Oṃ maṇi padme hūṃ

29 Tháng Tám 201415:46(Xem: 4795)
MẬT TÔNG TÂY TẠNG
Nguyên tác TANTRA IN TIBET của Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lat-ma 14
Jeffrey Hopkins dịch sang Anh ngữ và biên tập
Thích Nhuận Châu dịch Việt ngữ
Nhà xuất bản Phương Đông 2014

Phần II
NHỮNG BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA 14
VỀ HÀNH TRÌ MẬT TÔNG
 
 
O maṇi padme hūṃ
Án ma ni bát di hồng
Bài giảng ở Trung tâm Phật giáo Kalmuck Mongolian, New Jersey, Hoa Kỳ.
 
Có nhiều lợi lạc khi trì tụng thần chú O maṇi padme hūṃ, nhưng khi hành trì, các bạn nên chiêm nghiệm thật sâu về ý nghĩa thần chú nầy, vì ý nghĩa của sáu âm tiết trên rất thâm sâu và mầu nhiệm.

Trước hết, âm Oṃ được tạo thành bởi ba mẫu tự, A, U và M. Ba mẫu tự nầy biểu tượng cho sự thanh tịnh từ thân khẩu ý của hành giả. Nó cũng biểu tượng cho thân khẩu ý thù thắng của Đức Phật.

Có thể nào thân khẩu ý nhiễm ô, bất tịnh có thể được chuyển hoá thành thân khẩu ý thanh tịnh, hoặc là hoàn toàn tách biệt nhau? Tất cả chư Phật đều đã từng là con người như chúng ta và đều nhờ tu đạo mà trở thành giác ngộ. Đạo Phật không khẳng định rằng chẳng có ai không vướng phải lỗi lầm và có được mọi đức tính tốt ngay từ vô thuỷ. Thân khẩu ý thanh tịnh có được là nhờ dần dần lìa xa các môi trường nhiễm ô bất tịnh nên chúng được chuyển hoá thành thanh tịnh.

Việc nầy được tiến hành như thế nào? Con đường tu đạo được biểu thị qua bốn âm tiết tiếp theo của câu thần chú.

Maṇi, có nghĩa là ngọc quý, biểu tượng cho yếu tố phương pháp–phát khởi tâm từ bi để hướng đến tu tập giác ngộ (altruistic intention to become enlightened). Như viên ngọc có khả năng giúp người thoát khỏi nghèo hèn, cũng vậy, tâm thiết tha hướng đến giác ngộ có năng lực giải trừ mọi khổ ách trong dòng luân hồi sinh tử và sự an nhàn riêng tư. Tương tự như vậy, như viên ngọc có thể khiến cho mọi chúng sinh thành tựu ước nguyện,  tâm thiết tha hướng đến giác ngộ sẽ giúp cho mọi chúng sinh thành tựu ước nguyện của mình.

Hai âm tiết trong chữ padme, có nghĩa là hoa sen, là biểu tượng cho trí huệ. Như hoa sen mọc lên từ bùn nhưng không bị ô nhiễm bởi bùn dơ; cũng vậy, trí huệ có năng lực đưa các bạn đến tình trạng không mâu thuẫn, trong khi đó các bạn sẽ gặp phải sự chống trái, mâu thuẫn nhau nếu các bạn không có trí huệ. Có loại trí huệ để nhận ra các pháp là vô thường, có loại trí huệ nhận ra ngã tính vốn không có tự thể, có loại trí huệ nhận ra tính không của nhị nguyên tính–có nghĩa là sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể–và có loại trí huệ nhận ra các pháp không tồn tại trên cơ sở tự tính (emptiness of inherent existence). Dù có nhiều loại trí huệ, chủ yếu nhất là trí huệ nhận thức tánh không (wisdom realizing emptiness).

Sự thanh tịnh phải được thành tựu thông qua tính bất khả phân của phương tiện và trí huệ. Điều ấy được biểu tượng qua âm tiết sau cùng hūṃ, biểu thị cho tính bất khả phân. Theo kinh luận, tính bất khả phân của phương tiện và trí huệ nầy có nghĩa là trí huệ có tác dụng đến phương tiện và phương tiện có tác dụng đến trí huệ. Trong Man-tra thừa hay Mật thừa, tính bất khả phân nầy chỉ cho Nhất tâm, trong đó hiện hữu thể viên mãn của trí huệ và phương tiện như là một thể đồng nhất. Trong ý nghĩa chủng tự (seed syllables) của Ngũ trí Như Lai (The Five Conqueror Buddhas), hūṃ  chính là chủng tự của A-súc-tỳ Như Lai[1] –Bất động Phật, có nghĩa là không bị tác động bởi các ngoại duyên.

Như vậy sáu âm tiết Oṃ maṇi padme hūṃ  có nghĩa là khi phát tâm tu đạo, nương vào thể thống nhất của trí huệ và phương tiện, các bạn có thể chuyển hoá thân khẩu ý bất tịnh của mình thành thân khẩu ý thù thắng thanh tịnh như của Đức Phật. Nên kinh nói rằng các bạn không nên tìm cầu Phật quả bên ngoài chính mình. Cốt tuỷ của sự thành tựu Phật quả là ở ngay trong mình. Như Bồ-tát Di-lặc nói trong Sublime Continuum of the Great Vehicle (Uttaratantra) rằng tất cả chúng sinh đều vốn có sẵn Phật tính ngay trong thể tính tương tục (continuum) của họ. Chúng ta có trong chính mình chủng tử thanh tịnh, thể tính Như Lai tạng (s: Tathāgatagarbha), để có thể tự chuyển hoá và thành tựu viên mãn Phật quả. 


[1] Năm vị Phật theo quan niệm của Mật giáo, trong Kim cương giới mạn-đồ-la và Thai tạng giới mạn-đồ-la. Trong cả hai đồ hình mạn-đồ-la nầy, bốn Đức Phật ngự ở bốn phương, còn Phật Đại Nhật Như Lai (Tì-lô-giá-na mahāvairocana) trụ tại trung tâm. Trong Kim cương mạn-đồ-la, có năm vị Phật là: 1. Tì-lô-giá-na ( s: mahāvairocana; 2. A-súc (s: akṣobhya); 3. Bảo Sinh (s: ratnasaṃbhava); 4. A-di-đà ( s: amitābha); 5. Bất Không Thành Tựu (s: amoghasiddhi). Trong Thai tạng giới mạn-đồ-la, còn gọi là Thai tạng giới ngũ Phật, năm vị Phật là: 1. Tì-lô-giá-na; 2. Đức Phật Bảo Tràng (s: ratnaketu); 3. Khai Phu Hoa Vương (s: saṃkusumitarāja); 4. Vô Lượng Thọ (s: amitāyus), 5. Thiên Cổ Lôi Âm ( s: divyadundubhimeganirghoṣa).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
01 Tháng Chín 2014(Xem: 6496)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành, v.v. Có những trường hợp ngoại lệ nào cho phép không tuân thủ giới luật hay không?
29 Tháng Tám 2014(Xem: 13641)
Tập sách nầy chúng tôi trích dịch từ hai tác phẩm của Đức Đạt-lại Lat-ma 14 Tenzin Gyatso. Tác phẩm thứ nhất là Tantra In Tibet, ấn bản năm 1977 của Nhà xuất bản Snow Lion, Ithaca, NewYork, USA. Bản thứ hai là Kindness, Clarity and Insight, ấn bản lần thứ 14 năm 1998, cũng của Nhà xuất bản Snow Lion, Ithaca, NewYork, USA.
23 Tháng Bảy 2014(Xem: 11660)
Trong tập sách nhỏ này, Thrangu Rinpoche trình trình bày một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng tánh không trong truyền thống Phật giáo Tây tạng, cả về giáo lý lẫn tu tập. Có thể nói đây là một kết hợp chặc chẽ của giáo lý và tu tập trong Phật giáo Tây tạng, đặc biệt là trong dòng truyền Karma Kagyu. Lý thuyết và thực hành hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự quân bình trong lý thuyết và thực hành của Phật giáo Tây tạng.