm dứt cái khổ do các uẩn bị nghiệp và phiền não chiếm hữu – dựa vào việc nhận ra rằng các uẩn bị chiếm hữu là khuyết điểm đến mức như là chúng có sự đau khổ trong bản chất của chúng. Trừ khi quý vị phát khởi quyết tâm từ bỏ luân hồi qua việc thiền quán về các khuyết điểm của nó, quý vị sẽ không mưu tìm việc chấm dứt cái khổ của các uẩn bị chiếm hữu. Tứ Bách Kệ Tụng:[10]
Làm sao những người chưa hết bị mê hoặc
Với thế giới này lại hiểu được giá trị của sự an bình?
Dòng luân hồi, cũng giống như nhà ở,
Khó mà từ bỏ.
Phát triển tâm hướng tới giải thoát gồm có hai phần:
1. Suy ngẫm về khổ và nguồn gốc của khổ (Chương 17-20)
2. Suy ngẫm từ cái nhìn của mười hai nhân duyên (Chương 21)
a’ Suy ngẫm về khổ và nguồn gốc của khổ
Được giải thích bằng hai phần:
1. Suy ngẫm về khổ đế - các khuyết điểm của dòng luân hồi (Chương 17-19)
2. Suy ngẫm về quá trình sinh tử luân hồi về mặt nguồn gốc của nó (Chương 20)
1’Suy ngẫm về khổ đế - các khuyết điểm của dòng luân hồi
Suy ngẫm về khổ đế sẽ được giải thích về các phương diện:
1. Trình bày tầm quan trọng của việc Đức Phật khẳng định khổ đế là chân lý đầu tiên trong Tứ Đế
2. Cách thiền quán thực tế về khổ
a” Trình bày tầm quan trọng của việc Đức Phật khẳng định khổ đế là chân lý đầu tiên trong Tứ Đế
Thắc mắc: [209] Nguồn gốc thực là nguyên nhân và đau khổ thực là kết quả. Vậy tại sao đức Thế Tôn lại đảo ngược thứ tự này, đau khổ đi trước nguồn gốc, và nói: “Các thầy, đây là chân lý cao cả về khổ; đây là chân lý cao cả về nguồn gốc của khổ”?
Trả lời: Trong trường hợp này, đấng Đạo Sư đảo ngược chuỗi nguyên nhân và kết quả, không phải vì lầm lẫn, nhưng vì sự đảo ngược này có tầm mức rất quan trọng cho việc thực hành. Tại sao? Nếu đầu tiên các đệ tử không phát khởi được một quyết tâm đúng mức để tự giải thoát mình khỏi dòng luân hồi, họ sẽ cắt đứt ngay chính cội rễ của giải thoát. Khi đó làm sao Ngài có thể dẫn dắt họ tới giải thoát được? Như thế, từ lúc đầu, bóng tối vô minh bao trùm các đệ tử; họ lầm tưởng những điều kỳ lạ của dòng luân hồi – mà thực ra là khổ đau – là hạnh phúc. Như Tứ Bách Kệ Tụng nói:[11]
Thật dại dột! Nếu không có bất cứ một kết thúc nào
Cho biển khổ đau này,
Tại sao ngươi,
Người bị vướng mắc trong đó, lại không sợ hãi?
Khi nói “Thật ra [dòng luân hồi] này không phải là hạnh phúc nhưng là khổ đau”, đức Phật giải thích nhiều loại khổ đau, và hướng dẫn các đệ tử để họ không còn ham mê sinh tử luân hồi và nhận ra nó là khổ đau. Vì đây là điều kiện tiên quyết cần thiết nên đầu tiên Đức Phật nói về khổ đế.
Một khi quý vị nhận ra khổ đau, quý vị thấy mình bị nhận chìm trong biển khổ và nhận ra rằng nếu quý vị muốn được giải thoát khỏi khổ đau, quý vị phải kháng cự lại. Hơn nữa, quý vị nhận ra rằng quý vị không thể chấm dứt khổ đau trừ khi quý vị kháng cự lại nguyên nhân của nó. Bằng cách tìm hiểu nguyên nhân của khổ, quý vị hiểu được nguồn gốc đích thực của nó. Do đó, tiếp theo đức Phật nói chân lý về nguồn gốc của khổ {tập đế}. [210]
Kế tiếp quý vị phát triển một hiểu biết về tập đế, hiểu rằng nghiệp ô nhiễm sinh ra cái khổ của sinh tử luân hồi, rằng phiền não sinh ra nghiệp và rằng ý niệm về ngã là gốc rễ của phiền não. Khi quý vị thấy mình có thể diệt trừ ý niệm về ngã, quý vị thề nguyện sẽ thành tựu sự chấm dứt ý niệm này và đây cũng là chấm dứt khổ đau. Vì vậy, tiếp theo đó Đức Phật nói về chân lý đoạn diệt {diệt đế}.
Thắc mắc: Nếu việc giảng dạy khổ đế thúc đẩy ước muốn giải thoát, sao đức Phật lại không dạy diệt đế ngay sau khi dạy khổ đế?
Trả lời: Không có sai lầm gì cả. Tại sao? Vào lúc này, sau khi quý vị nhận ra khổ đế, quý vị ước muốn được giải thoát và nghĩ: “Phải chi ta đạt được đoạn diệt làm tiêu tan khổ đau này!” Nhưng nếu quý vị chưa xác định được nguồn gốc của khổ đau, và chưa thấy rằng mình có thể diệt trừ được nguyên nhân đó, quý vị chưa thể coi giải thoát là điều có thể đạt được và như thế sẽ không nghĩ: “Ta sẽ thành tựu được đoạn diệt”.
Bằng cách này, khi quý vị quả thật suy nghĩ. “Ta sẽ thành tựu đoạn diệt mà đoạn diệt này là giải thoát”, quý vị sẽ quan tâm đến đạo đế, thắc mắc về con đường dẫn tới đoạn diệt này. Vì lý do này, Đức Phật sau cùng mới nói tới chân lý đường đạo {đạo đế}.
Cũng bằng cách này, Tối Cao Mật Điển nói:[12]
Nhận ra mình bị bệnh; diệt trừ nguyên do của căn bệnh;
Đạt được sức khỏe; nương tựa vào cách trị bệnh.
Cũng vậy, ngươi phải nhận ra, diệt trừ, đạt được và nương tựa vào
Theo thứ tự khổ, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt của khổ, và đường đạo.
Hiểu Như vậy, Tứ Đế đã được liên tục giảng dạy trong khắp cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Bởi vì Đức Như Lai đã bao gồm trong Tứ Đế những điểm quan yếu về quá trình luân hồi và sự đoạn diệt của nó, đây là giáo lý thiết yếu để đạt tới tự do. Bởi vì những nét đại cương tóm lược để thực hành này là điều quan trọng nên phải được dạy cho đệ tử theo đúng thứ tự này. Tại sao? Trừ khi quý vị suy ngẫm về khổ đế cho tới mức quý vị ghê chán sinh tử luân hồi, nếu không thì ước muốn giải thoát của quý vị sẽ chỉ là chữ nghĩa xuông, và bất cứ điều gì quý vị làm chỉ dẫn đến nguồn gốc khổ đau thêm. Trừ khi quý vị suy ngẫm về nguồn gốc của khổ cho tới khi quý vị hiểu rõ cội rễ của sinh tử luân hồi, đó là nghiệp và phiền não, nếu không thì quý vị sẽ giống như người bắn cung không nhìn thấy mục tiêu – quý vị sẽ bỏ mất những điểm trọng yếu của đường đạo. Quý vị sẽ lầm cái không phải đường đạo dẫn tới giải thoát khỏi sinh tử luân hồi là đường đạo và chỉ làm suy kiệt sức mình mà không có kết quả. Sau cùng, nếu quý vị không hiểu sự cần thiết phải diệt trừ khổ và nguồn gốc của khổ, quý vị cũng sẽ không nhận ra giải thoát mà chính giải thoát này loại trừ khổ đau và nguồn gốc của khổ đau; [211] do đó sự quan tâm của quý vị về giải thoát sẽ chỉ là sự tự cao tự đại mà thôi.
b” Thiền quán thực tế về khổ
Thiền quán thực tế về khổ đuợc giải thích trong hai phần:
1. Suy ngẫm về cái khổ chung của sinh tử luân hồi (Chương 17-19)
2. Suy ngẫm về những cái khổ riêng (Chương 19)
1” Suy ngẫm về cái khổ chung của sinh tử luân hồi
Phần này được chia thành ba mục:
1. Suy ngẫm về tám loại khổ
2. Suy ngẫm về sáu loại khổ (Chương 18)
3. Suy ngẫm về ba loại khổ (Chương 19)
(a) Suy ngẫm về tám loại khổ
Thiền quán theo những gì được trình bày trong Bằng Hữu Thư[13] của ngài Long Thọ:
Tâu Bệ Hạ[14], hãy thôi say mê sinh tử luân hồi,
Đó là nguồn gốc của nhiều khổ đau –
Bị cướp mất những thứ ngài muốn,
Cái chết, bệnh tật, tuổi già, và v.v.
Ở đây, nuôi dưỡng một ý thức thôi say mê dòng luân hồi có nghĩa là suy ngẫm về nó, thấy đó là nguồn gốc của rất nhiều đau khổ. Tám loại khổ bao gồm bốn loại mà ngài Long Thọ nói rõ {trong bài kệ trên} – bị cướp mất những thứ mình muốn, v.v. – cũng như bốn cái khổ còn lại được hiểu bằng chữ “v.v..”.[15] Đức Thế Tôn dạy về tám cái khổ này trong nhiều kinh điển khi ngài nhận dạng Khổ đế.
Trong mỗi thời quý vị thiền quán về giáo lý chung với người có khả năng trung bình, quý vị cũng dùng những giáo lý chung mà tôi đã giải thích trong phần nói về việc thực hành thích hợp cho người có khả năng nhỏ. Về những giáo lý không dùng chung với người có khả năng nhỏ, nếu tâm quý vị mạnh, hãy bền vững thực hành chúng trong thiền quán đúng như cách ta viết ở đây; nếu tâm quý vị yếu, hãy bỏ qua phần đọc tụng kinh điển, chỉ thiền quán về ý nghĩa những điểm tôi đã phác lược ở đây.
Mặc dù đây là những thiền quán phân tích, tuy vậy đối với cảnh giới trong tâm, quý vị vẫn phải chặn đứng trạo cử, v.v...,[16] trong sự liên hệ đến đối tượng tinh thần của quý vị, thì đừng dính mắc vào các thứ khác – thiện, bất thiện, hoặc trung tính về mặt đạo đức – ngoại trừ đối tượng mà quý vị đang thiền quán. Không để cho tâm mình bị rơi vào ngủ quên, tối nặng, hoặc buông lung, hãy thiền quán liên tục trong trạng thái tâm thức trong suốt và thanh khiết. Bởi vì như Nhập Bồ-đề Hành Luận nói, thực hành thiện pháp sẽ có ít kết quả nếu tâm xao lãng:[17]
Bậc Thấy Biết Thực Tại[18] đã nói rằng
Cầu nguyện, khổ hạnh, và những thứ như thế –
Cho dù thực hành trong một thời gian lâu dài –
Cũng không ích lợi gì nếu thực hành với tâm xao lãng. [212]
Cũng vậy, Đại Thừa Dưỡng Tín Kinh (Mahāyāna-prasaḍa-prabhāvanā-sūtra) nói:[19]
Này đứa con của gia đình thiện hảo, từ những điểm liệt kê này ngươi nên biết rằng niềm tin vào Đại Thừa của những bậc Bồ-tát, và tất cả những gì sinh ra từ Đại Thừa, xuất phát từ việc thiền quán đúng đắn ý nghĩa và giáo pháp với tâm không xao lãng.
Ở đây: “tâm không phân tán” có nghĩa là tâm không lang thang tới các đối tượng không phải là đối tượng thiện hảo đang được thiền quán; “ý nghĩa và giáo pháp” chỉ ý nghĩa và từ ngữ; và “thiền quán đúng đắn” có nghĩa là phân tích và suy ngẫm với sự phân biệt. Điều này cho thấy rằng bất cứ sự thành tựu một phẩm hạnh thiện lành nào trong ba thừa cũng đều đòi hỏi cả sự chú tâm không sao lãng lẫn sự phân biệt bằng phân tích. Do đó, Đức Phật nói bất cứ sự thành tựu một phẩm hạnh thiện lành nào trong ba thừa cũng đều đòi hỏi một tình trạng tâm vừa có (1) [định], một sự định từ thiền thực sự, hoặc một tình trạng tương tự như vậy, nhất tâm trụ trên đối tượng thiện đức, không xao động ra khỏi đối tượng đó; và (2) [tuệ], một sự thấu suốt, hoặc một phẩm chất tương tự như vậy, phân tích kỹ càng một đối tượng thiền quán thiện đức và phân biệt được cả bản chất chân thật và tính đa dạng của các hiện tượng. Tương tự, Kinh Giải Thâm Mật (Saṃdhi-nirmocana-sūtra) nói:[20]
Di-lặc, ngươi nên biết rằng tất cả các phẩm hạnh thiện lành, thế gian hoặc xuất thế gian, của bậc Thanh Văn, Bồ-tát hoặc của các Đức Như Lai là do kết quả của định và tuệ.
Lý giải “định từ thiền” và “tuệ giác” ở đây là bao gồm cả định và tuệ thật sự và các tình trạng tâm tương tự như vậy. Bởi vì quý vị không chắc chắn là tất cả các phẩm hạnh thiện đức của ba thừa đều phát triển như là kết quả của định và tuệ thật sự.
(i) Khổ của việc sinh ra đời
Có năm điểm để thiền quán:
1) Sinh là khổ bởi vì nó liên quan đến đau đớn: [213] Sinh đi kèm theo nhiều cảm giác đau đớn dữ dội cho bốn loại chúng sinh sau đây: chúng sinh sinh ra ở địa ngục, ngạ quỉ lúc nào cũng đau khổ, chúng sinh sinh ra từ dạ con, và chúng sinh từ trứng sinh ra.
2) Sinh là khổ bởi vì nó liên hệ đến những khuynh hướng bất toàn:[21] tất cả các yếu tố cấu hợp {hữu vi} của ba giới, bởi vì chúng liên hệ tới các khuynh hướng bất toàn mà các khuynh hướng này khế hợp với lớp của các phiền não, nên không thích hợp [cho việc phục vụ đức hạnh] và không thể kiểm soát được. Hơn nữa, một khi quý vị sở hữu những yếu tố cấu hợp của một chúng sinh trong ba cõi, quý vị cũng bị trói buộc vào các khuynh hướng bất toàn mà các khuynh hướng này khế hợp với lớp của các phiền não. Tóm lại, vì các yếu tố cấu hợp có liên hệ tới các hạt giống mà các hạt giống này phát khởi, duy trì và làm tăng trưởng các phiền não, nên chúng không thích hợp cho việc phục vụ đức hạnh; hơn nữa, quý vị không thể kiểm soát được chúng như quý vị muốn.
3) Sinh là khổ bởi vì nguồn gốc của khổ chính là: quý vị sinh ra trong ba cõi và trên cơ sở đó, quý vị phải khổ vì già, bệnh và chết.
4) Sinh là khổ bởi vì nó là nguồn gốc của các phiền não: khi quý vị sinh ra trong dòng luân hồi, tam độc của tâm phát khởi đối với các đối tượng của tham, sân và si và kết quả là thân và tâm bị bất an và đau đớn, và quý vị không thể có hạnh phúc. Phiền não dày vò thân tâm quý vị bằng rất nhiều cách.
5) Sinh là khổ bởi vì đó là một chia lìa không ai muốn: sinh nào cũng kết thúc bằng cái chết, đó là điều không ai muốn và {điều đó} chỉ khiến cho quý vị phải chịu khổ đau mà thôi.
Do đó, ngay lúc sinh ra quý vị đã bị trói buộc vào đau đớn và phải chịu những khuynh hướng bất toàn. Sinh dẫn tới bệnh, già, v.v. cũng như dẫn tới phiền não và cái chết. Hãy cũng suy xét xem bằng cách nào những thứ này gây ra đau khổ.
Đặc biệt là những đau khổ mà quý vị phải trải qua trong bụng mẹ như được mô tả trong Đệ Tử Thư {Thư Gửi Học Trò} của ngài Nguyệt Quan[22] [214]
Sau khi ngươi nhập thai, tình trạng này giống như địa ngục,
Ngươi bị vây hãm bởi cái dơ bẩn hôi tanh
Và bị vây hãm trong bóng đen tối kịt.
Thân ngươi bị bó rọ, ngươi phải chịu khổ đau khôn cùng.
Kinh Nhập Thai giải thích nghĩa của những từ ngữ này:[23]
Dơ dáy với các khối lượng nước tiểu, những chất tựa như óc, nước bọt dày đặc, và chất tủy, thai nhi nằm ở phía trên ruột và bên dưới bao tử, trong một chỗ đầy những chất dơ dáy và là ổ chứa của không biết cơ man nào là vi khuẩn, với hai lỗ rất hôi thối và những chỗ trống và lỗ hổng trong xương. Phía trước của thai nhi hướng về xương sống và lưng hướng về thành bao tử. Nó được nuôi dưỡng hàng tháng bằng máu tử cung của mẹ nó. Những mảnh thực phẩm mà mẹ nó ăn được nghiền bằng hai hàm răng rồi nuốt xuống. Trong khi được nuốt xuống, thức ăn được thấm nước từ bên dưới bằng nước bọt và chất nước rỉ ra từ các vết mụn trong miệng, trong khi lại còn bị làm cho dơ bẩn từ phía trên bằng nước bọt đặc sệt. Những chất còn lại của thức ăn giống như đồ nôn mửa này đi vào từ bên trên qua lỗ của cuống rốn làm cho bào thai tăng trưởng. Qua các trình tự đặc lại, rung động, kéo dài và gom tròn, bào thai được hoàn toàn chuyển hóa thành thai nhi với tay và chân. Nhau bao bọc tay chân và má. Có mùi hôi giống như một miếng giẻ cũ dành để lau đờm dãi, mùi tanh hôi thật không thể chịu nổi. Phủ kín trong bóng tối dầy đặc, nó di chuyển lên xuống. Những vị đắng, chua, cay, mặn, hăng, và chát của thức ăn tác động tới nó như than nóng vậy. Giống như giun sán, nó sống bằng những chất lỏng dơ dáy; nó ở trong một đầm lầy rỉ ra chất dơ bẩn đang thối rữa. Sức sống của nó không ổn định. Sức nóng của cơ thể mẹ nó dày vò, làm nóng và làm cho nó nóng quá độ ở ba mức: ít, vừa, và cao độ. Nó phải trải qua cái đau đớn khốn khổ, cực độ, dữ dội và không thể chịu nổi. Bất cứ khi nào mẹ nó di chuyển một chút, di chuyển vừa phải hoặc di chuyển nhiều, nó cũng di chuyển như vậy, bị ức chế bằng năm thứ xiềng xích.[24] [215] Nó phải trải qua cái đau đớn khốn khổ, cực độ, dữ dội, không thể chịu nổi, và hầu như không thể nào ý niệm được, dường như là nó bị đẩy vào trong một hầm than đang cháy rực.
Tương tự, người ta nói rằng thai nhi bị tổn thương trong dạ con khi người mẹ ăn quá nhiều hoặc quá ít; ăn thực phẩm quá béo, cay, lạnh, nóng, mặn, chua, ngọt, đắng, hăng, hoặc chát; say mê tình dục quá mức; chạy quá nhiều hoặc quá nhanh; nhảy hoặc bơi lội; ngồi hoặc ngồi xổm trước lửa. Người ta cũng nói rằng thai nhi bị bao tử giam hãm và ruột giữ chặt lại, giống như là nó bị trói buộc bằng năm thứ xiềng xích hoặc bị xiên mình trên cọc nhọn.
Lại còn có thêm những đau khổ khác nữa khi đứa trẻ chui từ dạ con và được sinh ra ngoài. Đệ Tử Thư của ngài Nguyệt Quan nói:[25]
Nó bị nghiền từ từ, giống như những hột mè trong máy ép dầu.
Và rồi bằng cách này hoặc bằng cách khác nó được sinh ra.
Tuy nhiên, những ai không mất mạng tức thì
Phải an phận chịu đau đớn.
Thân thể sống và lớn lên trong dơ bẩn
Bị trây đầy chất nhờn của dạ con và có mùi tanh hôi không thể chịu nổi.
Trí nhớ bị mất đi vì bị hành hạ như vậy,
Giống như có một mụn nhọt sưng đỏ bị vỡ bật hoặc như sắp sửa nôn thốc tháo ra.
Kinh Nhập Thai giải thích nghĩa của những từ ngữ này:[26]
Vì thế, khi tất cả các chi lớn và chi nhỏ đã phát triển, thai nhi cọ quậy trong một chỗ nước tiểu, tối đen ghê gớm, ở đó rỉ ra những chất rữa nát, mùi tanh hôi không thể chịu nổi, bị ô nhiễm vì phân và nước tiểu, và liên tục nhỏ ra chất dơ dáy hôi thối, máu và các chất lỏng rữa thối. Năng lực sinh ra bằng sự chín mùi của các nghiệp khi trước khiến chân nó xoay lên và đầu quay xuống hướng về lối ra. Cả hai cánh tay bị gò lại, nó bị nghiền nhè nhẹ, nghiền vừa vừa và hoàn toàn bị nghiền nát giữa hai cái máy bằng xương. [216] Những đau đớn khốn khổ, cực độ, dữ dội và không thể chịu nổi khiến cho tất cả các chi của thân thể – đau như vết thương còn mới – biến thành màu xanh. Tất cả các cơ quan của thân thể đều nóng lên. Bởi vì chất nhờn của tử cung bây giờ đã giảm nhiều, bề mặt của thân thể khô đi, do đó môi, cổ họng, và tim bị khô nứt ra. Bị ức chế và đầy những sợ hãi không thể chịu nổi, nó trồi ra – cho dù việc này có thể khó khăn như thế nào đi chăng nữa – khi bị lôi ra vì ảnh hưởng của các nhân duyên, bằng các năng lực từ sự chín mùi của các nghiệp khi trước. Một khi ra ngoài rồi, không khí nung đốt giống như a-xít đổ lên vết thương; chỉ cần tay hoặc miếng vải chạm phải cũng cảm thấy giống như vết chém của gươm đao. Nó phải trải qua đau đớn khốn khổ, cực độ, dữ dội và không thể chịu nổi.
Người ta nói rằng khi được ẵm vào lòng và những hành động giống vậy, hoặc bị các vật nóng hay lạnh chạm phải, đứa bé mới sinh phải chịu đau đớn khốn khổ, cực độ, dữ dội và không thể chịu nổi, giống như con bò đã bị lột da đang bị giòi bọ ăn hoặc một người cùi mà các vết lở loét bị đánh bằng roi.
Trong tám loại khổ, hãy coi cái khổ đầu tiên này, cùng với cái khổ thứ tám [khổ của ngũ uẩn bị chiếm hữu], là trọng yếu nhất và thiền quán về cả hai cái khổ này. Cho nên, như được giải thích trước đây, quý vị phải luôn quán xét chúng với trí tuệ phân biện và thiền quán về chúng.
(ii) Khổ của tuổi già
Có năm điểm để suy ngẫm:
1) Thân thể đẹp đẽ bị suy hoại: lưng bị cong giống như cây cung; đầu bạc trắng giống như bông cỏ dra-wa (spra-ba); những vết nhăn phủ trên trán giống như những vết hằn trên thớt. Bằng những cách như vậy, tuổi trẻ tiêu mòn đi và quý vị không còn nét quyến rũ nữa.
2) Sức khỏe thể chất và sinh lực suy tàn: thí dụ, khi ngồi xuống, quý vị rớt xuống giống như một bao đất bị cắt khỏi dây treo; khi đứng dậy, giống như nhổ đứt rễ một thân cây; khi nói, quý vị không có mạch lạc đầu đuôi; và khi đi, quý vị loạng choạng muốn té. [217]
3) Các giác quan suy tàn: mắt quý vị không còn nhìn rõ ràng các hình dạng, v.v.; trí nhớ và các khả năng khác suy yếu vì tình trạng hay quên cực độ, và v.v.
4) Sự vui thú đối với các đối tượng giác quan cũng mờ nhạt đi: quý vị khó tiêu hóa thức ăn thức uống, và không thể vui thú với những đối tượng ưa thích nữa.
5) Sự suy tàn của sinh mệnh thật là đau đớn: khi mạng sống đi gần tới chỗ tận tuyệt, quý vị mau chóng hướng tới cái chết.
Suy nghĩ đi suy nghĩ lại về những điểm này. Như Thần Thông Du Hý Kinh nói:[27]
Khi tuổi già tiến tới và chúng ta đã vượt qua một điểm nào đó,
Chúng ta giống như cây bị sét đánh,
Héo tàn vì tuổi già giống như căn nhà khủng khiếp, hư nát.
Ôi bậc trí giả, xin hãy mau nói về một cách để thoát khỏi tuổi già.
Tuổi già làm suy yếu số đông đàn ông và đàn bà
Như trận bão làm rơi rụng những dây leo bám vào khóm cây sal.
Tuổi già cướp mất sinh lực, tài khéo và sức khỏe của chúng ta –
Như thể chúng ta bị kẹt trong bùn lầy.
Tuổi già làm thân thể quyến rũ không còn hấp dẫn.
Tuổi già cướp mất vẻ huy hoàng và sức mạnh của chúng ta.
Tuổi già cướp mất hạnh phúc và khiến cho chúng ta bị nhục nhã.
Tuổi già cướp đi sinh lực; tuổi già mang lại cái chết.
Jen-nga-wa nói: “Đau đớn của cái chết thì khủng khiếp nhưng ngắn ngủi; quá trình già lão thật khủng khiếp biết bao!” Ga-ma-pa nói: “Quá trình già lão đến từ từ cũng là điều tốt. Nếu nó tới cùng một lúc, sẽ không thể nào chịu nổi”.
(iii) Khổ của bệnh
Ở đây cũng có năm điểm [để suy ngẫm]:
1) Bệnh làm thay đổi bản tính của cơ thể: thịt teo, da khô, v.v…
2) Đau đớn và thống khổ cứ gia tăng và ít khi nào lại vắng mặt: các hành đại của cơ thể - thủy, địa, không, và hỏa – không cân bằng mà giao động hỗn loạn, khiến thể xác bị dày vò, và điều này lại làm cho tâm thần bị thống khổ. Ngày đêm quý vị sống trong tình trạng này.
3) Không còn ham muốn những thứ hấp dẫn nữa: bởi vì quý vị được bảo cho biết rằng những thứ mà mình ham muốn làm hại người bệnh, quý vị không thể tự do miệt mài với chúng được; [218] và quý vị không làm được những động tác và các thế đứng ngồi mà mình muốn.
4) Cho dù không muốn đi chăng nữa, quý vị cũng phải nương cậy vào những thứ chẳng thích thú gì: người bệnh bắt buộc phải dùng thuốc, món ăn, thức uống mùi vị khó chịu và những thứ giống vậy; và phải nương tựa vào những cách chữa trị khắc nghiệt dùng những cách như đốt bằng lửa hoặc đâm thủng bằng các dụng cụ.
5) Quý vị mất năng lực sinh tồn: thật là đau đớn khi quý vị nhận ra căn bệnh của mình đang ở giai đoạn cuối cùng.
Quán chiếu cẩn thận về những điểm này. Như Thần Thông Du Hý Kinh nói:[28]
Hàng trăm căn bệnh và đau đớn của bệnh tật lan tràn
Gây khổ cho chúng ta, giống như con người áp bức các con vật hoang dã.
Hãy để tâm đến chúng sinh bị tuổi già và bệnh tật áp đảo
Và mau chóng nói về việc thoát khỏi khổ đau.
Ở sâu giữa mùa đông, gió và bão tuyết dữ dội
Cướp mất sinh lực của cỏ, cây bụi, cây lớn, và cây thân thảo.
Cũng vậy, bệnh tật cướp mất sinh lực của chúng sinh;
Nó làm tiêu tan khả năng, diện mạo, và sức mạnh của họ.
Nó cuốn trôi sạch gia sản tiền của và thóc lúa .
Bệnh tật không ngừng làm nhục chúng sinh;
Nó làm hại chúng sinh và khinh thường cái đẹp.
Nó dầy vò họ, như mặt trời đổ nắng từ trên trời xuống.
(iv) Khổ của chết
Một lần nữa lại có năm điểm để suy ngẫm:
1) Quý vị phải xa lìa những thứ đẹp đẽ và quyến rũ.
2) Quý vị phải xa lìa những thân quyến đẹp đẽ và quyến rũ.
3) Quý vị phải xa lìa những bằng hữu đẹp đẽ và quyến rũ.
4) Quý vị bị mất một thân thể đẹp đẽ và quyến rũ.
5) Khi chết, Quý vị phải chịu đau đớn và thống khổ ghê gớm.
Luôn quán chiếu về những điều này, cho tới khi quý vị không còn ham mê nữa.
Làm sao mà bốn điểm đầu tiên trên đây lại gây đau khổ? Quý vị đau khổ khi nhìn thấy quý vị đang mất bốn điều tuyệt hảo đó. Thần Thông Du Hý Kinh:[29]
Ngươi chết và chuyển sang một đời sống khác, và như vậy
Ngươi phải vĩnh viễn xa lìa những người đẹp đẽ và thân yêu.
Như chiếc lá lìa cành, như dòng nước trên sông,
Ngươi sẽ chẳng bao giờ trở về và gặp lại họ nữa.
Cái chết khiến người quyền lực trở thành yếu đuối.
Cái chết lôi ngươi đi, như dòng sông cuốn trôi khúc gỗ.
Người ta ra đi một mình, không có ai đi theo, chẳng có bạn đồng hành –
Bất lực bởi vì nghiệp của họ sinh ra quả.
Cái chết bắt đi không biết bao nhiêu chúng sinh,
Như con quái vật biển bắt đi hàng bầy sinh vật,
Như chim ưng bắt rắn, hoặc sư tử bắt voi,
Như lửa bắt mất cỏ cây, và lúc nhúc các thú vật.
(v) Cái khổ của việc phải gặp những điều không như ý
Ở đây cũng có năm điểm để suy ngẫm:
1) Thí dụ, chỉ cần gặp kẻ thù của quý vị thôi cũng gây ra đau đớn và thống khổ.
2) Quý vị sống trong lo sợ bị kẻ thù trừng phạt.
3) Quý vị sợ kẻ thù nói lời hiểm độc, không nói lời tử tế.
4) Quý vị sợ chết.
5) Quý vị lo lắng sau khi chết quý vị sẽ đi tới chỗ khốn khổ vì đã hành động trái ngược với giáo pháp.
Hãy suy ngẫm về những điểm này.
(vi) Cái khổ của việc phải xa lìa những điều như ý
Lại cũng có năm điểm để quán chiếu. Thí dụ khi quý vị phải xa lìa một người họ hàng rất thân yêu:
1) Trong tâm quý vị, sầu khổ nổi dậy.
2) Trong lời nói, quý vị than khóc.
3) Quý vị làm hại thân thể mình.
4) Quý vị buồn bã, hồi tưởng và thương nhớ những tính chất tốt lành của điều quý vị vừa mất.
5) Không thể nào có lại được cái mà quý vị đã mất.
Hãy quán chiếu về những điểm này.
(vii) Cái khổ của việc không được điều mình muốn
Lại cũng có năm điểm, tương tự như khi phải xa lìa điều như ý. Mưu tìm nhưng không đạt được điều mình muốn có nghĩa là, thí dụ như, làm ruộng nhưng không thu hoạch được gì, hoặc làm ăn buôn bán mà không có lời. Cái đau đớn của sự thất vọng này xuất phát từ việc phải làm cật lực để có được cái quý vị khao khát, và rồi lại chẳng đạt được điều đó.
(viii) Cái khổ của năm uẩn bị chiếm hữu
Đức Phật nói: “Tóm lại, năm uẩn bị chiếm hữu là khổ”.[30] Suy ngẫm về lời dạy này lại cũng có năm điểm. Bản chất của năm uẩn bị nghiệp và phiền não chiếm hữu là:
1) chỗ chứa cái khổ tương lai;
2) chỗ chứa cái khổ dựa trên những cái đang hiện hữu;
3) chỗ chứa cái khổ do đau đớn gây ra;
4) chỗ chứa cái khổ do thay đổi gây ra;
5) chỗ chứa cái khổ do duyên sinh gây ra.
Hãy quán chiếu đi quán chiếu lại về những điểm này.
Ở đây, về điểm đầu tiên, quý vị lôi kéo cái khổ trong các đời tương lai bằng cách đón nhận những uẩn bị chiếm hữu này. Về điểm thứ hai, các uẩn bị chiếm hữu tạo cơ sở cho những tình trạng, chẳng hạn như bệnh tật và tuổi già, vốn đã nằm sẵn tại các uẩn đang hiện hữu. Điểm thứ ba và thứ bốn xảy ra vì các uẩn bị chiếm hữu được liên kết với những khuynh hướng bất toàn để hướng tới hai loại khổ này. Về điểm thứ năm, chính sự hiện hữu của các uẩn bị chiếm hữu tạo thành bản chất của cái khổ duyên sinh, bởi vì tất cả các yếu tố cấu hợp tùy thuộc vào nghiệp và phiền não khi trước đều là cái khổ duyên sinh. Điều này sẽ được giải thích cặn kẽ trong phần nói về ba cái khổ.[31]
Nếu quý vị không vun trồng một ý thức chân chính đánh tan ảo mộng về dòng luân hồi – mà bản chất là các uẩn bị chiếm hữu – quý vị sẽ không có cơ may phát triển được tâm chân chính hướng về giải thoát, và quý vị sẽ không có cách nào phát triển được tâm đại bi thương xót những chúng sinh trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Do đó, bất kể quý vị theo Đại Thừa hoặc Tiểu Thừa, suy ngẫm này có tính cách cực kỳ quan trọng. Ngay cả khi quý vị đã phát triển được ý thức dứt bỏ say mê sinh tử luân hồi, hãy theo học các kinh điển hoàn hảo và những luận giải có thẩm quyền: tìm hiểu cho đúng ý nghĩa của các kinh luận này. Sau đó dùng thiền quán phân tích phân biệt để mang lại một sự chuyển hóa mãnh liệt trong tâm quý vị.
Như thế, tôi đã theo cách trình bày có nền tảng vững chắc của tôn giả Vô Trước để giải thích mục đích giảng dạy tám loại khổ của đức Thế Tôn như là một cách để hiểu khổ đế, những khuyết điểm của sinh tử luân hồi.
Ngài Bo-da-wa nói:
Ngay khi sinh ra làm một trong sáu loại chúng sinh, chúng ta phải đối diện với cái khổ của bệnh, chết, v.v… Khi nguyên do của bệnh tật hiện diện, chúng ta bị bệnh; khi nguyên do của cái chết hiện diện, chúng ta chết. Điều này không phải là không thích đáng và cũng không phải là tình cờ xảy ra; nó là đặc tính hoặc bản chất của sinh tử luân hồi. Khi còn ở trong sinh tử luân hồi, chúng ta không có cách nào thoát được nó. Nếu chúng ta kinh tởm nó, chúng ta phải tiêu diệt quá trình sinh. [221] Để làm được điều này, chúng ta phải diệt trừ nguồn gốc của nó.
Bằng cách này, hãy suy ngẫm việc phát sinh ra cái khổ như đã được giải thích ở trên – cái khổ của sinh, già, bệnh, chết, v.v....
[1] Tứ Đế cũng gọi là Tứ Diệu Đế hoặc Tứ Thánh Đế là bốn chân lý cao cả và là giáo lý căn bản của nhà Phật. Bốn chân lý đó là khổ (khổ đế), nguồn gốc của khổ (tập đế), sự đoạn diệt của khổ (diệt đế), và con đường diệt khổ (đạo đế). Xin xem Tứ Diệu Đế (the Four Noble Truths) của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV, bản dịch tiếng Việt của Võ Quang Nhân, nhà xuất bản Tôn Giáo, 2008.
[2]BA452 Cái khổ trải khắp của duyên sinh là một trong ba cái khổ được bàn chi tiết dưới đây. Hai cái khổ kia là khổ khổ và hoại khổ. Khổ vì duyên sinh cũng gọi là hành khổ.
[3]BA453 BCA: 9.156; P5272; 260.5.8-261.1.1.
[4]BA454 Śiṣya-lekha: 18; P5683: 238.4.8-238.5.1.
[5]BA455 Cś: 7.14; P5246: 135.5.6.
[6]BA4456 Ratna-guṇa-sañcaya-gāthā, P735: 192.2.8.
[7]BA457 Śiṣya-lekha: 87-88cd; P5683: 240.4.5-7.
[8]Uẩn: (skt. skandha) Trong Phật giáo là sự tập hơp các yếu tố cấu thành một chúng sinh hữu tình. Được phân làm 5 uẩn (ngũ uẩn): (1) Sắc (skt. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (còn gọi là lục căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại (skt. mahābhūta) tạo thành, đó là đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng; (2)Thụ (skt. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính; (3) Tưởng (skt. saṃjñā), là sự nhận biết các tri giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện; (4) Hành (skt. saṅkhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác...; (5) Thức (skt. vijñāna, pi. viññāṇa), bao gồm sáu dạng tâm thức (hay thức) liên hệ tới sáu giác quan: tâm thức về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. Nếu không có thức người ta sẽ không phân biệt được màu sắc hay âm thanh v.v.
[9]Thuật ngữ tương ứng thường thấy trong các kinh Hán-Việt là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh.
[10]BA458 Cś: 8.12; P5246:136.2.8-136.1.
[11]BA459 Ibid.: 7.1; P5246;135.4.5. 1,459.
[12]BA460 RGV: 4.52; P5525: 30.3.6-7.
[13]BA461 Suhṛl-lekha: 65; P5682: 236.5.4.
[14]BA462 Đọc des để biết về nges ở LRCM, dòng 5; des pa = “tâu bệ hạ”. Suhṛl-lekha được viết cho Vua bDe-spyod, đôi khi được xác định là Gautamiputra Satkarni của triều đại Śatavahana.
[15]BA463 Bốn khổ này sẽ được nhắc tới sau. Đó là khổ của (1) sinh, (2) gặp điều bất như ý {oán tắng hội khổ}, (3) tìm kiếm mà không được điều mình muốn {cầu bất khả đắc}, (4) ngũ uẩn bị chiếm hữu {ngũ uẩn xung thịnh khổ}. {Tám loại khổ (hay bát khổ) bao gồm: (1) sinh khổ, (2) lão khổ, (3) bệnh khổ, (4) tử khổ, (5) chia ly khổ, (6) oán hận khổ, (7) cầu bất đặng khổ, (8) ngũ uẩn xung thịnh khổ hay ngũ uẩn sở hữu khổ}.
[16]BA464 Ở đây nói đến năm lỗi lầm làm chướng ngại thiền quán {Ngũ triền cái}: lười biếng, quên chủ đề thiền quán, lay động không yên và buông lung không nghiêm chỉnh, không áp dụng biện pháp đối trị, và áp dụng quá mức biện pháp đối trị.
[17]BA465 BCA: 516; P5272: 248.5.4.
[18]BA466 “Bậc Biết Thực Tại” được dịch theo bản Tạng ngữ. Tuy nhiên trong bản tiếng Phạn, từ này là sarvavit, nghĩa là “toàn trí” {toàn giác hay nhất thiết trí}. Từ này được Prajñākaramati {tên dịch nghĩa là Bát Nhã Chi Huệ} xác nhận và giải thích là sarvajna.
[19]BA467 Ārya-Mahāyāna-prasaḍa-prabhāvanā-mahāyāna-sūtra {Nghĩa là Kinh Đại thừa về việc vun trồng niềm tin nơi Đại thừa} là tựa đề trong P. Theo Namdol (1985: 205-206), Kamālāsila {Tên dịch nghĩa Liên Hoa Giới}, trong tập Bhāvanā-krama {Thiền Hành hay Giai trình Thiền} (P5310:31.5.6-7), dùng tựa đề Mahāyāna-śraddhā-bhāvana-sūtra.
[20]BA468 Ārya-saṃdhi-nirmocana-nāma-mahāyāna-sūtra {Giải Thâm Mật Đại Thừa Kinh}: 8.12; P774:17.3.3-4.
[21]BA469 “Khuynh hướng bất toàn” dịch từ cụm từ “dysfunctional tendencies” trong tiếng Anh và cụm từ tiếng Anh lại được dịch từ daustulya, gnas ngan len. Như đoạn này cho thấy, cụm từ này chỉ sự hiện diện của các hột giống, hoặc những tiềm ẩn có tính dẫn dắt, đưa tới các nghiệp phiền não, và cách thức mà theo đó những tiềm ẩn có tính dẫn dắt này làm chúng ta khó sử dụng thân tâm để tu tập đường đạo. Có thể hiểu là các tập khí nghiệp.
[22]BA470 Śiṣya-lekha: 19; P5683:238.5.1-2.
[23]BA471 Garbhāvakrānti-sūtra {Tên đầy đủ: Ārya-nanda-garbhāvakrānti-nirdeśa-nāma-mahāyānā-sūtra – dịch là: Hoan Hỷ Nhập Thai Thích Đại Thừa Kinh – Ở đây Hoan hỷ hay Khánh Hỷ là tên của một người}, P760: 110.2.6-110.3.3. Về đoạn này, Tsongkhapa dường như đã dùng một bản dịch khác.
[24]BA472 Năm xiềng xích là hai tay, hai chân, và đầu.
[25]BA473 Śiṣya-lekha: 20-21; P5683:238.5.2-4.
[26]BA474 Garbhāvakrānti-sūtra, P760: 110.2.6-110.3.3. Về đoạn này, Tsongkhapa dường như đã dùng một bản dịch khác.
[27]BA475 Lalita-vistara-sūtra, {Tên đầy đủ Ārya-lalita-vistara-nāma-mahāyānā-sūtra – dịch là Thần Thông Du Hý Đại Thừa Kinh} Vaidya 1958:13.83-85; P763:195.2.8-195.3.3.
[28]BA476 Ibid., Vaidya 1958:13.86-88; P763:195.3.3-5.
[29]BA477 Ibid., Vaidya 1958:13.89-91; P763:195.3.6-8.
[30]BA478 Nidāna-saṃyukta {dịch nghĩa: Nhân Duyên Tương Ưng}, Tripāthi 1962:194.
[31]BA479 LRCM: 227ff.