8. Phép điểm đạo

29 Tháng Tám 201415:42(Xem: 5350)
MẬT TÔNG TÂY TẠNG
Nguyên tác TANTRA IN TIBET của Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lat-ma 14
Jeffrey Hopkins dịch sang Anh ngữ và biên tập
Thích Nhuận Châu dịch Việt ngữ
Nhà xuất bản Phương Đông 2014

Phần I.
CỐT TUỶ CỦA MẬT TÔNG
Tenzin Gyatso, Đạt-lại Lat-ma 14
Jeffrey Hopkins dịch sang Anh ngữ và biên tập
Phụ tá biên tập: Lati Rinpochay và Barbara Frye


8. Phép điểm đạo
 
Một Mạn-đà-la (maṇḍala) được xem là rất mầu nhiệm vì thiền quán về nó được xem như là một pháp giải độc, nhanh chóng tiêu trừ phiền não chướng và sở tri chướng cũng như những tập khí vi tế. Điều nầy rất khó đối với những người căn cơ thấp vì khó thâm nhập những biểu tượng của Mạn-đà-la.

Có sự khác nhau giữa sự thể nhập vào một Mạn-đà-la và thọ pháp điểm đạo. Để thể nhập vào Mạn-đà-la, chỉ cần có niềm tin; không cần phải phát tâm nguyện cầu Vô thượng bồ-đề. Cũng vậy, hành giả có thể thể nhập vào Mạn-đà-la và thọ pháp điểm đạo mà không cần thiết phải hoàn toàn phát tâm nguyện cầu Vô thượng bồ-đề, nhưng hành giả tu tập hai giai vị của Vô thượng Du-già Tantra thì nhất thiết phải cần phát tâm nguyện Vô thượng bồ-đề.

Trong quá khứ, thể nhập vào Mạn-đà-la và lễ truyền pháp điểm đạo được thể hiện rất công phu, riêng biệt từng lễ một. Nhưng ở Tây Tạng ngày nay có khuynh hướng truyền thụ cho mọi người. Kim cang thủ (Vajrapani) đề ra một hệ thống hoàn chỉnh với mọi tầng bực khác nhau–cho những người chỉ thể nhập vào Mạn-đà-la, cho những ai có thể thọnhận nước và mũ quán đảnh. Khi việc truyền pháp nầy được thực hiện một cách có hệ thống, vị Lạt-ma, trước khi truyền pháp điểm đạo, sẽ phân tích cho môn đệ để họ phát tâm tu tập ba môn học vô lậu [giới luật, thiền định, trí huệ] và hành trì những điều đã phát nguyện. Đức Lạt-ma cũng cho phép những ai chưa được thụ pháp điểm đạo nhưng có đầy đủ niềm tin được thể nhập vào Mạn-đà-la. Những cấm chế có tính hệ thống nầy, khi được tuân theo sẽ đem đến những kết quả và thiết thực cho pháp điểm đạo, đến ngày nay thường ít được dùng.

Có câu chuyện về Druk-pa kun-lek khi ngài viếng thăm một ngôi làng mà Đức Lạt-ma đến truyền pháp điểm đạo. Khi vị Lạt-ma nầy đi ngang qua, mọi người quanh đó đều đứng dậy đảnh lễ ngài, nhưng Druk-pa kun-lek thì không. Vị Lạt-ma ân cần hỏi Druk-pa kun-lek: ‘Khi tôi đi qua, mọi người đều thể hiện lòng tôn kính. Có điều gì mà ông lại thể hiện phong thái này?’ Druk-pa kun-lek trả lời bằng câu hỏi: “Ngài đã có thường truyền pháp điểm đạo không? Ngài có làm cho nhiều người đánh mất niềm tin và bản nguyện của họ không? Ngài có mở ra con đường đến địa ngục cho nhiều người không?”

Nếu bạn có thể chiêm nghiệm về ý nghĩa của sinh tử luân hồi nói chung và trong kiếp người nói riêng, thì rất hợp lý để rèn luyện tâm ý bằng những pháp tu tập nầy, vốn đó là tiến trình để đạt được sự an tĩnh và thoát khỏi sân hận. Ngược lại, nếu quá nhiều nhấn mạnh được đặt vào nỗi khổ trong địa ngục và cái chết không thể tránh khỏi, thì sẽ có cơ duyên sẽ rơi vào sự đông cứng sợ hãi. Có một câu chuyện ở Tây Tạng về một vị trú trì thường đi giảng pháp. Một Phật tử hỏi vị thị giả rằng thầy trú trì đi đâu, vị thị giả trả lời rằng, ‘Ngài đi doạ những ông già bà lão.’ Nếu các bạn hoàn thành giá trị của kiếp sống con người bằng sự phát nguyện tu tập, thì chẳng có gì phải bận tâm đến cái chết.

Ban đầu, các bạn nên quy y Tam bảo từ tận đáy lòng mình, rồi phát nguyện giải thoát cho chính mình, rồi sau đó phát tâm hướng đến giác ngộ. Rồi sau đó khi các bạn đạt đến mức có thể thích hợp để nghe trì tụng thần chú, bạn sẽ nhận được lời dạy của ngài Mã Minh[1] trong Bồ-tát thập nhị nguyện văn (Ashvaghosha’s Twenty Stanzas) và Sự sư pháp ngũ thập tụng (Fifty Stanzas on the Guru (Gurupañcāśika).  Lúc ấy, các bạn sẽ được truyền pháp điểm đạo.


[1] Mã Minh 馬 鳴; S: aśvaghoṣa; là nhà thơ và luận sư Đại thừa người Ấn Độ, sống giữa thế kỉ 1 và 2, được xem là một trong những Luận sư quan trọng nhất của Phật giáo. Tác phẩm quan trọng nhất của ngài Mã Minh là bộ Hi khúc Xá-lị tử, Phật sở hành tán, bộ Tôn-già-lợi Nan-đà, và bộ Đại thừa khởi tín luận. Đầu tiên, ngài Mã Minh theo đạo Bà-la-môn và được một vị tăng tên là Bà-lật-thấp-bà (s: Pārśva) đưa vào đạo Phật. Các tác phẩm của ngài đọc rất dễ hiểu và có nhiều ẩn dụ. Thí dụ như chuyện Tôn-già-lợi Nan-đà, đó là chuyện về chàng trai tuấn tú Nan-đà, người tuy đã xuất gia theo Phật rồi nhưng vẫn còn thương yêu người vợ. Sau nhiều lần nghe Đức Phật giảng dạy, chàng mới hết nghiệp yêu thương và sống viễn li.

Các tác phẩm được liệt kê dưới tên ngài Mã Minh: 1. Đại thừa khởi tín luận (mahāyānaśraddhotpāda-śāstra); 2. Phật sở hành tán (buddhacarita-kāvya); 3. Đại tông địa huyền văn bản luận (mahāyānabhūmiguhyavācāmūla-śāstra); 4. Đại trang nghiêm kinh luận (mahālaṅkāra-sūtra-śāstra); 5. Ni-kiền tử vấn vô ngã nghĩa kinh; 6. Thập bất thiện nghiệp đạo kinh (daśaduṣṭakarmamārga-sūtra); 7. Sự sư pháp ngũ thập tụng; 8. Lục đạo luân hồi kinh; 9. Hi khúc Xá-lị tử (śāriputraprakaraṇa); 10. Tôn-già-lợi Nan-đà (saudarananda-kāvya).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Sáu 2016(Xem: 5067)
Ba loại giới hạnh giống như thanh kiếm của một chiến sĩ. Nó chặt đứt xiềng xích của những cảm xúc tối ám. Bạn nên có sự hồi tưởng, đúng đắn, tỉnh giác, và suy xét. Đây là lời khuyên tâm huyết của tôi.
13 Tháng Sáu 2016(Xem: 4232)
Kyabje Kangyur Rinpoche, Longchen Yeshe Dorje, sinh tại miền Đông Tây Tạng năm Thổ Cẩu (1898), và bắt đầu nghiên cứu Phật pháp và thực hành từ thời thơ ấu. Vị Thầy gốc của ngài là Jedrung Rinpoche, Trinle Jampa Jungne, của tu viện Riwoche, lừng danh về cách tiếp cận bất bộ phái, cũng như những buổi lễ và lễ hội hàng năm trong đó ba học viện chính của nó, thuộc các truyền thống Nyingma, Sarma và Taklung Kagyü dra-tsang, thường thực hành cùng nhau. Ngài được coi là một hiện thân của Namkhai Nyingpo, một trong hai mươi lăm đệ tử thân thiết nhất của Guru Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), và những giáo lý ngài đã thọ nhân trong đời trước thì bây giờ, khi còn nhỏ tuổi, ngài bắt đầu tái khám phá như những kho tàng (terma).
14 Tháng Tư 2016(Xem: 5168)
Pho tượng tuyệt đẹp của Tertön (gter ston) Orgyen Kusum Lingpa tại Lung Ngön Gön (rlung ngon dgon pa), Bhutan. Orgyen Kusum Lingpa là một vị terton (Khai Mật tạng) và hộ trì dòng truyền thừa trong Phật giáo Tây Tạng. Tên ngài có nghĩa là “Vị Hộ trì Điện thờ Tam thân của Đức Oddiyana Liên Hoa Sanh.”
29 Tháng Ba 2016(Xem: 4598)
Một đệ tử đã thỉnh cầu Lama Zopa Rinpoche ban lời chỉ dạy sau khi bản thân phải phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú và thân thể đang rất đau đớn khi xạ trị. Người đệ tử thân thương, trân quý, bi mẫn và ngọc như ý của thầy, Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
07 Tháng Ba 2016(Xem: 7117)
Loài người chúng ta rất thích tổ chức các buổi lễ mừng: Tết nhất, tiệc cưới, kỷ niệm ngày cưới, ngày của Mẹ, ngày của Bố, ngày Valentine và nhiều dịp lễ khác. Nếu quán chiếu kỹ, ta sẽ thấy hầu hết những lễ ăn mừng này gây hại cho những chúng sinh quanh mình. Số lượng loài vật bị giết hại để phục vụ cho những buổi lễ này là không tưởng nổi. Nếu những chúng sinh tội nghiệp này có khả năng giao tiếp như con người, tôi khẳng định rằng chúng sẽ van xin ta không tổ chức ăn mừng, bởi niềm vui và hạnh phúc của chúng ta trực tiếp gây nên khổ đau tột cùng cho chúng. Bên cạnh đó, ta cũng biết rằng trong những ngày lễ hội, các tỉ lệ tai nạn, bạo lực, tội phạm và các bất thiện hạnh đều tăng vọt do việc tiêu thụ rượu quá đà và do những hành xử không kiểm soát.
08 Tháng Giêng 2016(Xem: 5838)
Việc thị tịch của Chatral Sangye Rinpoche đánh dấu sự chấm dứt của một kỷ nguyên. Bỗng nhiên chúng ta mất đi một lính gác nhiệt tâm canh giữ Phật pháp nói chung, Kim cương thừa nói riêng, và đặc biệt là Phật giáo Tây Tạng và dòng truyền thừa Nyingma