Chương Ii - Hướng Cao Tăng Học Tập Thiền Tâm

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13585)

BƯỚC VÀO THIỀN CẢNH
Tác Giả-HIROSACHIYA - Dịch Giả-Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998

CHƯƠNG II
HƯỚNG CAO TĂNG HỌC TẬP THIỀN TÂM

SINH HOẠT TRÍ HUỆ THẲNG THẮN LỖI LẠC
 ĐỨC THÍCH TÔN 

 Đức Thích Tôn (Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn) là tổ sư của Phật giáo, từ đây, xin bắt đầu từ ngài để luận cập 

 Tuy bảo là từ đức Thích Tôn trở về sau, nhưng nếu chỉ tuỳ tiện bàn về cuộc đời của đức Thích Tôn, thì lại có lỗi với độc giả. Tôn chỉ chủ yếu của quyển sách này là muốn đưa quý vi bước vào “Cảnh địa thiền”. Mặc dù thiền sở nghiễm nhiên có thể là đại danh từ của Phật giáo, nhưng chắc chắn phải có điểm vô cùng đặc sắc hướng dẫn mọi người lần lượt thể nhập vào diệu cảnh, nếu không thấy ngay điểm này, mà chỉ nói về thuở bình sanh của đức Thích Tôn, thì đó là sự sơ suất của bút giả. 

 Mặc dù nói thế, nhưng trong việc ghi chép nếu có bất cứ sự kiện nào có liên quan đến cuộc đời của đức Thích Tôn, cũng điều có những lời lẽ có thể làm kim chỉ nam để Phật giáo thành một nhất thể. Đồng thời, bởi vì kinh điển nguyên thuỷ của Phật giáo (A Hàm Kinh) (1) đã ghi chép về những bài thuyết pháp đối với đệ tử của ngài, vì thế việc hướng dẫn quý vị lý giải giáo nghĩa Phật giáo cũng là một trợ ích rất lớn. Như thế, bút giả đã không thờ ơ đối với quý vị. 

 Mặc dù đọc qua đoạn trên có lẽ có gì rất nghiêm túc, thật sự, nội dung đã chẳng có gì hứng thú. Tôi cũng muốn ở ngay nơi khởi đầu bắt chước các thiền sư “thét” một tiếng lớn trước, để triển hiện nhiều phương diệu dụng của tâm thiền ngộ, nhằm dễ tạo cho độc giả thêm phần hứng khởi, và dần dần sẽ đưa tới thoại đề sâu hơn. Trong đầu tuy sắp xếp bài bản đại cương như thế, thực tế đã không tiến hành theo ý nghĩ. Mong rằng quý vị độc giả chịu khó nhẫn nại: 

 “Này các Tỳ Kheo (2): Phàm phu quả văn (ít nghe) có cảm thụ chân tình, đệ tử hữu văn cũng có cảm thụ chân tình, thế thì đệ tử hữu văn và phàm phu có học đã khác nhau điểm nào?” 

 Đức Thích Tôn khi bắt đầu thuyết pháp, thường có vấn đề được khơi mào trước để mở đầu. Đoạn mào đầu này đương nhiên liên quan đến chủ đề thuyết pháp hôm ấy. Thường là lúc ấy có những đệ tử tác bạch rằng: 

 “Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng con đều là người tính phụng những lời đã dạy của đức Thế Tôn (Thích Tôn), cúi xin đức Thế Tôn từ bi dạy dỗ chúng con!” 

 Quan lời thỉnh cầu này, đức Thích Tôn bắt đầu thuyết pháp. Đây là phương thức thường được sự dụng để dạy Phật tử của Phật giáo nguyên thuỷ. 

 Nói đến thánh đệ tử hữu văn và phàm phu quả văn, thì cái gọi là “văn”, là lắng nghe giáo pháp, là ý nói học tập. Giữa những đệ tử học Phật và phàm phu không học Phật đã có điểm nào sai biệt? cả hai đều có tác dụng cảm thụ, có đúng thế không? Đức Thích Tôn đã đưa ra vấn đề như thế. 

 Tác dụng cảm thụ nếu lấy dụng ngữ Phật giáo để bàn luận thì bảo đó là “Thọ”. Ví như vào một buổi sáng tuyết phủ khắp nơi, khi chúng ta vừa chợt mở mắt đã thấy chung quanh là một thế giới phủ đầy màu bạc trắng, trên không trời lại trong xanh, vì không dằn được xúc cảm, chúng ta bật miệng la lớn: “A! đẹp quá!” cảm quan như thế chính là “THỌ”. 

 Đương nhiên, “Thọ” không chỉ là một khoái cảm không thôi, ngược lại nó còn bao gồm cả thứ cảm giác khó chịu giống như bị một người nào dẫm phải chân mình trên xe bus. Ngoài ra, còn có một loại cảm ứng không khổ không sướng. Trong ngôn ngữ Phật giáo, khoái cảm gọi là “lạc thọ”, cảm giác không vui gọi là “khổ thọ”, cảm giác không nhớ gọi là “không khổ không sướng thọ hay “xả thọ”. Ba loại thọ này dù bất cứ người đệ tử nào của Phật dạy hay phàm phu cũng đều có cùng cảm thọ như nhau. Nói thế, cuối cùng đệ tử Phật và người phàm tục đã khác nhau điểm nào? 

 Đức Thích Tôn đã giáo thị như sau: 

 Này các Tỳ Kheo! Ví như lấy tên đâm người, đâm một mũi rồi đâm tiếp mũi thứ hai. Này các tỳ kheo! người như vậy có cảm thọ hai mũi tên. Giống như thế, phàm phu chưa tu tập giáo pháp, ngay khi cảm nhận khổ thọ khó chịu nếu không ưu sầu, não nộ hoặc bi thương thì cũng đấm ngực dậm chân, rên rỉ khóc lóc. Loại phàm phu này có cùng một thức cảm thọ đồng thời, tức là vừa đau khổ trên nhục thể vừa đau khổ trên tinh thần. 

 Này các tỳ kheo! Ví như lấy tên đâm người, sau khi đâm mũi tên đầu rồi đâm tiếp mũi thứ hai. Này các tỳ kheo! Người bị như vậy cảm thọ chỉ một mũi tên. Giống hệt như thế, những thánh đệ tử đã tu tập giáo pháp, từ cảm thọ tới cảm thọ khó chịu, nhưng chẳng ưu sầu, khổ não và bi thương, cũng không đập ngực dậm chân, rên rỉ khóc lóc. Những thánh đệ tử chỉ có một loại cảm thọ, tức là chỉ có đau khổ trên nhục thể, mà không có đau khổ trên tinh thần... 

 “Tương ứng bộ kinh điển” 36.6 (Tiễn) (3) 

 Đức Thích Tôn lấy việc tên đâm để ví dụ tác dụng cảm thọ chớp nhoáng của chúng ta. Trong mỗi sát na chớp nhoáng, những đau khổ, tốt đẹp, chê ghét, vui thích, lạnh, nóng, đẹp, xấu mà chúng ta đã cảm thọ v.v. giống như cảm thọ giác bị đâm trúng một mũi tên. 

 Những cảm thọ này, dù là người đã khai ngộ hay người chưa khai ngộ cũng đều giống hệt như nhau. Nhưng phàm phu sở dĩ là phàm phu, chủ yếu vấn đề sau khi trúng tên. Thông thường, bị trúng mũi tên thứ nhứt, kế tiếp lại trúng mũi tên thứ hai. Ví như, khi bị dẫm trúng chân trên xe buýt: “Đau quá!” sau khi ý niệm này chợt thoáng qua trong óc, tiếp đến lại nổi lên ý niệm thứ hai: “Đồ khốn nạn! mày muốn chết à!” chẳng khác nào mống khởi tâm tính giận ghét đối với đối phương. Hoặc giả khi đi trên đường, trông thấy bên lề có đoá hoa đẹp, thì trong lòng phát sinh suy tính: Sau khi thốt lên “Chà! đẹp quá!”, thì sau đó đưa tay hái đoá hoa ấy mang về để cắm trong bình. Đây tức là mũi tên thứ hai mà phàm phu nhận lấy. Nhưng đối với Phật tử đã khai ngộ thì khác. Trông thấy cảnh vật đẹp, chỉ cảm thấy là đẹp để thưởng thức; lúc đau, chỉ la lên bởi trực giác: “Đau qua!” Vì khác nhau như thế, nên giữa thánh đệ tử và phàm phu có sự cách biệt rất xa. 

 Quý vị độc giả còn nhớ mẫu chuyện “Cô mộc hàn nham” ở đoạn đầu? Tôi từng đề cập câu nói mà ta cho rằng không đúng của Thanh tăng. Quý vị có lẽ lúc đầu đã không hiểu được ý của tôi, nhưng nay đã tỏ tường tại sao đối với lời nói ấy tôi lại cảm thấy không đúng. 

 Bởi vì đối với ông ta cả đến “mũi tên thứ nhất” cũng đều bị phủ định. Trông thấy gái đẹp thì trực giác cảm thấy: “Đẹp quá!”, đây là mũi tên thứ nhất. Mũi tên này không luận là phàm phu hay thánh đệ tử đều có cùng cảm thọ. 

 Mặc dù như thế, nhưng ngay cả cái cảm thọ lẽ ra nên có nầy đã bị ông cố ý phủ định. Có lẽ vì ông cho rằng, là người xuất gia, cho nên thậm chí mũi tên thứ nhất cũng không thể cảm thọ! Đây thực là lối kiến giải hoàn toàn sai lầm. Đức Thích Tôn chưa từng dạy bảo như thế. Trông thấy mỹ nữ cảm thấy “đẹp” là lẽ tự nhiên. Chỉ cần không nhận thêm mũi tên thứ hai. 

 Dù bảo như thế, nhưng làm thế nào để khỏi cảm thọ mũi tên thứ hai? Đó là trọng điểm. Khi gái đẹp gọi: “Lại đây! Ôm lấy tôi”, lúc ấy nên ôm hay không? Mũi tên thứ nhất dứt từ lúc nào và khi nào mới có thể bắt đầu tính là mũi tên thứ hai? 

 Có một mẫu chuyện như sau: 

 Một vị thiền sư nọ dẫn theo một số đồ đệ đi vân du. Một hôm, đoàn người gặp một cô gái ở bờ sông. Cô này muốn qua bên kia sông nhưng ngặt không có ai giúp cho, nên đành buồn bã ngồi đó chịu đựng. Khi đoàn người của thiền sư vừa đi đến, cô liền thỉnh cầu giúp đỡ. 

 “Ô! được! được!” 

 Thiền sư không chút do dự, thản nhiên ẵm cô gái lội qua sông. 

 “Thật là một sư phụ sảng khoái, nhanh nhẹn!” Cô gái thốt lời dịu ngọt tâng bốc trêu ghẹo thiền sư. Sau khi qua sông cô cảm ơn rồi từ biệt, đoàn thiền giả lại tiếp tục cuộc hành trình. 

 Một lúc sau, có một vị đệ tử trong đoàn không nhịn được, cuối cùng mở miệng: “Bạch thầy! Vừa rồi thầy làm như vậy có đúng không? Chúng con xưa nay vốn rất tôn trọng thầy, nhưng vừa rồi trông thấy hành động và lời nói của thầy, thật là khiến chúng con vô cùng thấy vọng”. Những đệ tử khác hùa theo, tỏ ra thái độ bất mãn, kích động hỏi gằn thiền sư “Thái độ vừa rồi của Thầy thật khác xa những điều dạy dỗ thường ngày...” Không trách được sự bắt lỗi của họ. Nguyên là từ khi qua sông đến giờ, họ mãi canh cánh sự việc này trong lòng cho nên tức nước vỡ bờ, thế là hằng loạt kiểu trách móc áo ra đến độ không nghe kịp. 

 Thiền sư nghe đám đệ tử chỉ trích như thế, chỉ bật cười. 

 “A! Ha ha!...Cái gì? Các con mãi đến bây giờ vẫn còn ôm ẵm người con gái ấy!. Ta thì đã đặt cô gái ấy xuống từ lâu rồi”. Thì ra là thế, chấp trước và không thể buông bỏ chính là nhóm đệ tử kia. Loại chấp trước này, có thể ví như mũi tên thứ hai. Đối với thiền sư, ông không cảm thọ mũi tên thứ nhì. 

 Đức Thích Tôn đã chỉ rõ, điểm sai biệt giữa người khai ngộ và phàm phu chính là mũi tên thứ hai này. Vì chúng ta chỉ là phàm phu, cho nên không thể tránh khỏi cảm thọ mũi tên thứ hai. Dù chúng ta có muốn hấp tấp tránh nó thì củng không thể thực hiện được. Chấp trước những việc mà sức mình không thể kham được thì đó chính là người ngu xuẩn nhất. Khi nhận thức được những sự việc mà chúng ta không đủ năng lực để thực hiện nhưng không chấp trước nó, đó mới đích thật là giáo nghĩa của Phật giáo. Tuy nhiên, ít ra chúng ta cũng thể phân biệt được điểm sai biệt mũi tên thứ hai, bằng tự giác: 

 “À! hiện tại mình đang cảm thọ mũi tên thứ hai....” 

 Có thể nhận thức như vậy, là đã nắm vững vấn đề. Lây ngày công phu thâm cao, nên trong khi sinh hoạt nếu có gặp bất cứ vấn đề gì, tất nhiên đều có thể giải quyết một cách tức khắc. Hoặc nói cách khác, ngày nào nhận chân ra mình, thì vấn đề sẽ không nghiêm trọng như mình tưởng tượng. Bởi vì vấn đề sở dĩ phát sinh, phần lớn là do không thể tri nhận bản tâm của mình một cách rõ ràng chân xác. 

Chú (1): “A Hàm Kinh” là danh xưng của kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ. Trong ấy bao gồm các kinh “A Hàm Kinh”, “Pháp Cú Kinh”, “Kinh Tập”.v.v... 
Chú (2): Phát chỉ thế độ (cạo đầu) xuất gia, là đàn ông chịu đủ giới. Đàn bà thì gọi là tỳ kheo ni 
Chú (3): Xem quyển thứ 15 “Nam Truyền Đại Tạng Kinh” (Trang 322 – 325)

KHÔNG PHẢI GIÓ ĐỘNG CŨNG KHÔNG PHẢI
PHƯỚN ĐỘNG MÀ CHÍNH LÀ TÂM
CỦA NHƠN GIẢ ĐANG ĐỘNG

 LỤC TỔ HUỆ NĂNG 

 Đời Đường có một vị thiền tăng vĩ đại, đó là Lục Tổ Huệ Năng đại sư (Tây nguyên 638-713) “Cao Tăng truyện” ghi chép rằng ngài mất cha, nhà nghèo, và vì phụng dưỡng mẹ già nên phải bán củi để duy trì sự sống. Đối với đoạn truyền ký này, tôi cảm thấy hoài nghi về tính chân thật của nó. Có lẽ người đời sau vì muốn cường độ sự so sánh giữa Lục Tổ Huệ Năng đại sư và đối thủ của Ngài là Thần Tú (Đại Thông Thần Tú thiền sư), mà cố ý miêu tả ngài là người nghèo khổ lại mù chữ để nhấn mạnh tánh chất bình phàm và thảo căn của Ngài! 

 Tạm thời xin miễn luận việc chân giả, để chúng ta tiếp tục suy xét về sự nghiệp bán củi để duy trì sinh sống của Lục Tổ Huệ Năng 

 Một hôm nọ, trong lúc vô tình Huệ Năng đã nghe một vị khách đến từ Huỳnh Mai Am niệm tụng “Kim Cang Kinh” (1) mà khai ngộ. Cũng do chính người khách cho biết là Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đại sư đang ở Huỳnh Mai Sơn, thế là ngài phát tâm cầu pháp và liền bái biệt mẹ già để dấn thân đi đến Huỳnh Mai Sơn. 

 Trên sự thật, sự tu hành của Huệ Năng tại Huỳnh Mai sơn mà người tu hành chúng ta thường biết đến, những tương truyền ấy đã không giống nhau, chỉ biết là mỗi ngày ngài phải đạp cối đá không ngừng ở phòng giã gạo, thế thôi. Đấy là khóa tu hành thường nhật của Tổ Huệ Năng. 

 Chợt đến một ngày. 
 Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn muốn chọn người để kế thừa trong số các đệ tử, nên đã ra lệnh cho những đệ tử mỗi người cần đem cảnh địa mà mình đã liễu ngộ viết thành một bài kệ để biểu đạt. Đương thời trong đám đệ tử của ngài, ưu tú nhất là Thần Tú thiền sư. Thiền sư Thần Tú làm và dâng lên Ngũ Tổ một bài kệ như sau: 

 Thân thị Bồ Đề thọ 
 Tâm như Minh Kính dài 
 Thời thời cần phất thức 
 Vật sử nhá trần ai 

 Tạm dịch: 
 Thân là cây Bồ Đề 
 Tâm như đài gương sáng 
 Luôn cần mẫn lau chùi 
 Đừng để cho bụi bám 

 Đại ý là: Chúng ta vốn có sẵn tâm thức thanh tịnh, giống như tấm gương sáng nhưng đang bị che phủ bởi bụi bặm phiền não, vì thế để khôi phục sự chiếu sáng của nó, cần phải lau chùi liên tục bụi bặm đang phủ bám bên trên. 

 Đối lại, Huệ Năng cũng củng làm một bài kệ: 

 Bồ Đề bổn vô thọ 
 Minh Kính diệc phi đài: 
 Bản lai vô nhứt vật 
 Hà xứ nhá trần ai? 

 Tạm dịch: 
 Trí giác vốn không cây 
 Gương sáng cũng không đài 
 Xưa nay không một vật 
 Chỗ nào bụi nhuốm đây? 

 So sánh hai bài kệ này, quả thật Thần Tú là một vị Thiền sư cố gắng không ngừng để đoạn trù phiền não mà siêng năng cần mẫn, còn Huệ Năng thì giác ngộ đến tận đầu nguồn đạo lý phiền não vốn là không thật. Bởi vì tự tánh tốn thanh tịnh, căn bản đã không có cái gọi là phiền não. Đã không phiền não, thì cần gì phải khổ cực bận tâm đoạn trừ phiền não? Sự phát biểu của Huệ Năng đích thật là một lời nói đã mở toang (đập vỡ) sự chấp trước của thường nhân đối với phiền não. 

 Đúng thế, sau khi so sánh hai bài kệ, rõ ràng cảnh giới của Huệ Năng thật cao siêu mầu nhiệm. Nếu xét trên mặt hiện tượng, có thể dùng đao chặt đứt phiền não thành hai đoạn quả thật đó là một vấn đề tương đối khá lợi hại. Người thường vì thế mà đã cho rằng chỉ có thiền tài của Huệ Năng mới là nguồn thiền chân chính, nhưng thực ra, nếu nhận xét như vật thì đã không chính xác. Bởi lẽ, nếu muốn đạt đến cảnh giới mà Huệ Năng đã có, mà không trải qua gia đoạn mà Thần Tú đã đề cập là một điều bất khả. Điểm này tuyệt đối chúng ta không thể thờ ơ. 

 Đúng vậy, nếu đứng trên lập trường khai ngộ để khẳng định thì căn bản đã không có phiền não để nói, nhưng, muốn đạt đến cảnh giới như thế thì đó không phải là một việc dễ dàng. Hãy lấy thí dụ về kinh nghiệm cai thuốc lá của tôi: 

 Đã từng bao phen thử cai thuốc, nhưng cuối cùng vì không cách nào khắc chế được mình nên tôi đã tuyên bố thất bại. Rồi có một lần, tôi quyết định thử thả lỏng tâm tình để theo dõi việc cai thuốc, nên đã cố ý mang thuốc lá đặt trong túi áo. Trải qua thời gian không lâu, phương pháp của tôi quả nhiên có hiệu nghiệm, kết quả tôi không phí sức chút nào mà đã cai được thuốc. 

 Sau khi cai thuốc thành công, tôi mới hiểu rõ rằng phàm sự việc khi bắt đầu không cần thiết phải khổ cực và khẩn trương quá độ như thế, nhưng, những lời nói này chỉ có thể nói được sau khi đã thành công. Đối với một số người đã cố gắng không ngừng để cai thuốc, quá trình kỷ luật chắc chắn là cả một tích luỹ của vô số đau khổ, và trước khi cai thuốc thành công, dầu sao thì vẫn phải trải qua cái khảo nghiệm đau khổ ấy. Vì thế, để giác ngộ thấu triệt cái đạo lý phiền não vốn không của Huệ Năng đại sư cố nhiên đó là việc trọng yếu, nhưng trước khi giác ngộ một cách thấu triệt, thì cái giá đau khổ phải trả trong một giai đoạn vẫn là một sự cần thiết. 

 Điều đó có nghĩa là, chúng ta cần trải qua giai đoạn tu hành “Thời thời cần thiết phất thức, vất sử nhá trần ai”, mới có thể liễu ngộ cảnh giới “Bản lai vô nhứt vật, hà xứ nhá trần ai”. Tình hình này giống như đạo lý trông thấy một con chim nước với thần thái tự tại đang bơi trên mặt nước, trong khi đôi chân của nó ở dưới nước quạt đi quạt lại không ngừng. Vì thế nếu một mực cố chấp lấy bài kệ ngữ của Huệ Năng đại sư để lý giả sai lầm về thiền, rằng là, không cần thiết phải trải qua bất cứ sự tu hành nào, như thế là rơi vào cạm bẫy nguy hiểm mà tự mình không hay. Đây là điểm cần lưu ý khi bình phẩm và tán dương bài kệ kiến tánh của Huệ Năng đại sư. 

 Lục Tổ Huệ Năng đại sư còn có một truyền thuyết khác, miêu tả rằng sau khi thừa kế y bát của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, Huệ Năng đại sư đã vì sự tu hành sau khi ngộ đạo mà đời chân đến Nam Hải. 

 Bấy giờ tại Pháp Tánh Tự Quảng Châu có vị Ấn Tôn thiền sư đang giảng về “Kinh Niết Bàn”, thế là Huệ Năng đại sư quyết định ở lại mấy ngày tại Pháp Tánh tự để nghe Thiền sư giảng kinh. 

 Hôm ấy, vì thiền sư giảng kinh nên trước chùa dựng rợp cờ phướn. 

 Ấn Tôn thiền sư nổi tiếng khắp nơi, do đó đã rất đông người từ mọi miền ào ạt tìm đến. Trong ấy có hai vị hoà thượng, trông thấy cờ phướn phất phới trước cửa chùa nên liền bắt đầu nghị luận. Một trong hai vị phát biểu: 

 “Phướn động”. 
 Người kia cãi lại: 
 “Không phải, gió động”. 

 Kết quả hai người đã tranh luận không ngừng, dẫn đến tình trạng rất đông người dừng bước đứng xem. 

 Lúc ấy Huệ Năng đại sư cũng đến để xem, nghe xong ngài liền lên tiếng: “Không phải phướn động, cũng không phải gió động, mà chính là tâm hai vị đang động”. 

 Hai người đang tranh luận, nghe Huệ Năng đại sư phê chỉnh, tức thời hoát nhiên diạ ngộ. Khi nghe việc này, Ấn Tôn pháp sư tức khắc hiểu rằng những lời nói của Lục Tổ Huệ Năng đại sư, chính là trung tâm tư tưởng của “Kinh Niết Bàn” mà mình đang khai giảng, thế là ngài lập tức cung thỉnh đại sư thăng đàn thuyết pháp và đảnh lễ tôn Lục Tổ làm thầy. 

 Đây chính là trường cảnh khiến người vô cùng cảm động. Thật vậy, phàm phu chúng ta vì cứ chấp trước hiện tượng ngoại giới mà thờ ơ đối với nội tâm của mình. Phần lớn vấn đề sanh ra lại chính là được xuất phát từ trong nội tâm của chúng ta. 

 Ví như, không biết quý vị có kinh nghiệm giống như sau đây hay không? 

 Một hôm, có người được cấp trên khen thưởng nên vui mừng ra mặt. Nhưng sau đó không lâu, không rõ vì nguyên nhân nào, mỗi lần gặp cấp trên là ông ta biểu lộ nét mặt chán ghét giống như kẻ thù k hông đội trời chung. Cũng chỉ một người, nhưng vì tác dụng của chính nội tâm chúng ta nên hiện ra diện mạo khác nhau.. Vì thế, những đối tượng mà chúng ta thấy, kỳ thực đều là vọng tưởng được phát sanh từ trong nội tâm của chúng ta, căn bản đã không có bất cứ một thực thể nào tồn tại cả. 

 Có lần tại Sát Nhữ Nạp Đức (2) Ấn Độ, tôi đã gặp phải một việc thế này: 
 Có một thiếu niên Ấn Độ chiêu dụ khách du lịch để bán vật phẩm, chận một du khách người Mỹ là một bà lão khoảng 60 tuổi, thiếu niên áo quần lam lũ này nhanh tay móc túi ra một vật phẩm và nháng qua mắt bà. 

 “20 đô la”, thiếu niên kêu giá. 

 Bà Mỹ trông thấy vật phẩm, cặp mắt bỗng sáng trưng, vội vàng mở xách tay móc tờ 20 đô trao cho anh ta và chộp ngay vật trên tay thiếu niên nhanh nhẹn dúi vào ví xách của mình> Chiếu theo tình cảnh này, thì rõ là người đàn bà dường như đã rất ưa thích vật phẩm đó, đại khái bà đã cho rằng mình mua đúng bảo vật! 

 Kết quả bà đã mua được vật gì mà khiến tôi cảm thấy hết sức hiếu kỳ như thế? Theo chỗ tôi biết, tại Ấn Độ du khách không thể mua được bảo vật gì cả. Một trăm phần trăm là bà ấy đã bị lừa. Tôi nhủ thầm: “Lại một người nữa bị gạt, thân đáng thương hại” 

 Sau khi bà ta đi khỏi, tôi gọi người thiếu niên Ấn Độ lại và dùng vài tiếng Ấn Độ đơn giản bảo hắn: “Khoan đi, hãy cho tôi xem cái vật mà chú vừa bán cho bà nọ!” 

 Thiếu niên lấy từ trong túi ra một pho tượng Phật cao độ 5,6 tấc, được cố ý trạm trổ lồi lõm, thoạt nhìn qua cứ tưởng đó là di vật cổ xua được đào lên từ dưới lòng đất. Bởi lẽ Sát Nhữ Nạp Đúc là một vùng đất đai của những di tích cổ xưa, có rất nhiều di sản văn hoá vô giá. Người đàn bà Mỹ chắc chắn đã cho rằng tượng Phật do thiếu niên bán là một cổ vật, nên mới vội vàng mua và thủ ngay vào xách tay của mình. 

 Kỳ thực, tượng Phật đó chỉ là loại thủ công phẩm dùng đất nhào nắn tái tạo lại. 

 “Pho tượng Phật này dại khái chỉ đáng 30 đồng Ấn” 

 “Hừ!” 

 30 đồng Ấn Độ trị giá bằng 3 đồng tiền Đài Loan, nhưng trên thực tế có thể không tới 3 đồng. Cuối cùng, tôi mua của thiếu niên nọ hai pho tượng với giá 7 đồng tiền Đài Loan. 

 “Hưu khô ly a! (Dhanyavad: Cảm ơn)” Gã thiếu niên vô cùng mừng rỡ, dù hai pho tượng chỉ bán được 7 đồng Đài Loan, nhưng đối với họ đã là có lời. Tôi nghĩ có lẽ trong nhà của thiếu niên này dám có đến trên 100 pho tượng như thế! 

 Tôi manghai pho tượng trở lại lên xe bus của đoàn du lịch. Vì với danh nghĩa cố vấn của đoàn hành hương Ấn Độ, nên mọi người trong đoàn đều gọi tôi là “Thầy” 

 “Thưa thầy! tôi cũng định mua loại tượng Phật này, không hiểu thầy mua bao nhiêu?” 

 “Hai pho tượng chỉ 1 đồng Ấn?” 

 “Cái gì, chỉ có 1 đồng Ấn?” 

 Người hỏi đột nhiên sắc diện tái xanh, ông thú nhận là đã mua một tượng giống hệt tôi đã mua đến 200 đồng tiền Ấn. 

 “Bậy rồi!”, tôi nghĩ, tưởng chỉ có bà Mỹ bị gạt 20 Mỹ kim, nào ngờ ông bạn đồng hành cũng bị mua lầm. Nếu biết như thế thì tôi đã không nói thật giá. 

 Ngẫm nghĩ cho cùng, bà Mỹ vẫn hạnh phúc hơn vì có lẽ mãi cho đến giờ này bà vẫn tin rằng tượng Phật ấy là một di vật cổ xưa! Và vì gặp vận hên nên chỉ tốn 20 đô la mà đã mua được, có thể bà còn cảm ơn ân tứ của Thưọng đế! 

 Thương hại nhất là người nghe giá tôi mua. Ban đầu ông ta chắc rằng với cái giá trên 1000 đồng Đài Loan mà mua được báu vật vô cùng trân quý thế này đã là rẻ chán. Không ngờ chỉ trong khoảnh khắc, ông phát giác rằng bảo vật chỉ là loại thủ công nghệ phẩm làm bằng thứ đất sét thô thiển! Chỉ e sau này mỗi khi trông thấy bất cứ tượng Phật nào cũng sẽ khiến ông dấy lên cảm giác khó chịu. 
 
Nhưng, tượng Phật vẫn là Phật tượng, tự nó vốn không có gì thay đổi. Thuỷ chung cũng đều là một pho tượng. Có thay đổi chăng thì đó chính là cái tâm của ta. Tuỳ theo sự thay đổi của tâm tình mà Phật tượng giống nhau đó bị tặng cho những ý nghĩa khác nhau. 

 Sau này tôi đã mang một pho tượng làm lễ vật để tặng bạn tôi, tuy không nói ra trị giá, nhưng bạn tôi rất mừng và bày tỏ là ông đã mãi ao ước một pho tượng như thế và nay vì do phúc duyên nào đó mà ông có thể có được một tượng Phật có pháp tướng tôn nghiêm từ bi thánh thiện như thế. 
 
Thật vậy, Phật tượng ấy đã có một khuôn mặt từ bi vô cùng khả kính và tôi cũng đã tôn trí pho tượng còn lại để thờ phụng trên một hương án. 

Chú (1): Toàn danh là “Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh” lược gọi là “Kim Cang Kinh” Toàn kinh thuật rõ đạo lý của “Không” và “Vô Ngã”, là một trong những kinh điển đại biểu cho Đại Thừa Phật Giáo. 
Chú (2): Tức “Lộc đã uyển” đã nói trong kinh Phật. Đức Thích Tôn đã chuyển pháp luân ở đây và đã trở thành một trong những thánh địa của Phật giáo.

HÀNH ĐỘNG NGU MUỘI CỦA VIỆC
MÀI GẠCH LÀM KÍNH
(MA CHUYÊN TÁC KÍNH)
 MÃ TỔ ĐẠO NHẤT 


Trong số đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng đại sư có hai vị thiền sư ưu tú, đó là Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư. Thanh Nguyên thiền thiền sư có đệ tử là Thạch Đầu Hy Thuyên, còn Nam Nhạc thiền sư thì có Mã Tổ Đạo Nhất. Thạch Hầu Hy Thuyên thiền sư đã truyền bá thiền pháp ở Hồ Nam một cách rực rỡ, còn Mã Tổ Đạo Nhất thiền sư thì hoằng dương ở vùng Giang Tây. Có thể nói, Thiền Tôn của Trung Quốc đã do bốn vị thiền sư là Nam Nhạc, Mã Tổ, Thanh Nguyên và Thạch Đầu mà Thiền tôn đã rực sáng một cách dị thường. 
 
Mẫu chuyện dưới đây là mẫu chuyện có liên quan đến Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) khi ngài còn tu hành dưới môn hạ của Nam Nhạc Hoài Nhượng. 
 
Trong truyền thuyết, Mã Tổ thiền sư là người có vóc hình khôi vũ “Ngó như hổ, đi như trâu, lưỡi thè khỏi mũi, chân đạp thành chữ”. Khi ngài còn là môn hạ của Hoài Nhượng hằng ngày đều rất tinh cần và thường ngồi xếp bằng tham thiền nhập định. Mãi đến một hôm, Hoài Nhượng thiền sư hỏi Mã Tổ: 

 “Ngươi làm gì đó?” 
 “Ngồi thiền mà!” 
 “Tại sao phải ngồi thiền?” 
 “Vì muốn thành Phật”. 
 
Hoài Nhượng thiền sư nghe câu trả lời của Mã Tổ, liền ngồi xuống bên cạnh Mã Tổ, tiếp đó ngài nhặt những thớt gạch chất kế bên chân chẳng nói chẳng năng gì, cứ cắm cúi mài gạch trên đá. 
 
Trông thấy cử chỉ quái gở của sư phụ, Mã Tổ giật mình hỏi: 

 “Sư phụ! Ngài làm gì thế?” 
 “Mài gạch”. 
 “Tại sao mài gạch?” 
 “Vì muốn mài gạch thành gương soi”. 
 “Nhưng bạch sư phụ! gạch có mài thế nào cũng không thể thành kiếng gương được!” 
 “Ồ, vậy sao? Nếu ngươi hiểu rõ đạo lý này, tại sao ngươi còn muốn ngồi thiền để thành Phật? Tọa thiền cũng không thể thành Phật đâu!” 
 Mã Tổ nhất thời đã không lời đáp lại. 
 
Một lát sau, Mã Tổ lại thỉnh giáo với Hoài Nhương thiền sư: 
 “Đệ tử phải làm thế nào?” 
 “Một người đang khiển xe bò, xe bò bất động, theo ngươi nên dùng roi đánh xe, hay dùng roi đánh bò?” 
 
Mã Tổ hoát nhiên tức khắc đại ngộ. Nguyên là mình cú mãi làm công việc lấy roi đánh xe, một hành vi xuẩn ngốc. Cũng nhờ cơ duyên này mà sau đó Mã Tổ đã kế thừa y bát của Hoài Nhượng. 
 
Đoạn đối đáp này đối với chúng ta có phần nan giải. Đại khái thì dụng ý mài gạch của Hoài Nhượng là để kho8i dậy cái đạo lý ngồi thiền vô dụng của Mã Tổ? Bề ngoài thì bảo rằng ngồi thiền là vô dụng, nhưng thực tế có đúng như thế không? 
 
Biểu đạt của Hoài Nhượng kỳ thực chỉ muốn sửa đổi lại kiến giải sai lầm “Ngồi thiền tức có khai ngộ thành Phật” của Mã Tổ. Thật vậy, vì mọi người đều có Phật tánh, nên có thể nhờ vào phương thức ngồi thiền mà kiến tánh thành Phật. Nhưng, nếu cừ bảo thủ rằng ngồi thền thì sẽ có thể thành Phật, thành Tổ, thì phải chăng đó chính là một loại chấp trước? Như thế, không những ngồi thiền dã không thể giải thoát mà trái lại còn bị phương pháp tọa thiền ràng buộc. Hoài Nhượng thiền sư đã giảng dạy quan niệm quan trọng này cho Mã Tổ. 
 
Ví như những người làm việc ở Nhật Bổn, công tác luôn luôn được đạt lên hàng đầu. Nhất là những người đảm nhiệm chức vụ trung cấp trở lên, ngày đêm thường phải cắm cúi trong công tác mà không tự biết. Tuy nhiên chính nhờ sự nhiệt tình công tác này đã biến đổi cục diện Nhật Bản trở nên một quốc gia siêu cường về kinh tế, nhưng, cũng vì thế mà bị các nhân sĩ Âu Mỹ phê bình là “Động vật kinh tế”. 
 
Đối với “Động vật kinh tế” của người Nhật, thì rõ ràng lời của Hoài Nhượng thiền sư đã gọi họ quay về “Nhân tính”. Công tác cố nhiên rất trọng yếu, nhưng không thể vì đó mà biến thành nô lệ của công tác. Theo ví dụ của Hoài Nhượng thiền sư, thì chẳng khác nào người khiển xe bò đã không đánh bò mà cứ đánh xe, quả thật đây chính là một việc làm điên đảo. 
 
Nhưng, phải chăng khi bị phê bình là một “Động vật kinh tế” thì lại bỏ bê toàn bộ trách nhiệm công tác? Cũng thế, tọa thiền để mong thành gương soi, nói thế phải chăng cho rằng tọa thiền là điều hoàn toàn không có ý nghĩa? Nếu nghe lời của Nam Nhạc thiền sư mà giải thích như thế thì bị rơi vào tình trạng đổi thay quá quắt. 
 
Điểm khó của thiền là chỗ này. 
 
Chấp trước vào việc tọa thiền không thành Phật đã đành, nhưng nếu không tọa thiền thì cũng không thể thành Phật. Phàm mọi sự đều nên hành trì theo lý Trung đạo. Đối với thiền biết một mà giải nữa là việc hết sức nguy hiểm. 
 
Trong điển tịch thiền học, đã có hai đoạn liên quan đến sự vấn đáp của Mã Tổ thiền sư, đó là nhắm vào câu hỏi “Thế nào là Phật” để khai triển. Do ở nội dung trả lời khác nhau, nên khi nghe qua có thể khiến cho người nghe thu thập ít nhiều. 
 
Một tăng nhân hỏi Mã Tổ: 
 
“Thế nào mới gọi được là Phật?” 
 
Mã Tổ trả lời: 
 
“Tức tâm tức Phật”. 
 
“Tức tâm tức Phật”, có nghĩa “Tâm tức là Phật, Phật tức là tâm”. Nhưng khi một tăng nhân khác cũng khỏi cùng một vấn đề, Mã Tổ lại trả lời: 
 
“Phi tâm phi Phật”. 
 
“Phi tâm phi Phật”, tức là phủ định câu “Tức tâm tức Phật” như đã dìễn thuật ở trên. Sự thật, tâm tức là Phật, có lẽ vì muốn tránh sự thiên chấp ở tâm quá đáng, có nghĩa là đạo lý của Phật mà bị tâm sở sai khiến nên biến thành một vật nô lệ của tâm, cho nên Mã Tổ thiền sư mới trả lời như thế? 
 
Tôi xin lấy bản thân tôi làm thí dụ: Tôi thường bị đứa con của tôi chất vấn: 
 
“Có lúc ba nói chuyện quá mâu thuẩn!” 
 
“Ồ! Mâu thuẩn thế nào?” 
 
“Mấy ngày trước ba nói với con, gát bài lại cũng không quan hệ gì, ba bảo đừng nên quá chú ý đến bài vở của nhà trường. Nhưng tại sao vừa rồi ba lại bảo con phải ngoan ngoãn cố công đọc sách?” 
 
Con tôi mới học lớp 6, mà đã mạnh dạn kháng nghị với tôi. Tôi đáp: 
 
“Không có chổ nào mâu thuẩn cả!” 
 
“Nhưng rõ ràng là ba đã nói không dụng công cũng chẳng sao mà!” 
 
“Đúng, ba có nói như vậy”. 
 
“Thế thì tại sao đêm nay ba lại nói khác? Bao bảo hãy ngoan ngơãn dụng công đọc sách”. 
 
“Ba thấy chưa, điều đó không phải mâu thuẫn sao?” 
 
“Không! chẳng mâu thuẫn. Có lẽ nghe qua con cảm thấy mâu thuẫn, nhưng đứng trên lập trường của ba, một chút cũng không có điểm nào mâu thuẫn”. 
 
Thực ra, tiểu học sinh làm gì biết được đạo lý này? Nghĩ đến đây, bên tai tôi dường như có lời nói của Mã Tổ đang văng vẳng: 

Tức tâm tức Phật— 
 Phi tâm phi Phật--- 
 Không mâu thuẫn tí nào

ĐÓI THÌ ĂN CƠM BUỒN NGỦ THÌ NGỦ
 ĐẠI CHU HUỆ HẢI 

 
“Đói thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ” – đây chính là thiền, nếu thực hiện được điểm này, thì đó gọi là hiểu biết về thiền. Thời đại Cao Trung, tôi đã đọc một tác phẩm lớn của Linh Mộc Đại Chuyết tiên sinh một câu như thế. Lúc ấy tôi cho rằng câu nói đó là của Linh Mộc [Suzuki(?)] tiên sinh, nhưng sau này khi tiếp xúc với nền Phật học, tôi mới biết là thiền ngữ này đã được trích từ “Đốn Ngộ Yếu môn” của Đại Chu Huệ Hải thiền sư đời Đường. Dưới đây là nguyên văn: 
 
Hữu Nguyên Luật sư đến hỏi: “Hòa thượng tu đạo, có dụng công không?” Thiền Sư Đại Chu Huệ Hải đáp: “Dụng công” Hỏi: “Dụng công thế nào?” Thiền sư trả lời: “Đói thì ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ” Hỏi: “Tất cả mọi người đều vậy, như thế thì vấn đề dụng công có giống với thiền sư hay không?” Thiền Sư trả lời” “Không giống” Hỏi: “Tại sao không giống?” Đáp: “Khi họ ăn cơm, nhưng họ không chịu ăn cơm vì bị trăm điều đòi hỏi; khi ngủ thì không chịu ngủ, vì phải so sánh tính toán vạn sự”. Hữu Nguyên bí lối. 
 [Đốn ngô yếu môn] 
 
Có người tên Nguyên Luật Sư đến hỏi “Khi hoà thượng tu hành có cần dùng đến công phu?” Đại Chu thiền sư trả lời: “Cần”. Hỏi: “Công phu ấy như thế nào?” Trả lời: “Đói thì ăn cơm, buồn ngủ là ngủ”. Hỏi: “Người thông thường đều như vậy cả, công phu của Hoà thượng chỉ có thế sao?” Đáp: “Chẳng giống nhau”. Hỏi: “Có gì khác nhau?” Đáp: “Khi người khác lúc đáng ăn cơm thì không chịu ăn, lại phải đủ điều đòi hỏi; khi đáng ngủ thì không yên tâm để ngủ, vì còn ngàn việc đán đo. Vì thế ta với họ khác nhau”. Nguyên Luật Sư lặng im vì đã không còn lời nào để chất vấn. 
 
Vừa thoạt nghe qua đã có đồng cảm. Có lúc dù cho một chút ý ngủ cũng không, nhưng trong quan niệm thì cứ cảm thấy là không ngủ thì không được nên tự cưỡng bức: Mình phải ngủ. Thì ra như thế, một mặt trong não ý nghĩ lung tung, một mặt vì tiếng đống hồ tích tắc mà cảm thấy tâm trí phiền não nóng nảy, kết quả càng không cách nào ngủ được. Mãi đến tảng sáng 2, 3 giờ...cuối cùng chỉ thấy bi ai tuyệt vọng. 
 
Ăn cơm cũng thế, khi phải ăn cơm thì ăn cơm, nhưng thông thường ngưuời ta cứ phải tống điều phối thức ăn dinh dưỡng trước, sau đó mới chịu ăn, vì thế mà bao tử đã bị khổ sở vì đói. 
 
Do vậy, “Đói là ăn, buồn ngủ là ngủ, đó tức là thiền”. Lời nói đơn giản này, tuy trên mặt chữ rất dễ lý giải, nhưng trên thực tế lại là việc mà những người phàm tục không thể làm được, mặc dù câu nói này lúc nào cũng “Nao nao trong lòng”, nhưng ban đêm vẫn không ngủ được, khi đang ăn cơm thì nghĩ bậy nghĩ bạ, nếu không thì một mặt vừa xem báo một vừa ăn cơm, hoặc một mặt vừa xem báo một mặt vừa ăn cơm, hoặc một mặt đánh cờ một mặt ăn cơm, muốn ăn bữa cơm ngon lành đúng nghĩa dường như là việc không phải dễ. 
 
Nhất là đối với những ai đang đi làm, đói thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, điều đó chẳng khác nào như một mộng tưởng xa xăm vói không bao giời tới. Ví như, lúc 2, 3 giờ chiêu đang cơn buồn ngủ, nếu phải ngủ ngon trên chiếc bàn làm việc, thì bảo đảm là không bao lâu sẽ bị sa thải khỏi sở. Nghĩ đến thời đại cao trung, khi thầy đứng trên bục giảng say sưa giảng đến nước mồm tung tóe còn mình thì ở dưới lén ăn thức ăn mang sẵn theo, tâm trạng vừa có phần sợ hãi vừa có phần vui thú ấy, đối với một viên chức cũng là một loại luận đàm xa xôi. Có thể nói: “Đói thì ăn, buồn ngủ thì ngủ”, đại khái chỉ có những người xuất gia xa lìa trần tục mới có thể làm được, đối với chúng sanh thường tình như chúng ta, thì đó là vấn đề “có thể gặp mà không thể cầu”. 
 
Nhưng, kỳ khôi nhất là tại sao sau 2, 3 giờ chiều chúng ta lại buồn ngủ? Phải ngủ bao nhiêu tiếng đồng hồ mới đủ? điều này đương nhiên tuỳ theo mỗi người mà có sự sai biệt. Trong truyền thuyết, Nã Phá Luân vị anh hùng của nước Pháp, mỗi ngày, chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, vì thế ông thường hay ngủ gật, thậm chí có một chuyện khôi hài đó là vì ngủ gật mà ông đã bị rơi từ trên lưng ngựa xuống đất. Đời nay, chúng ta thường thấy trên công xa đầy khác, nhiều người tay nắm cái móc, và cứ như thế mà đứng ngủ ngon lành. Nghe bảo trước đây trong quân đội đã có người vừa hành quân vừa ngủ gật. Khi thời gian ngủ bị thiếu thốn nhiều, đương nhiên rất dễ ngủ gật. Nói theo thường thức, bình quân mỗi người mỗi ngày ngủ khoảng 6 đến 7 tiếng đồng hồ, vì thế ban đêm nếu ngủ đầy đủ, thì ban ngày sẽ không bị tình trạng ngủ gà ngủ gật. Sau cùng, chúng ta cần kết luận là: Sinh hoạt cần phải có những quy luật rõ ràng. 
 
Cái gọi là quy luật sinh hoạt, đó là 3 bữa ăn nên định lượng, và phải ngủ nghê đầy đủ, như thế thì khi đi làm, sẽ không bị ngủ gật và đói bụng, và ban đêm cũng tự nhiên vì không buồn ngủ mà mất ngủ. 
 
Nếu có thể làm được quy luật sinh hoạt như thế -- Đói ăn cơm, buồn ngủ thì ngủ thì đó tức là thiền. Đó là sự thể ngộ gần đây nhất của tôi. Có lẽ là vì liên quan đến tuổi cao! Khi con người đến tuổi trung niên, thì không thích sự vật mới mẻ khác lạ. Đối với tuổi trẻ, có lẽ cho rằng thiền như thế hơi bị gò bó, hơi “tượng gỗ” (không linh hoạt), và vì muốn truy cầu cảnh giới thiền mà đã có rất nhiều thay đổi không chừng. 
 
Tôi đã từng nói, phương thức thực tiễn của thiền không phải chỉ có một loại. Có loại thiền thích hợp vời người tuổi trẻ, có loại thiền thích hợp cho người trung niên, và cũng có loại thiền thích hợp với bậc lão niên. Tóm lại, thiền không rơi vào bất cứ cái ổ cố định nào.

ĐỐI VỚI VẬT XẢ BỎ MÀ CẢM THẤY TIỀN NUỐI 
THÌ CHÍNH NÓ LÀ MỘT LOẠI PHIỀN NÃO
 BÀNG CƯ SĨ 

 
Quyển sách “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” này, là ngũ lục của Đạo Nguyên thiền sư – Khai sơn tổ sư của Tào Động Tôn Nhật Bổn. Người soạn là cao túc (học trò) của Ngài là Hoài Trang thiền sư. Tôi muốn đem nội dung của quyển sách này để giới thiệu tỉ mỉ đến quý vị, nhưng, vì trang giấy có hạn nên chỉ có thể dẫn dụng những phần có liên quan đến nội dung thảo luận trong sách, và dưới đây là trích đoạn dịch văn đã tiết lục: 
 
Một hôm, có một vị tăng đến hỏi tâm yếu của tâm hành. Tôi bảo với ông thế này: “Người học đạo có thể cần phải “Nghèo” trước, vì tiền bạc nhiều thì dễ mua sắm đắm đuối vào vật chất mà nản chí tinh thần, người tu hành tại gia thường lo lắng tiền tài, lưu luyến chỗ ở, và giao dịch qua lại với bao nhiêu thân hữu, do vậy dù mà có chí tu hành, cũng bị cản trở rất nhiều trong phần nhân duyên chứng đạo. Cho nên xưa nay dù người tham gia tu học đông đảo, nhưng số người ưu tú vẫn không bằng người xuất gia. Người xuất gia ngoại trừ ba y một bát tất cả đều không có tiền tài, không truy cầu chổ ở yên ổn, không tham áo gấm khăn ngọc, một lòng chuyên chú đạo nghiệp, cho nên việc tu hành phần nhiều đều đạt kết quả. Đó là duyen do của “An bần chi sở dĩ lạc đạo”. 
 
Bàng Cư Sĩ tuy là tục nhân tại gia, nhưng tu hành không thua gì người xuất gia, và ông đã chiếm được một vị trí quan trọng trong Thiền Lâm. Bàng Cư Sĩ khi mới tham thiền, liền đã gom góp toàn bộ sở hữu tài vật trong nhà để chuẩn bị bỏ vào biển cả. Người đi đường thấy thế khuyên lơn là nên mang tài vật đó là dùng vào việc cứu nhân tế thế hoặc tạo tháp lập chùa thì tốt hơn. Cư Sĩ bảo rằng: “Vật này vì có hại đối với tôi nên tôi mới mang nó vứt bỏ, làm gì có cái đạo lý lấy cái vật hại mình đem tặng người khác!” Nói xong, không chút luyến tiếc ông đã đổ hết tiền tài xuống biển. Cư Sĩ tuy người tại gia, nhưng sự không tham luyến tài sản thế gian, thật đáng được gọi là một xuất gia hành giả”. 
 
Khi tôi đang cai thuốc lá đã từng mang một máy quẹt đắt tiền tặng cho người khác. Lúc ấy cơn nghiện thuốc của tôi rất lớn, mỗi ngày phải hút độ khoảng 50 chục điếu thuốc. Vì nghĩ đến sức khoẻ nên mới nhất quyết cai thuốc, đó là chuyện dĩ vãng 20 năm trước. Khi đó tuy quyết lòng cai thuốc, nhưng tự biết mình không phải là người ý chí kiên định, nên đối với kỷ luật bản thân tôi đã không đủ tự tin để dứt khoát quyết tâm cai thuốc do thế mới nhất định tặng cái quẹt máy cho người khác. 
 
Khi đọc giáo thị của Đạo Nguyên thiền sư, tôi đã không khỏi nghĩ đến dĩ vãng. Vì sức khoẻ mà mang vật không dùng tặng lại bạn bè, đây có phải là một việc làm thiều đạo đức? Đúng ra phải quăng bỏ nó đi mới phải... 
 
Đa phần con người thường sa vào lề lối suy tư mê man như thế. 
 
Hiển nhiên, cái quẹt máy sở dĩ có hại là vì dùng nó để đốt thuốc. Nếu không nhận thức được điểm này thì đối với suy tư trên mặt tiền tài lại càng không thể phân tích xác đáng. Tiền tài đối với kẻ tu hành Phật đạo có lúc đích thị là một chướng ngại, nhưng, cũng không thể phủ nhận sự hữu ích của nó. Ví như chúng ta có thể dùng nó để cứu tế kẻ nghèo khó, hoặc sử dụng nó để kiến tạo chùa chiền, chấn chỉnh đạo tràng v.v...Có khi cũng có thể dùng để quyên giúp cho các hội Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc Tế ở Liên Hiệp Quốc v.v...chẳng hạn. Nếu đứng trên khía cạnh này đề suy gẫm, thì mang bạc tiền liệng vào lòng biển là một sự việc đáng tiếc. 
 
Nhưng, cái tình cảm “Bỏ đi thất tiếc” này đã không là cái khổ não chướng ngại của việc tu hành ư? Vì thế, nếu còn luyến tiếc khi mang tài vật vứt bỏ thì không thể hoàn toàn chấm dứt khổ não. Bàng Cư Sĩ sở dĩ đáng kính, ,vì ông không do dự tí nào khi đoạn tuyệt tài vật. Thế mới mong kiên trì ôm cái chủ nghĩa “xuất thế trên hết” (tức là “chủ trương không xuất gia thì không thể hiểu rõ thiền” của Đạo Nguyên thiền sư), đồng thời cũng rất đáng tôn sùng công phu “năng xả” của Bàng Cư Sĩ vì ông can cường hơn cả những người xuất gia. 
 
Ở chương thứ 10 “Tân Ước Thánh Kinh, Mã Khả Phúc Âm” ghi lại một mẫu chuyện thế này: 
 
Lúc Gia Tô đi đường, có một thanh niên đến sụp xuống lạy và thưa rằng: “Lạy Thầy nhân hậu, tôi phải làm gì để được sống mãi?” Gia Tô bảo anh ta: “Tại sao gọi ta là nhân hậu? Không có ai là nhân thiện trừ Thiên Chúa. Để được sống mãi mãi ngươi phải giữ các giáo răn. Những giáo răn như ngươi biết: Chớ giết người, không trộm cướp, không tà dâm, đừng hại người, không làm chứng dối, phải hiếu kính cha mẹ và thương nguời thân như bản thân”. 
 
Người thanh niên thưa với Gia Tô: “Tất cả những điều răn đó tôi đã tuân thủ từ thuở bé, thế thì tôi phải làm gì thêm?” Gia Tô người thanh niên, tỏ tình âu yếm và bảo: “Ngươi còn thiếu một việc: ngươi hãy về bán hết tài sản và chia phát cho người nghèo, làm thế ngươi sẽ được tài sản trên trời, rồi ngươi đến đây để theo ta”. Anh ta nghe Gia Tô nói xong, buồn rầu bỏ đi vì anh ta là người giàu có nhiều ruộng đất và lợi tức. Gia Tô buồn rầu nhìn các môn đồ rồi bảo rằng: “Các con hãy xem, người giàu muốn vào thiên đàng quả thật khó khăn! Này các con! Thầy bảo thật: Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng”. 
 
Lời nói của Gia Tô trọng điểm là không phải mang tiền tài thí xá cho người nghèo mà nhấn mạnh đến sự vướng mắc tiền tài chính là sự chướng ngại cho con đường thông đến thiên quốc, điểm này mà chủ trương của Đạo Nguyên thiền sư giống nhau. 
 
So với phú ông truy cầu con đường đi đến thiên quốc thì quyết tâm của Bàng Cư Sĩ đáng tôn kính hơn. Ông vì cầu đạo mà mang hết tài sản trút bỏ xuống biển, đích thật cần có quyết tâm và dũng khí. Không luận là Phật giáo hay Cơ Đốc giáo, đều cần những người có quyết tâm và dũng khí lớn như vậy để thực tu. 
 
Bàng Cư Sĩ(? – 808) là một trong số ít người với thân phận tại gia mà lư danh trong thiền sử. Càng đáng đề cập hơn, Bàng Cư Sĩ cả nhà gồm có bốn người đều xứng đáng gọi là “Gia tộc của thiền”, bởi vì cái chết của họ tương đối khác thường, có thể nói đó là lối chết của thiền giả chính tông. 
 
Những thiền gia tu hành cao thâm, phần đông đều có thể biết trước ngày chết của mình. Sự việc này thường thấy trong “Cao Tăng truyện”. Thậm chí không những biết trước ngày giờ ra đi mà nhiều thiền giả còn có thể tuỳ theo ý chí của mình mà quyết định công việc tử sanh. Bàng Cư Sĩ là một trong số những vị ấy. Giai thoại dưới đây được ghi trong lời tựa của “Bàng Cư Sĩ ngữ lục”: 
 
Một hôm, Bàng Cư Sĩ quyết định vãng sanh (đương nhiên khác với tự tử, tuy chúng ta không rõ nguyên nhân trong ấy). 
 
Bàng Cư Sĩ đem ý định của ông nói với cô con gái là Linh Chiếu và dặn dò: 
 
“Thế gian hư ảo không thật. con ra ngoài cửa giúp ta để canh cao độ của mặt trời, đến khi đúng ngọ thì hãy thông tri cho ta một tiếng” 
 
Bàng Cư Sĩ dự tính vừa đúng chánh ngọ thì sẽ vãng sanh. 
 
Đến chánh ngọ, cô con gái vào nhà báo: 
 
“Phụ thân đại nhân, đã chánh ngọ rồi, nhưng hôm nay là ngày nhật thực, không tinh cha hãy ra xem!” 
 
“Thật có việc như thế sao!” 
 
Thừa lúc Bàng Cư Sĩ bước ra ngoài nhà, Linh Chiếu cô nương đã toạ vãng sanh. 
 
“Động tác con nhỏ này thật lanh lợi” 
 
Bàng Cư Sĩ vừa mắng yêu vừa nhặt củi khô lo việc thiện hậu cho người con gái. 
 
Bảy hôm sau, thái thú sở tại đến phúng điếu. Vị thái thú này bình thời đã dành rất nhiều sự kính ngưỡng đối với Bàng Cư Sĩ. Bàng Cư Sĩ gặp thái thú liền bảo: 
 
“Phàm các hiện tượng đang hiện hữu điều là không tướng, nếu chấp không lmà có thì không thể được. Vì thế...” Lúc ấy trong nhà tràn đầy mùi thơm lạ và, Bàng Cư Sĩ đã vãng sanh. 
 
Thế là thái thú phải long trọng cử hành tang lễ cho cư sĩ, và thông báo tin này cho Bàng phu nhân. Nghe tin, Bàng phu nhân bảo rằng: 
 
“Thật là đáng ghét, không thông tri cho tôi một tiếng mà đi trước, làm sao chịu nổi!” 
 
Bàng phu nhân lập tức truyền tin này cho người con trai đang làm ruộng hay. 
 
“Ba con và Linh Chiếu đều đã chết rồi!” Bàng phu nhân vừa nói dứt lời, thì người con đang cầm cuốc đã buông lỏng và tằng hắng một tiếng rồi đứng đó vãng sanh. 
 
Bàng phu nhân một mặt lo hậu sự cho con một mặt mắng yêu: “Thằng con thật bất hiếu!” sau đó đến từng nhà cáo biệt những người lân cận và từ đó không biết bà đã đi đâu. 

 

TRẺ NÍT 3 TUỔI TUY BIẾT, ÔNG GIÀ 80 KHÔNG LÀM ĐƯỢC
 ĐIỂU SÀO ĐẠO LÂM 

 
Đường triều có vị Đạo Lâm thiền sư (741-824), do khi ngài tu hành tại Tần Vọng sơn Hàn Châu, chim trúc kéo đến làm ổ trên những cành cây tùng trong núi, cho nên được phong hiệu là “Điểu Sào thiền sư”. 
 
Ngoài ra, chung quanh chỗ ở của ngài có rất nhiều chim ô thước làm tổ (đại khái có thể chúng cho rằng thiền sư là người cùng chủng loại), cho nên chúng rất ôn thuần với thiền sư, vì thế người ta cũng gọi ngài là “Thước Sào hoà thượng”. Vị Điểu Sào thiền sư này là vai chính trong câu chuyện. 
 
Nhưng, nếu chúng ta không đề cập đến một vai chính khác, thì mẫu chuyện này không thể diễn xuất được. Vị đó là thi nhân Bạch Cư Dị đã rất nổi tiếng trong thi đàn Trung Quốc (772-846). Ông vì nhậm chức Thích Sử mà đến Hàng Châu. Thích Sử là quan lớn nhất của một châu, cũng gọi là “Thái Chú”, một quan chức có ngôi vị khá cao. Bạch Cư Dị lần đầu đến Hàn Châu, nghe cách đi đứng đặc dị của Điểu Sào thiền sư, bèn muốn đến bái kiến một phen. 
 
Khi đến nơi, trông thấy chỗ ở của thiền sư, ông không thể tự chủ, lớn tiếng la hoảng: 
 
“Chỗ ở của thiền sư rất nguy hiểm đấy!” 
 
Bạch Cư Dị là người học Phật, ít nhiều cũng biết đôi chút Phật Pháp, vì thế ông thốt ra lời nói vừa có tính cách tỉnh nhưng đồng thời cũng nhắm vào hành vi đi đứng hiển dị khác thường của thiền sư đang mê hoặc dân chúng mà ngầm chứa mùi vị mai mỉa. 
 
Khi đọc công án này lần đầu, tôi cũng đã có cùng cảm giác bực ghét như thế vì cảm thấy kẻ tu hành học Phật không cần thiết phải biểu lộ những hành động kỳ khôi lập dị. 
 
“Nguy hiểm đấy!” lời nói của Bạch Cư Dị thật đúng chỗ. Bởi vì chúng ta có thể vin vào sự trả lời của thiền sư để hiểu rõ công phu tu hành của ngài. Và ngược lại, phản ứng của thiền sư sẽ cho thấy được công lực của Bạch Cư Dị đến đâu. Vì thế cuộc vấn đáp này có thể được coi là một trận biện luận tinh vi. 
 
Điểu Sào thiền sư đã trả lời câu nói “Nguy hiểm lắm đấy!” rằng: 
 
“Thái thú, cảnh ngộ của ông còn nguy hiểm hơn tôi!” 
 
Quả thật, cảnh ngộ của chánh trị gia ngấm ngầm nguy cơ tứ phía. Chẳng hạn như bị giáng chức, đỗ hỏng, cách chức, bị hãm hại, làm ma thế mạng v.v... Không luận là giới chánh trị hay giới công thương đều đầy dẫy những loại nguy cơ như thế. Bạch Cư Dị vì giáng chức nên mới được điều từ kinh thành đến Hàn Châu. Trước những hiểm hoạ vô chừng ấy thà chấp nhận thế giới thiền định trên cây tùng còn an toàn hơn. 
 
“Ông này! Thật lợi hại!” 
 
Có lẽ trong lòng Bạch Cu Dị đã nghĩ như thế. Đến đây, thoại đề lại chuyển đổi. 
 
Để bảo trì tính liên đới của toàn bộ cuộc đối đáp, chúng ta hãy thay đổi phương thức bằng cách tạm không giả thích từng câu, đợi sau khi phân rõ thắng bại, sẽ lần lượt giải thích tỉ mỉ, dưới đây là dịch văn: 

 Thái thú Bạch Cư Dị: “Chỗ ở của thiền sư nguy hiểm qua!” 
 Thiền sư: “Thái thú, cảnh ngộ của ông càng nguy hiểm hơn!” 
 Thái thú: “Thế nào mới là đại ý của Phật pháp?” 
 
Thiền sư: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (đừng làm những việc ác, hãy thực hiện những việc lành). 

 Thái thú: “Việc đó trẻ nít 3 tuổi cũng biết”. 
 Thiền sư: “Nhưng, ông già 80 cũng khó mà làm được!” 
 Thái thú: “...” 
 Vấn đáp kết thúc, hiển nhiên Bạch Cư Dị đã thua. 
 
Bạch Cư Dị hỏi: “Thế nào mới là đại ý của Phật Pháp?” không phải lấy cương vị học sinh để thỉnh giáo đại ý Phật pháp, mà là muốn Điểu Sào thiền sư trần thuật ra những gì đã liễu ngộ, đó là có ý trắc nghiệm thiền sư. 
 
Còn Điểu Sào thiền sư đối với sự trắc nghiệm đã đưa ra lời giải đáp “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Thoáng nghe dĩ nhiên xuôi tai, không có chỗ nào sai lầm, nhưng lại cho người có trực giác nhận thấy câu trả lời quá tầm thường, Bạch Cư Dị đã nghĩ như thế. 
 
Nào ngờ, câu nói này rất nổi tiếng trong Phật giáo [Thất Phật thông giới kệ]. Đó là kệ ngữ chung để chỉ dạy chúng sanh của bảy đức Phật đã từng thị hiện ở thế giới sa bà, trong đó có đức Thích Tôn. Toàn văn kệ ngữ này như sau: 

 Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành 
 Tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo 
 (Đừng làm những việc ác, hãy thực hiện những việc lành, tự thanh tịnh tâm ý, đó là lới Phật dạy) 
 
Bạch Cư Dị cảm thấy câu trả lời này thật tầm thường không có gì ly kỳ, nên thốt “Việc này đến con nít lên 3 cũng biết”, ý ngầm bảo nếu sớm biết như thế thì không cần thiết phải lặn lội đến thâm sơn bái kiến. 
 
Nhưng không hổ danh Điểu Sào thiền sư, sau khi Bạch Cư Dị trả lời “Đến như trẻ nít 3 tuổi cũng biết”, thì ngài không chút do dự tức khắc đáp: “Hẳn thế, nhưng lão ông 80 tuổi chưa chắc làm được!”, bị thiền sư phang câu này, Bạch Cư Dị chỉ biết trợn mắt thè lưỡi, không sao có thể biện đáp thêm được. 
 
Thiền hay Phật giáo cũng vậy, bất cứ là đạo lý gì, đều dạy con người bỏ theo thiện. Chỉ đơn sơ như thế, đơn thuần như vậy, mà chính là thiền, là Phật giáo. 
 
Một thí dụ khác, khi qua đường lớn, tuy gặp đang lúc đèn đỏ, nhưng thấy không có xe cộ nên định băng qua, con tôi đứng bên cạnh vội cản tôi lại. Tôi bảo “Không được phép băng đèn đỏ thì đúng rồi, nhưng...có quan hệ gì đâu!” 
 
Con tôi bấy giò chỉ đang học Ấu Trĩ Viên. Kết quả, cái quy tắc giao thông “Không thể vượt đèn đỏ” cả con nít 5 tuổi cũng biết, nhưng người lớn lại rất dễ vi phạm. 
 
“Không quan hệ gì!” Vừa nói xong, trong đầu tôi tức khắc hiện lên lời nói của Điểu Sào thiền sư. A! cho dù người lớn, đã 40 như tôi, cả cái quy tắc giao thông thông thường cũng không cách nào tuân hành nghiêm túc. Như thế, đàn ông trung niên trên tuổi 40 chỉ biết cãi lời đoạt lý thôi sao? 
 
Thiền không lý luận nhưng hiểu rõ đạo lý, “Thiền không phải là lý luận” chưa hẳn là đại biểu cho sự thấu hiểu về thiền. Nghe qua dường như có vẻ đáng buồn, nhưng xin hãy bình tĩnh, chớ nóng nảy, nóng giận là kẻ địch lớn của thiền. Hãy thong dong chậm rãi mà thể hội! Cuối cùng từ trong ấy bạn sẽ hiểu rõ đạo lý của thiền.

THẾ NÀO MỚI TRÁNH CHO MÈO KHỎI BỊ GIẾT?
 NAM TUYỀN PHỔ NGUYỆN 

 
Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) vốn là một vị tăng có trình độ học vấn rất cao, ngài tinh thông “Kinh Hoa Nghiêm” (1), lãnh ngộ “Không” lý (2) của Bát Nhã” và sau này còn chuyên nghiên cứu về giới luật. Dù thế, sau cùng ngài vẫn vứt bỏ tất cả học vấn, theo phụng sự Mã Tổ Đạo Nhứt thiền sư và tự nhận là một thiền giả suốt cả cuộc đời. 
 
Mẫu chuyện dưới đây là một công án nổi tiếng của Thiền. Cái gọi là công án, cũng có thể gọi là trắc nghiệm vấn đề. Tốt nhất xin quý vị độc giả hãy trắc nghiệm ở đây rồi tự nêu ra một đáp án mà quý vị cho rằng tiêu chuẩn nhất. 
 
Một hôm, có một số thiền sinh đã chỉ vì chuyện của một con mèo mà tranh cãi không ngừng, lúc bấy giờ Nam Tuyền thiền sư thấy thế, nắm cổ con mèo giơ lên cao và bảo: 
 
“Này chư vị, trong số chư vị nếu có ai vì mèo mà có thể nói được một lời thì tôi sẽ không giết con mèo này, nếu không, tôi lập tức chém nó ngay. Hãy thử nói một câu!” 
 
Lúc ấy, đám đông lặng thinh. 
 
Thế là Nam Tuyền lập tức giết chết con mèo. 
 
Đến đêm, một đệ tử của Mã Tổ là Triệu Châu (Tùng Phẩm) từ ngoài về, Nam Tuyền thiền sư đem câu chuyện xảy ra ban ngày thuật lại cho ông. Triệu Châu nghe xong, đã không một lời nào đáp lại, cởi đôi giầy rơm đội lên đầu rồi bước ra khỏi phòng 
 
Nam Tuyền thiền sư thấy vậy bèn nói: 

 “Lúc ấy nếu ngài có mặt, con mèo đã không bị giết...” 
 Vấn đề ở chỗ, Triệu Châu tháo giầy rơm đội lên đầu có ý gì? 
 Quý vị độc giả, quý vị có thể cứu sống con mèo này không? 
 Đề mục nêu trên, nếu mách với quý vị: 
 
“Xin lỗi! tôi cũng không trả lời nổi” thì sẽ không khỏi bị độc giả mắng cho một trận! May mà vấn đề này có sẵn trong điển tích Thiền Tôn “Vô Môn Quan”, vì thế tôi mới có thể mạnh dạn thú nhận là tôi không có giải đáp. Xin độc giả tự căn cứ vào trí tuệ của mình mà tìm đáp án. 
 
Nếu trong số quý vị có người muốn khống cáo Nam Tuyền hòa thượng là lẻ ngược đãi động vật, tôi khuyên độc giả ấy hãy giữ im lặng thì tốt hơn. Bởi vì bản ý của Nam Tuyền là muốn cứu con mèo, thật sự, để cho con mèo bị giết chính là những người đã đặt Nam Tuyền hòa thượng vào tình thế khó xử! 

Chú (1): Một trong những đại biểu kinh điển của Đại Thừa Phật giáo. Toàn Kinh thuật rõ đạo lý “Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”. 

Chú (2): “Không” là lý niệm cơn bản của Đại Thừa Phật pháp, cũng là trung tâm tư tưởng của “Bát Nhã Kinh”. Thuyết minh sở hữu thực thể tồn tại đều là đạo lý “Không” cùng với tư tưởng “Thiền” tương thông với nhau

KHÔNG NÊN MIỆNG LƯỠI,
ĐA NGÔN KHÔNG SAO KHỎI LỖI
 TRIỆU CHÂU TÙNG PHẨM 

 
Phần trước đã đề cập về mèo, bây giờ thì đến chó. Bút giả vốn không cố ý đùa bỡn văn chương, nhưng một khi nói đến Triệu Châu Tùng Thẩm thiền sư, đương nhiên không thể không đề cập đến công án nổi tiếng của “Con chó Triệu Châu”. Công án này được ghi ở chương nhất, mở đầu của “Vô Môn Quan” 
 
Có một tăng nhân thỉnh giáo Triệu Châu thiền sư (777-897): “Thưa thiền sư, chó có Phật tánh không?” Triệu Châu thiền sư đáp: “Không!” 
 
Chỉ một câu vấn đáp đơn giản và ngắn ngủi như thế, vả lại đây chỉ là một vấn đề chúng ta thường thấy. “Chó không có Phật tánh” -- chỉ có thế thôi 
 
Nhưng công án này tương đối vốn được chú trọng vì lẽ nó được sắp xếp ngay nơi trang đầu của quyển “Vô Môn Quan” bất luận thế nào cũng phải có một bài được sắp ở trang nhất, nếu không thì làm gì có trang hai, trang ba...? Nếu có lối nghĩ như thế, độc giả có lẽ sẽ nói: “Con chó Triệu Châu” chẳng qua gặp may mà được sắp ở bài thứ nhất, điều đó có gì đáng nói?” nhưng, sự “ngẫu nhiên” này dường như có sự tất nhiên của nó. Then chốt là chữ “không” trong câu trả lời của thiền sư. 
 
Chọn công án có liên quan đến “Vô” làm đầu bài này, là tương đối phù hợp với tên sách “Vô Môn Quan”. Cái gọi là “Vô Môn Quan” có nghĩa là “Không có ai kiểm tra”. Ý nói phàm những người muốn vào cảnh địa của thiền đều cần phải thông qua trước cái ải “Vô” này, điểm này phải là điểm chủ ý của tác giả Vô Môn Huệ Khai thiền sư nên ngài đã đặt cho tên sách là “Vô Môn Quan”. Chữ “Vô” của tên sách tương đương với ý chữ “Vô” của Triệu Châu thiền sư. Cho nên, chúng ta cần phải nhìn thẳng vào câu nói “Con chó không có Phật tánh” lần nữa. Ồ, không! Nói vậy, khác chi bảo rằng chúng ta cần phải lý giải ý nghĩa của “Vô”. Điều này không thể sử dụng thường lý để giải lý được. 
 
Ở đây xin độc giả cho phép tôi được nhiều lời, ý tôi muốn nói: Nếu các vị thật tình nghĩ mãi mà không hiểu được, thì chi bằng thử cái “diệu kế” của tôi, cái được gọi: Phương pháp “Đánh mèo mà trúng chỉnh”. Tục ngữ thường bảo: “Mèo đui gặp chuột chết”. Tay súng không thiện xạ nhiều khi bắn thêm vài phát và có thể vì “bất cẩn” mà trúng mục tiêu. Vì thế tôi khuyến khích quý vị hãy phát huy toàn bộ sức tưởng tượng của mình, cho dù đoán đông đoán tây, biết đâu chừng cũng sẽ rất có thể trúng câu đó. 
 
Tiếp đến, chúng ta hãy bàn về thoại đề liên quan đến chó. 
 
Căn cứ trong Cơ Đốc giáo, đặc biết là Thiên Chúa Giáo, cho rằng chó là loài không có linh hồn. Nột dung dưới đây, do vị linh mục Phi Na Thái Lợi người Ý miêu tả khi ông đến Nhật Bổn, đối với việc một phụ nữ Nhật đã yêu cầu ông làm phép và tế lễ cho con chó cưng của bà mà kinh hãi: 
 
Cái gọi là tế lễ là vì những việc làm khi còn sống của người chết mà lmà nghi thức chuộc tội và kỳ đảo khẩn cầu thiên thần giáng ân. Tiếng La Tinh gọi là “An hồn tế lễ”, hoặc tục gọi là “Trấn hồn tế lễ, và “Truy điệu tế lễ” v.v. Tôi làm chức linh mục nên thường trong ngày giỗ kỵ của người chết được yêu cầu tế lễ cho người chết. 
 
Nhưng còn tế lễ cho con chó đã chết là điều xưa nay chưa từng có, ít nhất, đối với người Ý như tôi thì quả thật là điều không thể tưởng tượng. 
 
Không những đây là vấn đề chưa có tiền lệ, hơn nữa đối tượng của tế lễ phải là con người, chó thì không. Dù gì tế lễ cũng là một nghi thức cầu cho linh hồn được yên nghỉ, còn đối với loài chó không có “linh hồn” thì như đã được lý luận, “Tế lễ vì chó” là việc không cách nào có thể làm lễ được. 
 
Tại nước Ý, dù người không có trình độ trí thức đến đâu đi nữa cũng không đưa ra yêu cầu như vậy, nhưng đối với sự tín ngưỡng kiên thành của bà lão Nhật thì lại có thể do lòng quá thương con chó đã chết mà đã đưa ra sự thỉnh cầu một cách rất tự nhiên. Sự kiện ấy thật tình đã tạo cho tôi một niềm xung kích tương đối rất lớn. [Cha Phi Na Thái L?i (Thu?ng th?c Co Đ?c Giáo)] 
 
Vì chó không có linh hồn, cho nên chó không thể lên thiên đàng được -- Đối giáo đồ Cơ Đốc Tây Phương thì đây là vấn đề thường thức phổ thông. Nhưng đối với người Nhật thì nó lại là nan đề khó giải thích. Theo cách nghĩ của người Nhật thì chó hay người cũng đều là sinh vật như thế tại sao lại có sai biệt? Chó vẫn có thể lên thiên đàng mới đúng... 
 
Người Nhật sở dĩ có lối nghĩ như vậy, vì lẽ họ hoàn toàn chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Phật giáo cho rằng dẫu là người hay động vật, nếu đã thuộc về sinh mạng có linh tánh thì đều có thể thành Phật. Chúng ta tạm thời không bàn đúng, sai, tốt, xấu, nhưng từ chỗ này có thể thấy rằng Phật giáo và Cơ Đốc giáo (hoặc Thiên Chúa Giáo) khác nhau rất lớn. 
 
Nói đến cái gọi là “Phật tánh” hay về tính chất có thể thành Phật, thì câu nói này tương đương với Cơ Đốc giáo, đó là, có khả năng sanh lên thiên đường. Cho nên vấn đề được hỏi đến của Triệu Châu thiền sư: “Chó có Phật tánh không?” đổi theo cách nói của Cơ Đốc giáo thì: “Chó có thể lên thiên đàng không?” 
 
Như thế, câu trả lời cho vấn đề đó là đối với Cơ Đốc giáo thì phải là “No!” nhưng đối với Phật giáo thì “Yes!” Đứng trên giáo nghĩa của Phật giáo thì trả lời như thế rất là chính xác, còn trên phương diện Cơ Đốc giáo thì dựa vào những lời của linh mục Phi Na Thái Lợi cũng có thể suy luận được. 
 
Trở lại câu trả lời của Triệu Châu thiền sư, đương nhiên “Không” cũng tức là cái ý “No”. Nếu vấn đáp thì sẽ như thế này: 

 “Chó cũng có Phật tánh sao?” 
 “Vô lý, đừng nói ngốc!” 
 
Trả lời thế nếu sơ với cách nói của Cơ Đốc giáo thì có gì sai khác? Không lẽ Triệu Châu thiền sư không biết Phật pháp, hoặc giáo nghĩa: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” hay ngài đã quên tất cả? 
 
Hai điểm này đều không đúng. 
 
Bút giả cho rằng cái “không” của Triệu Châu thiền sư đã khẳng định phải là cái ý “No”, trái lại so với sự khẳng định của “Yes” còn ở vào tấng cấp cao hơn. 
 
Tại sao nói thế? 

“Chó cũng có Phật tánh sao?” bản thân vấn đề này nếu lấy bất cứ quan điểm nào thì câu đáp của nó cũng đều rơi vào sự chấp trước của hai bên là “có” và “không”. Nếu Triệu Châu thiền sư đáp “Có”, thế là người hỏi có thể hỏi tiếp “Mèo có Phật tánh không?” Sau khi mèo được khẳng định, tiếp đến lại hỏi khỉ, rồi ngựa, hải cẩu, chuột bọ, heo lợn v.v..., vấn đề sẽ không bao giờ chấm dứt. Tôi nghĩ cho dù không phải Triệu Châu thiền sư, cũng không cần thiết phải lý sự như vậy. Huống hồ bản thân vấn đề vốn đã có sẵn vấn đề. 
 
“Chó cũng có Phật tánh sao?” hỏi như thế rõ ràng đã đặt Phật tánh sao?” hỏi như thế rõ ràng đã đặt Phật tánh là vật ở tầng thứ thấp mà tra thúc thuộc tánh của nó, như thế bản thân của vấn đề tự nó đã nổi bật lên sự ngu xuẩn. 
 
Phật tánh là Phật tánh 
 
Trong Phật tánh không có vấn đề phân biệt sai dị của cái gọi là con người, hoặc chó hoặc khỉ v.v... Phật tánh xưa nay vốn đang tồn tại, thế thì làm gì có vấn đề ở người mà không ở trên thân khỉ? Phật tánh tồn tại trên mọi phân biệt như thế. 
 
Tôi nghĩ, ý của Triệu Châu thiền sư là vậy! 
 
Tất cả chúng sanh đều sẵn có Phật tánh – 
 
Nhưng đã không có cái loại “Phật tánh của chó” như vậy. 
 
Cho nên Triệu Châu thiền sư bất đắc dĩ phải trả lời như thế: 
 
“Chó cũng có Phật tánh sao?” 
 
“Không!”

“HÀNH VI” GIỐNG NHAU NHƯNG HOÀN TOÀN
KHÔNG THỂ BIỂU ĐẠT “Ý TƯỞNG” NHƯ NHAU
 CỤ CHỈ HÒA THƯỢNG 

 
Cái gọi là “Chân lý”, kỳ thực rất là bình thường. 
 
Nói theo lý, muốn thực hiện việc bình thường đáng lẽ rất dễ, nhưng thực tế lại không phải thế. 
 
Tôi từng được nghe về một sự kiện thế nào: 
 
Tại một cơ quan công cộng, có hai vị khóa trưởng họ Lâm và Trần. Trong cơ quan ấy, Lâm khóa trưởng có nhân tâm hơn, nên các thuộc cấp đều thích gần gũi. 
 
Một hôm, cơ quan có một viên chức qua đời vì tai nạn xe cộ. Tin buồn trên được truyền đến văn phòng đang khi Lâm khóa trưởng chuẩn bị đi công tác cán xa. Do nhiệm vụ trọng yếu, ông không cách chi có thể thay đổi hành trình để ở lại. 
 
Vì thế, Lâm khoá trưởng căn dặn thư ký mang phẩm vật đến nhà người chết để phúng điếu và thay mặt gửi lời phân ưu đến phu nhân người quá cố. 
 
Số tiền mang đi phúng điếu là 10.000 đồng. Trị giá theo lúc ấy là con số vừa phải. Nhưng vấn đề không phải số tiền nhiều hay ít, mà là nội dung của cái túi phúng điếu. 

Loại mới, bạc giấy lớn 1000 đồng...9 tờ 
 Loại mới, bạc giấy 100 đồng...5 tờ 
 Loại mới, bạc giấy 50 đồng...8 tờ 
 Lóng tánh loạn tiền đúc 10 đồng....10 đồng 
 
Có lẽ có người sẽ hỏi tại sao không gói gọn 10 tờ loại 1,000 đồng? Đúng vậy, nếu không thì không được. 
 
Theo cái gọi là điện nghi, vật phúng điếu trong lúc an ủi tang gia để biểu đạt tâm lý và không để tang gia bị bất cứ trở ngại khó khăn nào về mặt tiền bạc. Thông thường, bởi sự việc bất ngờ xảy ra nên phúng điếu dù giấy bạc cũ cũng không can chi, còn nếu bì thư chứa toàn bạc mới, sẽ khiến tang gia hiểu lầm phải chăng trường hợp nào đó đối với sự phát sinh tang tóc hình như đã được đợi chờ sẵn. Đồng thòi, vì để biểu hiện lòng cảm thông trước sự việc ngoài ý muốn nên cố tình đặt nhiều loại tiền như 1000, 100, 50, 10 đồng v.v... để tỏ ý là vì đột ngột không thể chuẩn bị kịp nên chỉ nhất thời góp lại. 
 
Nhưng, Lâm khóa trưởng sử dụng bạc mới là để biểu hiện cá nhân ông có tác phong tế nhị khác với người bừa bãi, đó là một dụng tâm khéo léo chứng tỏ mình thuộc hạng người nào. 
 
Người vợ nhận phúng điều, rơi lệ cảm kích trước sự tế nhị của Lâm khoá trưởng. Không những không trách cứ việc ông không đến viếng tang lễ mà còn tỏ ra cảm kích muôn phần 
 
Việc này đến tai Trần khoá trưởng, trong lòng ông ta chợt có chủ ý: Sau này nếu gặp cơ hội như thế thì cũng y theo đó mà bào chế một phen... 
 
Quả nhiên, không lâu cơ hội lại đến (sự việc tựa hồ phát triển thuận lợi đến độ giống như sắp xếp một mẫu chuyện. Tuy tôi hoài nghi như vậy nhưng cho dù bịa đặt cũng không sao. Tóm lại, Trần khóa trưởng học theo Lâm khóa trượng, cũng gói loại giấy bạc mới để đi phúng điếu) 
 
Nhưng, nghe nói sau đó vợ của người chết đã oán trách và bảo với người khác rằng: 
 
“Con người của Trần khóa trưởng thật là không có hảo ý...” 
 
Mẫu chuyện trình thuật trên đây, trọng điểm muốn được biểu đạt đó là: Tuy là hành vi giống nhau, nhưng con người khác nhau nên động cơ làm việc khác nhau. Cũng một hành động giống hệt như thế nhưng sẽ mang lại cho người sự vui thích và chán ghét khác nhau. 
 
Cụ Chỉ hòa thượng mỗi khi có ai cật vấn Phật pháp thì ngài đưa lên một ngón tay. Sau đó có một đồng tử vì có người ngoài hỏi là hòa thượng đã dạy pháp nào trọng yếu nhất, đồng tử cũng đưa ngón tay lên để trả lời. Việc này sau khi hòa thượng nghe được, đã dùng dao chặt đứt ngón tay của đồng tử ấy. Đồng tử bị đau đớn khóc lóc rồi bỏ đi, hòa thượng gọi lại, đồng tử quay đầu, Cụ Chỉ lại đưa ngón tay lên, đồng tử đột nhiên lãnh ngộ. Khi Cụ Chỉ sắp viên tịch, ngài bảo với những đệ tử rằng: “Sau khi ta đã thể ngộ được Nhất Chỉ thiền từ Thiên Long Hòa Thượng, thọ dụng cả đời không hết”. Nói xong thì viên tịch. [ Vô Môn Quan] 
 
Năm tháng sanh thác của Cụ Chỉ hòa thượng đã không thể tra khảo được. Bài tựa bảo rằng sở học của ngài được truyền từ Thiên Long hòa thượng nhưng Thiên Long hòa thượng sanh và tịch vào năm nào thì cũng không thể tra cứu, chỉ biết thiền tăng là người ở vào cuối đời Đường. Nhưng việc này không trọng yếu, cái mà chúng ta muốn học là ngữ lục và hành nghi của ngài. 
 
Cụ Chỉ hòa thượng nhờ thầy của ngài là Thiên Long hòa thượng đưa ra một ngón tay (phải là ngón trỏ?) mà khai ngộ. Có lẽ đương thời Cụ Chỉ đã thỉnh giáo với Thiên Long hòa thượng “Cái gì là Phật?”, nên Thiên Long hòa thượng đã làm động tác như vậy? 
 
Nhưng, điều quan trọng xin quý vị chớ nên hiểu lầm rằng, ý của Thiên Long hòa thượng đã chẳng phải cho rằng ngón tay trỏ là Phật. Đại khái là khi Cụ Chỉ hỏi cái gì là Phật thì Thiên Long hoà thượng đã nhìn thấu rõ trong tận cùng tâm khảm của người đệ tử đã xem Phật là một tuyệt đối thể vừa sùng cao vừa uy nghiêm, vì thế để đánh tan thiên chấp của Cụ Chỉ nên ngài đã dùng ngón tay để điểm tỉnh sự mê vọng đó. 
 
Cụ Chỉ thấy thế tức khắc đại ngộ. 
 
Vẫn xin quý vị chớ nên hiểu lầm rằng, tuy chấp rằng ý nghĩa Phật là chí cao vô thượng vẫn là một sự chấp trước sai lầm, nhưng trước hết cũng không nên vì đó mà hiểu lầm rằng Phật là vật thuộc tầng thứ kém giống như ngón tay trỏ. Tóm lại, Phật là Phật, biết rõ Phật chỉ là Phật thì sẽ giác ngộ được chân lý. 
 
Về sau, khi những đệ tử thỉnh thị Cụ Chỉ hòa thượng bất cứ vấn đề gì, hòa thượng đều bật một ngón tay ra để đáp. Ở đây dường như lại dẫn đến một hiểu lầm khác cho độc giả, rằng ngài đã chấp vào Nhất Chỉ thiền. Tuy Phật pháp có đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn, Cụ Chỉ hòa thượng chỉ độc chọn một pháp thì cũng đành chịu, nhưng nhất nhất đều sử dụng phương pháp này như thế có đúng không?...Có lẽ những pháp khác ngài cho rằng phiền phức nên dùng Nhất chỉ thiền thì cũng thế, mà làm mặt ma quỉ thì cũng vậy, thét một tiếng lớn cũng chả sao, bảo rằng “Sáng khoẻ” cũng không can chi, miễn sao sử dụng bất cứ pháp gì mà mục đích tối hậu có thể biểu đạt cái ý giống nhau là được. Đã vậy, cứ sảng khoái và đơn giản dùng Nhất Chỉ thiền để biểu thị lối nghĩ gọn gàng thuần nhát thì cũng chẳng có gì sai trái. Không cần làm bộ làm tịch, tất cả đều dùng một ngón tay lmà phương tiện tiêu biểu, trước sau gì Cụ Chỉ hòa thượng vẫn một mực lấy Nhất Chỉ Thiền để nhất tâm trả lời. 
 
Vì tiểu đồng chưa lãnh ngộ được đạo lý này, nên thấy hòa thượng giơ ngón tay trả lời đã lầm tưởng chìa ra một ngón tay tức là Thiền, là biểu đạt được thiền ý. Sự lãnh hội sai lạc về thiền này đã khiến tiểu đồng tử sinh ra bắt chước y hệt mà không tự biết mình đang sa vào mê vọng thiên chấp. 
 
Kỳ thực, bất cứ sử dụng phương thức nào cũng đều không thể biểu hiện thiền chân chính – Chính vì thế, thiền có thể biểu hiện qua bất cứ phương tiện thiện xảo nào, trong ấy bao gồm cả phương pháp sử dụng một ngón tay. Riêng trường hợp tiểu đồng tử vì chưa triệt ngộ được đạo lý này nên chỉ đơn thuần nghĩ là muốn biểu hiện là biểu hiện, thế thôi. 
 
Chính thế nên khi người khác hỏi: “Cái gì là Phật?” Tiểu đồng tử học theo cách biểu thị của hòa thượng mà đưa lên một ngón tay. 
 
Nhưng khi Cụ Chỉ hòa thượng biết được, ngài đã không cho giải bày điều gì mà lập tức chặt đứt ngón tay của tiểu đồng, sau đó đang khi đồng tử còn đớn đau khóc lóc, ngài lại đưa ra một ngón tay, ngay sát na chớp nhoáng ấy, tiểu đồng tử đã nhờ đó mà khai ngộ. 
 
Tiểu đồng tử đã liễu đạt được đạo lý gì mà khai ngộ? Thật rất khó thuyết minh. Nếu lấy lý mà luận đoán về thiền, trên căn bản đã là phí uổng miệng lưỡi, huống hồ muốn kẻ phàm phu chúng ta thuyết minh về cảnh giới khai ngộ. Cuối cùng thì việc sẽ như thế nào? Cảnh giới của người khai ngộ giống như người giàu thưởng thức sơn trân h ải vị và người nghèo nhất định không có cách nào có thể thẩm thấu được mùi vị thơm ngon trong ấy. 
 
Nhưng, ở đây tôi cần thuyết minh, nếu không, e sẽ làm cho độc giả hiểu lầm rằng phương thức “Miễn ngồi thiền” mà tôi đã đề xướng đó là sự treo đầu dê để bán thịt chó. 
 
Đối với tiểu đồng, có thể đây đúng là một loại “Khế cơ của phủ định” -- Đồng tử vì tin tưởng rằng Nhất Chỉ thiền có nghĩa là Phật, vì thế mà có thiên chấp mê vọng nên bị Cụ Chỉ hòa thượng chặt ngón. Tuy hơi tàn nhẫn, nhưng vì muốn phá trừ chấp trước của nó mới cắt đứt ngón tay của nó. Có lẽ sẽ có người chỉ trích việc làm tàn nhẫn này vì cho dù là thầy của người cũng không nên có hành động nhẫn tâm như thế. Không biết quý vị có từng nghe rằng thầy thuốc vì muốn cắt bỏ tế bao ung thư nên đã cắt bỏ một trong năm ngón tay. Có sao đâu. Huống chi đối với đồng tử chấp trước về Nhất Chỉ Thiền, thì ngón tay ấy khác gì tế bào bị ung thư. Cho nên, cắt đứt một ngón tay mà phá trừ được vọng chấp của tâm là điều rất cần thiết. 
 
Dẫu sao thì ngón tay cũng đã không còn nữa, nhưng, Cụ Chỉ hòa thượng vẫn chìa ra ngón tay để minh chứng rằng đây là Phật. Ý muốn nói rằng, đã không phải là ngón tay nữa, mà đích thị là Phật. 
 
Tiểu đồng vì mất ngón tay nên chợt hoàn toàn liễu ngộ. 
 
Vấn đề của Lâm khóa trưởng và Trần khóa trượng cũng thế. Trần khóa trưởng không được mọi người trọng vọng vì lẽ cho rằng giấy bạc mới mang ý nghĩa “kính trọng nhân viên dưới quyền”. Theo lý luận, thì dấu hiệu đồng nghĩa này quả tình đã không thuận hợp với luận lý, nhưng ông ta lại cả tin là muốn “kính trọng thuộc hạ” thì phải dùng bạc giấy mới để biểu hiện, vì thế mà ông đã y theo đó mà bày tỏ ý nghĩ của mình. 
 
So với tiểu đồng tử, vị Trần khóa trưởng đã thiếu mất “khế cơ của phủ định”, vì thế mà ông bị sự phản cảm của thuộc cấp và tang gia, có thể nói đó là việc làm phí uổng tâm sức. 
 
Theo cá nhân tôi thì tôi cho rằng cái gọi là thiền thường thường trong sự “phủ định” có mặt nghiêm túc và nhận chân của nó. Phủ định ngón tay, phủ định giấy bạc mới, phủ định chủa nghĩa hình thức, thậm chí phủ định cả “Phật”..., nhưng, trong tất cả phủ định, phải xô đẩy tư tưởng con người đến chỗ không còn bị cục hạn nữa mới đạt tới tự do thật sự. Như thế, vạn sự vạn vật lại được phú cho cái ý nghĩa hoàn toàn nguyên mới mẻ, như ngón tay có thể là Phật thì bạc giấy mới cũng có thể đồng nghĩa là “kính trọng thuộc hạ” vậy.

NHẬN RÕ BẢN LAI DIỆN MỤC CỦA MÌNH
 LÂM TẾ NGHĨA HUYỀN 

 
“Lâm Tế Lục” là cách nói gọn của “Trấn Châu Lâm Tế Huệ Chiếu thiền sư ngữ lục”, Huệ Chiếu thiền sư là thiền tăng Lâm Tế Nghĩa Huyền (? – 867) rất nỗi tiếng ở đời Đường. 
 
Lâm Tế thiền sư là thủy tổ khai sơn của Lâm Tế Tôn, đầu tiên ngài theo học thiền với Huỳnh Bá thiền sư, vì thế một mạch ngài đã thừa tậpt thiền phong nghiêm tuấn của Huỳnh Bá. 
 
“Hu?nh Bá B?ng, Lâm T? Hát” 
 
Đã có câu truyền tụng như thế để biểu tỏ phương thức giáo đạo tham thiền tu hành của hai vị này, Huỳnh Bá dùng cây thước bảng đế đánh và Lâm Tế thì lớn tiếng la hét. Trong “Lâm Tế Lục” đã thể hiện đầy đủ phong cách nghiêm lệ của cá nhân Lâm Tế thiền sư. 
 
Khi Lâm Tế thượng đường, ngài tuyên bố: “Trên Xích Nhục Đoàn có một vị Vô Vị Chân Nhân thường ra vào trước mặt các ngươi, ai là người chưa chứng cố mà có thể nhận diện”. Lúc ấy có một tăng nhân hỏi: “Thế nào là Vô Vị Chân Nhân?” Thiền sư vội bước xuống thiền sàng nắm lấy ông ta và hét lớn: “Đạo! Đạo!” Vị tăng ấy định muốn nói điều gì thì thiền sư đã buông ra và bảo: “Vô Vị Chân Nhân là cái thẻ gỗ quẹt thân!” (1) 
 
Một hôm, Lâm Tế thiền sư đứng trên pháp đường và bảo: “Trong thân sanh nhục thể của mỗi con người, đều có một vị tuyệt đối chân nhân vô hình vô tượng, thường xuyên ra vào từ khí qua cảm giác của các vị. Vẫn không cách nào có thể thấy rõ Vô Vị chân nhân này. Hãy xem đây! Xem đi!” 
 
Lúc bấy giờ, có một tăng nhân bước ra hỏi rằng: “Vị chân nhân vô hình vô tượng này là gì?” Thiền sư rời khỏi thiền tọa, chụp vị tăng nhân rồi hét lớn: “Nói đi! Nói đi!” Trong khi vị tăng nhân ấy đang lúng túng, do dự, thiền sư liền buông tay và thét lớn: “Vị Vô Vị chân nhân này chính là cái gì giống cái nẹp bản quẹt phân...” 
 
Hy Lạp trước kia, có một triết gia vĩ đại là Tô Cách La Đê, ông đã để lại ngay trước cửa ra vào của thần điện A La Ba (2) một đoạn minh văn như sau: 
 
GNOTHI EAUTON 
 
Bia năm này là câu cách ngôn để ông thường xuyên cảnh giác, cảnh tỉnh, phiên dịch ra Hán ngữ là “Tự tri bản thân” nghĩa là “Tự mình biết mình”. Ông đem câu nói này khắc ngay chỗ vào thần điện, điều đó không khác nào để cảnh cáo thế nhân.: Từ của vào, bước thêm một bước là lãnh vực của thần linh. Nhân loại các ngươi dù hô phong hoán vũ trong chốn nhân gian nhưng dưới mắt thánh thần thì chẳng qua chỉ nhỏ bé như hạt cát. Khi muốn vào thế giới của thần, tốt nhất các người nên tự biết thân phận như vậy. 
 
Thực ra, ý của Tô Cách Lan Đê không phải như thế. Ý của ông là: “Phải tự biết rõ chính các ngươi!” 
 
Nhưng muốn hiểu rõ chính mình là gì và làm sao để hiểu rõ thì phải làm thế nào mới đúng? 
 
“Tôi mang chức khóa trưởng, thuộc giai cấp công nhân, tiền lương đủ xài, tướng mạo bình thường, có một vợ một con, thân thể thuộc loại máu O...” thí dụ này cũng là một cách hiểu rõ chính mình, nhưng, đấy chỉ là bên ngoài. Tôi không cho rằng lời của Tô Cách La Đe mục đích chỉ để diễn đạt về những bộ phận có tính cách hời hợt bên ngoài như thế. 
 
Tô Cách Lan Đê đã bảo.. Đừng lo, không phải tôi muốn lên lớp triết học cùng quý vị, chẳng qua trước khi tôi nói về “Vô Vị chân nhân” của Lâm Tế thiền sư, nên bất đác dĩ phải nói rõ trước việc này vì đó là điều cần thiết. Dẫu sao, Tô Cách La Đê cũng đã nghiêm khắc tách rời “mình” và “sở hữu của mình”. Bất cứ thân thể nào cũng vậy, tướng mạo nào cũng thế, hoặc là tài sản, địa vị, chức vụ, vợ con...v.v.., những thứ này đều là “sở hữu của mình” -- thuộc về vật của mình. Nếu so sánh, “chính mình” đương nhiên là trọng yếu hơn so với “sở hữu của mình” mới phải, nhưng người đời vì do ngu si nên cứ nghĩ đến “Thân ngoại chi vậy”, thật là hành vi đảo ngược. Cho nên, Tô Cách La Đê muốn mách cho chúng ta rằng, không nên có thái độ ngu xuẩn, ta nên nắm vững lấy ta, còn “Sở hữu của chính mình” chỉ là thứ yếu. 
 
Như thế, “Hiểu rõ chính mình” của Tô Cách La Đê có thể nói tương dương với cái ý “Xem Vô Vị chân nhân trên xích nhục đoàn (khối thịt đỏ) của Lâm Tế thiền sư. “Xịch nhục đoàn” tức là nhục thể của con người. Mà cái nhục thể này chẳng qua là “Sở hữu của mình”. Trong thân xác, còn có một vị khác đó là Vô Vị chân nhân của thể xác hiện đang có mặt đó đích thực là “Chính mình” (bản lai diện mục của chính mình). Bất cứ là người có địa vị như thế nào, từ khóa trưởng, giáo sư đại học, uỷ viên lập pháp, thậm chí kể cả người buôn bán ở đầu đường xó hẻm, hay bán thuốc lá dạo...., trước khi có sự sai biệt thân phận chức nghiệp như thế đã có một con người chân thật tồn tại. Vị “Vô Vị chân nhân” này ra vào trong tai, mắt, mũi, họng, của chúng ta. Tại sao ta không thấy nó? Lâm Tế thiền sư cho rằng: Không có lý do gì mà không trông thấy cả, không phải thế sao? Hãy xem nhanh! Xem đi!. 
 
Nhưng, chúng ta đã không thấy được gì! 
 
Muốn xem, thì quả thật rất dễ trông thấy, nhưng, điều đã khiến cho con người chán nản đó là cái gì cũng không thấy. Không! phải nói là chính chúng ta không chịu quán sát. Cứ ngoan cố giả vờ không thấy, nên chỉ một mạch truy cầu danh lợi thế gian và trong lòng không lúc nào không mơo nghĩ về năm việc, đó là: “Tài, sắc, danh, thực, thuỳ (ngủ)”, thật là vô minh đáo để. 
 
Như thế thì Vô Vị Chân Nhân này là vị thần thánh nào?” Một đệ tử đã hỏi thế. 
 
Tăng nhân là ai? Là vị khờ ngốc hay sự thật là vị có chút tài ba? Người dám cả gan nêu lên chất vấn này, có lẽ ít nhiều đã được lãnh ngộ? 
 
Lâm Tế thiền sư thấy tăng nhân này dường như có điểm đáng dùng, thế là đạc biệt rời khỏi thiền tọa, túm lấy ngực ông ta, giống như thầy dạy đô vật đang huấn luyện học viên, hỏi dồn ông rằng: 
 
“Là gì? Nói đi! Nói coi!” 
 
Nhưng, ở ngay cái mắc gút quan trọng này, tăng nhân lại không thốt nên lời. 
 
Lâm Tế thiền sư thất vọng, bèn nói: 
 
“Vô Vị Chân Nhân của ngươi là kẻ giống cái que quẹt phân!...” 
 
[Căn cứ vào thuyết Liễu Điền Thánh Sơn thị học giả Nhật Bổn: “Que quẹt phân” cũng có thể giải thích là cục phân khô như là que cây. Trên thực tế giải thích như thế thì càng chính xác hơn”. (“Thiền tư tưởng” năm 1975).] 
 
Thế là, câu nói này thành ra “Cái gì! Vô Vị chân nhân của ngươi giống như cục phân khô!...” 
 
Viết đến đây, tôi muốn nói “Đáng thương thay! đột nhiên bị thộp ngực còn bị ép hỏi: “Nói nhanh! Nói mau!” và vì do dự nên lại bị mắng “Ngươi là cái thứ đại tiện”, thử nghĩ không đáng thương hại sao?” Kỳ thực nếu trường hợp chúng ta bị ép hỏi như thế, có lẽ cũng bị rơi vào tâm trạng y hệt đó là cảm thấy do dự lúng túng. Kết quả cũng bị Lâm Tế Thiền sư quở trách: 
 
“Tên này chỉ là một đống phân chó thối!...rõ ràng là ở đó...Xem kìa! Không phải chính là nó đang ra vào ở đó sao?” 
 
Cho dù mắt chúng ta có mở trừng trừng thì vẫn như là đui mù không thấy. Nhưng, ở tình trạng này vẫn còn có một cơ hội sống. 
 
Cái mà tôi có thể nói là, chỉ có cái này thôi. 

Chú (1): Cây bảng làm bằng tre để gạt phân. Đời xưa những nhà nghèo không có giấy để chùi phân, cho nên dùng cây này thay thế. 

Chú (2): Ngang hàng với Olympic, là hai thánh địa lớn của thời cổ Hy Lạp. Lấy mặt trời, thần A Bà La làm trung tâm tế bái.

KHĂNG GIỮ GIÁO ĐIỀU BIẾN THÀNH 
“CANG PHỤC TỰ DỤNG”
 HY HUYỀN ĐẠO NGUYÊN 

 
“Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” là sách thuật những gì từ chính miệng của Đạo Nguyên thin sư Nhật Bản (1200 – 1253), do Hoài Trang (1) đệ tử thân cận nhất của ngài dùng bút lục kết thành. Còn thủ bút của Đạo Nguyên Thiền sư, là quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” (95 tập). Nhưng sách này rất khó hiểu, nếu không phải là người có một trình độ học Phật tương đương thì đọc nó mà muốn thấu triệt còn khó hơn cả việc lên tận thiên đàng. Một số người vừa chỉ xem qua đã than như bộng. 
 
Quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” thì lại khác. Không những phân lượng vừa phải (tổng cộng 6 quyển) mà văn chương cũng gần gũi dễ hiểu, có lợi trong lúc đọc, hơn nữa nó thường được so sánh với “Thán dị sao”. “Thán dị sao” là ngữ lục của Thân Loan Thượng Nhơn, là thuỷ tổ khai sơn của Tịnh Độ Chân Tôn Nhật Bổn, do đệ tử là Duy Viên một mặt hồi tưởng một mặt bút ghi mà thành. Và hệt thế, “Giáo hành tín chứng”, trước tác bằng chính thân bút của Thân Loan thượng nhân (2) cũng là loại sách không dễ lý giải. Vì thế chỉ cần nhắc đến Thân Loan thượng nhân là tức khắc mọi người đều liên tưởng đến quyển “Thán dị sao”. Tình trạng của Đạo Nguyên thiền sư cũng thế. “Chánh Pháp Nhãn Tạng Tuỳ Văn Ký” (dưới đây lược gọi là “Tuỳ Văn Ký”) nuế so với “Chánh Pháp Nhãn Tạng” của nguyên trước bản nhân thì được lưu hành và phổ biến rộng rãi hơn nhiều. 
 
Nhưng, có người cho là “Tuỳ Văn Ký’ cũng thế, “Thán dị ký” cũng vậy, đều chỉ là tác phẩm từ tay đệ tử, nên giá trị đã chẳng là bao. 
 
Quả thật như thế sao?... 
 
Tôi không cho là thế, lấy Tô Cách La Đê, một triết gia cổ Hy Lạp làm ví dụ: Bản thân ông ta đã không lưu lại bất cứ trước tác nào, người sau chỉ xuyên qua Bá La Đồ, một học trò của ông, mới hiểu được tư tưởng của Tô Cách La Đê. Tình hình của Cơ Đốc Giáo cũng thế. 
 
Bố bộ sách phúc âm trong “Tâm Ước Thánh Kinh” đều do bốn vị môn đồ truyền liạ lời nói của Gia Tô Cơ Đốc. Bản thân của Gia Tô Cơ Đốc thì goi61ng như Tô Cách La Đê, đã không lưu truyền bất cứ trước tác nào cả.. 
 
Nhưng, bàn về số người trên đây, chúng ta không nên thờ ơ bỏ sót vị giáo tổ Thích Tôn của Phật Giáo. Thứ nhất bởi lẽ chúng ta chưa từng tận tai nghe những giáo thị của Thích Tôn, thứ hai, đối với những lời thuật lại của đệ tử đều cũng là sau khi ngài đã diệt độ mới kết tập thành kinh điển. Chính vì thế, mỗi khi mở đầu kinh điển, đều phải ghi câu “Như thị ngã văn” (Tôi đích thân nghe Phật nói như thế) để làm chứng tính cho Kinh Phật. Nói cách khác, Phật giáo có thể nói là đệ tử của Phật đã dựa vaò thiện căn và trí tuệ ađ4 lãnh ngộ giáo thị của đức Phật bởi chính họ. Thế thì vì lý do là ký lục của những đệ tử mà phê phán rằng giá trị của nó không cao, nếu thế, thì “Phật Giáo” củng không thể thành lập được sao? 
 
Còn nữa, tình huống của Đạo Nguyên thiền sư, Thích Tôn và Gia Tô hoàn toàn không giống nhau. Dù sao chúng ta vẫn có thể đọc được quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” do thiền sư tự tay viết ra, khác với trường hợp của đức Thích Tôn và Gia Tô vì hai ngài đã chẳng lưu lại một trước tác thân bút nào để người sau có cơ hội so sánh. 
 
Cá nhân tôi thì không cho rằng giá trị của “Tuỳ Văn Ký” hoặc “Thán Dị Sao” là thấp. Nhưng cũng không tán đồng rằng đó là bản thứ hai hoặc tác phẩm được sao chép lại. Theo tôi, “Chánh Pháp Nhãn Tạng” và “Tuỳ Văn Ký” là hai quyển mang tính chất hoàn toàn khác nhau không thể so sánh một cách đơn giản được. Ví như nói, Đạo Nguyên thiền sư lấy lập trường xuất gia chủ trương muốn tu trì Phật Pháp, thì nên lìa bỏ tất cả những gì của thế tục, cắt tóc xuất gia, tâm trí chỉ chuyên chú trong việc công phu toạ thiền như thế mới xứng đáng là một hành giả Phật giáo chân chính. Có thể nói Đạo Nguyên thiền sư chủ trương chủ nghĩa xuất gia hoàn toàn và quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” đã căn cứ vào tư tưởng này mà viết thành. Do vậy nếu muốn bảo rằng cả quyển sách đó đã tràn đầy “Chủ nghĩa xuất gia” cũng không có gì quá đáng. Nhưng, ý của tôi chẳng phải bảo rằng quyển sách này vô dụng đối với người tại gia. Dù sao đi nữa, “Chánh Pháp Nhãn Tạng” vẫn là một quyển sách vô cùng tinh vi. Nay thử đọc chương cuối của quyển này là chương “Sanh tử”, đủ thấy văn chương tương đối bình dị dễ hiểu, nội dung của nó dù là người phàm phu cũng không ai không thể không biết. 
 
“Thành Phật chi đạo hữu dị hành giả. Bất tác chư ác, bất luyến sanh tử, từ bi nhất thiết chúng sanh, kính thượng mẫn hạ, ư sự bất yếm bất cầu, ư tâm vô ưu vô lự, thị danh vi Phật” 
 
(Con đường để thành tựu Phật quả tối thượng rất dễ thực hiện, đó là, chỉ cần chấm dứt các điều ác, không tham đắm vào các hiện tượng sanh tử vô thường, thi thiết tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, kính trọng bậc trưởng thượng, thương giúp kẻ hậu học, đối với những việc căn bản như thế mà tâm không suy tư bi não, chẳng nhàm chán nhưng cũng chẳng suy cầu, đó đích thực là đấng Giác ngộ) 
 
Đoạn văn trên chẳng cần phải giải thuyết, chỉ cần xem qua là biết ngay ý muốn nói gì. Nhưng biết rõ là một việc là muốn thực thi hoàn toàn như vậy thì không phải là việc dễ dàng. Cho nên xin thưa, tu hành mà càng thấy đơn giản chừng nào thì càng cần phải có pháp môn công phu cao thâm hơn là chỉ lo ngồi xếp bằng. Mà muốn tu trì cái công phu “Chỉ ngồi xếp bằng”, nếu không xuất gia thì thật rất khó để thực hiện. Quyển “Chánh Pháp Nhãn Tạng” chỉ đạo cho sự chọn lựa sau khi xuất gia tu trì theo pháp môn toạ thiền, cho nên có thể nói đây là quyển sách được viết cho người xuất gia. 
 
Còn quyển “Tùy Văn Ký”, chỉ đọc tựa đề cũng nghĩ ngay đó là sách ghi chép những ngữ lục để khai thị cho đệ tử của Đạo Nguyên thiền sư, vì thế, đương nhiên sách nyà cũng truyền đạt chủ nghĩa xuất gia của thiền sư. Chẳng qua sách này bao gồm một đặc sắc khác mà “Chánh Pháp Nhãn Tạng” không thể có, đó là những câu xuất hiện trong sách dưới đây: 

 Thuyết pháp chi dư, thuận tiện khai thị: “....” 
 Nhàm đàm chi thời, thuận tiện khai thị: “....” 
 Nhất nhựt tham thiền chi hậu, thuận tiện khai thị: “....” 
 (Ngoài việc thuyết pháp, thuận thị khai mở chỉ dạy: “....” 
 Lúc nhàn rỗi đàm luận, thuận tiện khai thị: “....” 
 Sau một ngày tham thiền, thuận tiện khai thị: “....” 
 
Cách nói “thuận tiện” khai thị của Đạo Nguyên thiền sư này đã gợi lên thiền vị một cách đấy thích thú, nó siêu việt qua lập trường đối lập của xuất gia và tại gia, có thể nói đó là châm ngôn trị gia xử thế vô cùng thích hợp có thể sử dụng cho người thế tục thông thường. 
 
Căn cứ vào điểm này, tôi hoan hỷ mạnh dạn giới thiệu quyển “Tùy Văn Ký” đến quý vị độc giả. Quý vị đọc qua từng bài một, có thể sẽ không ngừng phát hiện bao nhiêu trí huệ quý báu về thiền mà quý vị chưa từng biết đến: 
 
Bài đầu của “Tùy Văn Ký” đã ghi một đoạn với nội dung mà Đạo Nguyên thiền sư đã lấy mẫu chuyện trong “Tục Cao Tăng truyện” (3) làm đề tài để khai thị cho các đệ tử: 
 
Trong số môn hạ của một thiền sư, có một vị đệ tử xuất gia. Vị đệ tử này tâm tính rất siêng năng cần mẫn, hằng ngày chuyên cần dâng hương lễ bái Phật tượng bằng vàng và Xá Lợi Phật của ông. Xá Lợi Phật là di cốt của đức Thích Tôn. Phật tượng, Xá Lợi đều là vật của thánh giả, đối với sự vật của thánh giả mà cung kính lễ bái thì đó là việc tự nhiên, chẳng có chi phải ngạc nhiên cả. 
 
Thế nhưng, sư phụ ông đã cảnh cáo ông rằng: “Phật tượng và Xá Lợi mà con đang tôn kính lễ bái đó, sau này sẽ là một chướng ngại rất lớn cho việc tu hành của con, v5ây con hãy mau vứt đi!” 
 
Người đệ tử nghe xong, cảm thấy vô cùng khó chịu: “Con tôn kính lễ bái Phật tượng và Xá Lợi thì có điều chi không đúng?” Không riêng vị đệ tử này, tất cả chúng ta ai cũng đều nghĩ như thế cả, thật không rõ sự cảnh cáo của sư phụ đã có dụng ý thế nào? 
 
“Chúng là thiên Ma Ba Tuần ảo hoá ra đó:. Sư phụ nói thêm. (Phật giáo gọi “Ba Tuần” tức là thủ lãnh ác ma). 
 
Nghe đến đây, vị đệ tử này bực bội bỏ đi. 
 
“Nếu không tin, con cứ về mở cái rương cất giữ Phật tượng và Xá Lợi ra xem!” Sư phụ lớn tiếng nói với theo người đệ tử đang bước. 
 
Sau khi trở về, ông ta mở cái rương ra xem thí phát giác một con rắn độc đang nằm khoanh tròn trong đó. 
 
Đây há không phải là mẫu chuyện tinh vi sao? Đối với câu chuyện này chúng ta có thể có nhiều giải thích khác nhau. 
 
Ví như, khóa trưởng của một công ty đã ra lệnh cho thuộc hạ chấp hành công tác mà chính ra đó là nhiệm vụ thuộc bổn phận của ông. Lần đầu vì lý do ông có nỗi khổ bất đắc dĩ, chỉ còn cách nhờ thuộc hạ đi thay ông. Còn thuộc hạ ngay lúc được uỷ thác trọng nhiệm đã tự lấy làm mừng, vì đại diện khoá trưởng đi công tác tất nhiên sẽ được đối đãi như một thượng cấp. Cũng bởi thuộc hạ vui lòng nhận lời, nên sau lần ấy, khóa trưởng đã giao hết tất cả những nhiệm vụ công cán của mình cho thuộc hạ làm thế. 
 
Bô thuộc cứ phải nhận lãnh mãi trách nhiệm như thế nên cảm thấy mỏi mệt. Thật vậy, đại diện khóa trưởng không phải là việc nhẹ nhàng. 
 
“Làm khóa trưởng để làm gì?...Nếu việc nào cũng đẩy cho chúng ta làm thế, chi bằng chúng ta làm khóa trưởng, ông ta làm thuộc hạ thì tốt hơn!” 
 
Giống như thế, tiếng oán trách có mặt khắp nơi. 
 
Việc này khiến tôi nghĩ đến người đệ tử lễ bái Phật tượng và Xá Lợi. 
 
Thông thường đối với công việc nào mà có quan niệm tiên nhập vi chủ, thì chúng ta tin tưởng sâu đậm và không nghi ngờ để kiểm thảo cải tiến. Thái độ xử thế như vậy, kỳ thật chứa đựng rất nhiều nguy hiểm. Bởi vì những sự vật chung quanh chúng ta, đôi khi gặp nhân duyên thay đổi, thay nó vẫn đẹp đẽ, rất có thể sẽ bị hoàn toàn đổi khác. 
 
Xin kể về trường hợp mà tôi đã thể nghiệm trong buổi tiệc rượu. Có thể độc giả sẽ bảo khi bàn luận Phật pháp mà lấy sự uống rượu để dẫn dụ là không đúng đắn, nhất là trong tinh thần trì giới tinh nghiêm của Đạo Nguyên thiền sư. Nhưng, nếu nói ngược lại thì thiền há không phải chính là tinh thần vô chấp? Nếu chấp uống rượu là không tốt, thế là không hợp với tinh thần của thiền – nghe qua tựa hồ như có điều gì cưỡng từ đoạt lý, nhưng hãy hồ như có điều gì cưỡng từ đoạt lý, nhưng hãy để tôi trình bày sự thể nghiệm này trước!. 
 
Trong tiệc rượu – 
 
“Đúng lúc rồi!” có người đề nghị như thế. 
 
Từ nhà này uống tới nhà nọ, mấy trận luôn, đã đúng lúc nên dừng lại. Khi tôi định rời chỗ ngồi, có người mở miệng bảo rằng “Rượu thịt còn dư, chớ nên lãng phí, dùng sạch hẳn đi!” 
 
Tham gia tiệu rượu này, đa số thuộc vào lớp tuổi trung niên. “Chớ có lãng phí” -- phần đông họ đều mang tâm trạng như thế. Vì trải qua cuộc đời bầm dập bởi chiến tranh, số người này đã không cách nào chịu được cái gọi là văn hóa lãng phí vô ý thức của đương thời. Hồi rượu nhỏ cũng không thể có, kinh nghiệm khốn khổ ấy khiến họ khi thấy rượu thịt chưa dùng hết liền nẩy sinh ác cảm đối với thời đại nên đã tự nhiên thốt ra như thế. 
 
Thiền sinh ghét sự lãng phí, dù cho một hạt gạo củng không thể phí phạm. Thiền tăng trong thiền đường khi dùng cơm xong, đổ nước sôi vào chén tráng những hạt cơm sót, sau đó uống cạn để không lưu lại bất cứ một hạt cơm nào. Đây cũng là khóa đề tu hành trọng yếu thường ngày của thiền tăng. 
 
Xét ra, việc “Hãy ăn sạch thức ăn rồi mới ra về!” rất hạp với tinh thần không lãng phí, nhưng kỳ thực đã không phải vậy. 
 
“Thế thì, xin ông thanh toán hết đi, tôi quá no, không ăn được nữa.” câu nói tuy có vẻ vô lễ, nhưng tôi nhất định thối thác. Thế là 90% đối phương đã phản đối vì cho rằng tôi đã gây khó cho họ. Vì đề nghị thu thập tàn cuộc là mong đối phương làm chứ không phải tất cả cùng làm. Quả thật bài toán vừa gõ hơi quá sớm. 
 
Tôi cảm thấy vì sức khoẻ, thà bỏ thức ăn thừa còn tốt hơn là cố gắng để cố ăn. Đương nhiên tốt nhất là không tham dự ngay từ đầu, nếu bất đắc dĩ phải nhập cuộc thì nên đủ can đảm thể tự kìm chế lấy mình, nghĩa là khi vừa mức thì ngưng. 
 
Tu hành tọa thiền cũng cần có ý lực kiên định này. Ngay trong ba bữa ăn của thiền tăng, phải luôn chú ý ăn no tám phần thôi. Cố ép ăn nhiều uống lắm, thì tuyệt đối không cách nào hài hoà với thế giới thiền cả. 
 
Tinh thần “không lãng phí”, quý tiếc vật phẩm cố nhiên quan trọng, đáng quý, nhưng khăng khăng ôm cứng và xem nó như kim khoa ngọc luật thì trái lại sẽ dẫn đến sự chán chê; vì tuy nói “không lãng phí” nhưng miễn cưỡng ăn vào thì sẽ tổn hại sức khoẻ. Tóm lại, nên trong phạm vi vừa phải, quá trớn thì biến thành “rắn độc”. Chi bằng để thức ăn dư thừa vẫn tốt hơn. Đó là sự thể nghiệm của tôi. 
 
Giống thế, có thể mang đạo lý của Đạo Nguyên thiền sư để ứng dụng trong sinh hoạt thường ngày qua sự thu nhập trong “Tuỳ Văn Ký”. Có hai bài pháp ngữ dưới đây đư5ơc rút ra từ quyển “Tùy Văn Ký” 
 
Những người như chúng ta, sống trong cõi hồng trần thế tục, nhất là đối với số người đi làm thì không sao tránh khỏi những việc va chạm và tranh cãi, không luận là thắng hay thua cũng đều không phải là việc vui vẻ. Lúc bấy giờ nếu nghĩ đến nội dung bià pháp ngữ này, tuy là đạo lý giáo thị cho những đệ tử xuất gia của Đạo Nguyên thiền sư, nhưng nó vẫn mang lại trợ ích lớn lao cho quý vị. 
 
Một hôm, sau khi thuyết pháp, tiếp đến ngài đã khai thị: “giả thiết một sự việc ta có lý mà đối phương thì vô lý, tốt nhất không nên lấy lý chế người để đánh đổ đối phương. Nhưng tự biết có lý mà lại cố ý nhận lỗi thì cũng sẽ dễ làm hỏng việc. Tốt nhất đã không tranh thắng trên mặt ngôn từ thì cũng đừng cố ý cầu toàn mà nhận sai, hãy để sự việc tự nhiên lụn tắt. Bẵng một thời gian, khi đôi bên đều đã quên đi lời nói của đối phương thì oán hận sẽ không còn xảy ra nữa. Đây là đệ nhật tâm pháp để giải quyết sự phân tranh”. 
 
Ngày khác, sau khi tham thiền, kế đến ngài đã khai thị rằng: “Người học Phật cần nhất là không nên cố chấp ý kiến của mình, cho dù có thể hội được đi nữa cũng chưa chắc đã tuyệt đối tốt. Khi nghĩ rằng vẫn còn có cái tốt hơn cái này mà đi quảng bác tham học, hoặc tham cứu lời dạy của cổ nhân, nhưng sau đó cũng không chấp và tin vào lời cổ nhân, và, cho dù có đồng cảm đi nữa thì cũng cứ vẫn tồn nghi để tiếp tục thám cầu những kiến giải tốt hơn mới đúng”. 
 
Trong “Tùy Văn Ký” đã có rất nhiều pháp ngữ loại vô cùng thực dụng để suy ngẫm một cách thâm trầm, xin độc giả đích thân tìm đọc như thế sẽ thích thú hơn. 

Chú (1): Cô Vân Hoài Trang (1198 – 1280) Tăng (tịch) quán Tào Động Tôn, theo hầu học Đạo Nguyên và trợ lực hưng kiến Vĩnh Bình tự, sau thành đệ nhị trụ trì. 

Chú (2): Thân Loan (1173 – 1262) là danh tăng thời Liềm Thương Nhựt Bổn, và thuỷ tổ của Chân Tôn. Suốt đời tôn phụng pháp môn tha lực tín ngưỡng của Phật. Có sự khác biệt là, tha lực tín ngưỡng của Pháp Nhiên thượng nhân chủ trương “Niệm Phật vi bổn”, còn Thân Loan chỉ chủ trương “Tín tâm vi bổn”. 

Chú (3): Đường, Đạo Tuyên trước, Thu lục truyền ký từ Ngũ Đại Lương đến giữa thời Đường triều gồm 340 vị cao tăng

DƯỠNG THÀNH
(TRƯỞNG DƯỠNG, TÁC THÀNH)
“PHI THƯỜNG THỨC”
CỦA SIÊU VIỆT THƯỜNG THỨC
 NHẤT HƯ TÔN THUẦN 

 
Tuyền Châu ở vào thế kỷ 15, là trung tâm mậu dịch đương thời của Nhật Bổn và Minh triều. Trong phố chợ tụ tập không biết bao nhiêu thương gia buôn bán, phàm phu tẩu tuất, và nhân sĩ đủ hạng đủ ngành, có thể nói đó là Quan Cái Vân tập, náo nhiệt phi phàm 
 
Một hôm trên đường, mặt trời vừa xế bóng. 
 
Nhất Hư hòa thượng lưng mang kiếm gỗ thượng đeo kiếm gỗ? Một kết hợp quá kỳ lạ nên khiến mọi người đi đường cảm thấy tức cười, nhưng, Nhất Hưu Hòa thượng thì xem như không, ngài vẫn thản nhiên tiếp tục dấn bước. Đến khi những người theo coi lần lượt vây quanh, cuối cùng Nhất Hưu Hòa thượng lên tiếng: 
 
“Các vị! Các vị biết không, hòa thượng hiện nay đều đeo kiếm gỗ. Kiếm gỗ lúc nằm trong vỏ thoạt trông có vẻ giống như kiếm thật, nhưng một khi rút ra mới biết kiếm đó được làm bằng gỗ, căn bản không thể làm ai bị thương!. 
 
“Vậy à?...” Mọi người nhạo xong cười rộ rồi im lặng. Bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng nói tiếp: 
 
“Nhưng!...cũng không cách nào làm cho người sống trở lại”. 
 
Lúc ấy Nhất Hưu Hòa thượng đang tuổi 42, đã qua tuổi trung niên. 
 
Ngài đã từng là một tiểu tăng nổi tiếng là bậc có trí. 
 
Ngài cũng đã từng, từ nhị tỳ nơi gò chôn người chết, nhặt đầu lâu buộc trên cán trúc, trong một buổi sáng nhằm ngày Nguyên Đán đi qua từng nhà và la lớn: “Mọi người hãy đển xem!” lúc bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng dụng tâm khổ sở để dạy dỗ thế nhân lưu ý về chân lý thế gian vô thường. 
 
Đã từng là thị giả, hầu hạ thầy mình là Hoa Tẩu, khi cùng thầy đến Đại Đức tự để tham gia Phật sự của tiên sư, Nhất Hưu mình khoác áo vải, chân mang giày rơm đứng giữa chúng tăng mặc đầy những cà sa hoa lệ nên biến thành một đối tượng khiến đám đông tập trung ánh mắt nhìn ngài, thậm chí thầy của ngài cũng phải nheo mày. Lúc bấy giờ Nhất Hưu Hòa thượng ngang nhiên tuyên bố: “Tôi là con người thật hoàn toàn, tôi không cần thiếtphải nhờ đến quần áo để trang sức”. Lúc ấy Hoa Tẩu vì sự hấp dẫn bởi đởm thức của đệ tử nên đã bảo rằng: “Sau này, kẻ có thể kế thừa thiền phong của ta, chỉ có Nhất Hưu Tôn Thuần”. 
 
Nhưng, đến thời vãn niên, khi ở tuổi 77 Nhất Hưu đã dan díu với phụ nữ, vị nữ tánh này đã là đối tượng yêu thương của ông, và ông bắt đầu trong đòi sống ái dục. Trong thi tập “Cuồng Vân tập” của Nhất Hưu đã miêu tả trắng trợn những sinh hoạt ái dục không ăn khớp mấy với hình tướng của một thiền tăng 
 
Đây chính là thiền tăng nằm “ở giữa hư thực” --cuộc đời của Nhất Hưu hòa thượng. 
 
Sở dĩ nói “Ở giữa hư thực” bởi lẽ trong làng xóm vẫn còn lưu truyền “Nhất Hưu truyền kỳ” mà nhiều phần mãi đến thời đại Giang Hộ (thế kỷ 15) mới thành lập, còn tư liệu truyềy kỳ thì có rất nhiều truyện do người sau này thêm thắt. Dẫu sao, lời nói và hành động của Nhất Hưu hòa thượng đích thực đã có nhiều điểm khác thường. Vì thế ông bị người đời gọi là “Điên cuồng thiền sư” hoặc “Phi thường thức thiền sư”, điều đó không phải là không có lý. 
 
Vào cuối niên đại nhà Đường có vị Vân Môn Văn Yêm thiền sư. Chuyện kể rằng, khi ngài bị hỏi “Cái gì là Phật?”, ngài thoáng nghĩ ngợi và liền trả lời: “Bảng quẹt phân!” Trước đây chúng ta cũng đã từng đề cập đến “Bảng quẹt phân” là vật rất ô uế. Dụng ý của Vân Môn thiền sư là nhắm vào cái thường thức của “Phật là chí cao vô thượng”. Nếu Phật là cái gì cao vời thì trên cõi trần này có sự cách xa không thể vói được, thế thì người phàm tục chúng ta làm sao có thể nhận được sự phò hộ của từ quang Phật Đà? Còn những người tu hành làm sao có thể từ sự tu hành mà thành Phật? Có thể nói quan niệm xem Phật cao cao tại thượng, xa không vói được, đó là một chướng ngại rất lớn cho việc tu hành. 
 
Có một vị cao tăng khác ở vào đời Đường là ngài Thạch Đầu Hy Thiền thiền sư, một lần nọ, cùng với sư huynh đồng môn lên núi làm việc, làm việc cần phải mang theo dao liềm nhưng sư huynh lại quên mất. Do vậy ông bảo với Thạch Đầu: Này! Đưa đầu cán cho ta!” Thạch Đầu thiền sư tức khắc trả lời: “Lấy cán không thể sử dụng!” 
 
Thông thường khi cầm dao đưa cho người khác, cán dao phải hướng ra ngoài và lưỡng hướng vào trong, đó là sự lễ phép thường thức thông dụng mà chúng ta đã được dạy dỗ từ bé. Nhưng, vị sư huynh này chỉ nhớ thường thức thông thường, còn dao liềm trọng yếu thật sự lại quên mang theo, điều đó phải chăng là gốc ngọn đã bị đảo ngược? Lúc này cấn phải phát huy tác dụng chân chính đó là lưỡi dao chứ nào phải cán dao! Dụng ý của Thạch Đầu thiền sư chính là ở đó. 
 
Thiền ở trong thiền tự -- Đây là quan niệm thông thường. Nếu tin tưởng và gìn giữ quan niệm này, nhất là ở vào xã hội công thương nghiệp phồn thịnh bận rộn hiện tại, e rằng chúng ta không cách nào có thể học thiền được. “Đợi lúc sau khi sự việc xong xuôi thì đến thiền tự!” Nhưng, cái thời khắc hứa hẹn này e rằng vĩnh viễn chờ hoài mà không bao giờ đến. Hay thử bỏ quan niệm này đi! “Thiền đâu chỉ có riêng nơi chốn cửa thiền”, nếu có thể kiến lập được điều phi thường thức này, thì đây chính là thời khắc mà bạn có thể bắt đầu học thiền. 
 
Nhất Hưu hòa thượng đã ở trong am Nhu Ý Đại Đức Tự (1), chưa được mười hôm thì bỏ đi, lúc sắp rời khỏi nơi đây, ông đã lưu lại bài thơ như sau: 

 Trú am thập nhựt ý man man, 
 Cước hạ hồng tơ tuyến thậm trường 
 Thu nhựt quân lai như vấn ngã 
 Như hành tửu tứ hựu dâm phường 
 
Chữ “Quân” trong thơ là nói người đối đầu bình sanh của Nhất Hưu hòa thượng là sư huynh của ông -- Dưỡng Tẩu hòa thượng. 
 
Ý của Nhất Hưu bảo: “Dưỡng Tẩu thật thà cố gắng ơi! Sao ông cứ mãi cho rằng tại chùa mới có thể tu thiền, riêng tôi chỉ ở có mười hôm đã cảm thấy chán phiền, đại khái thiền của tôi là Thiền ở trong dâm phòng tửu quán!...” Thuyết pháp như thế là một loại quan niệm siêu việt thế tục. 
 
Trong quan niệm của người thông thường, một năm chia ra làm 365 ngày, để gán cho ý nghĩa khác nhau của mỗi ngày, như: “Hôm nay là ngày 15 tháng 8”, “Hôm nay là sinh nhật của tôi” v.v...., có thể nói, “Hôm nay” thành một cái ngày đặc định. Sau khi mỗi ngày được đặt lên cái nhật kỳ, chúng ta thường thường vì câu nệ nhật kỳ mà bỏ lỡ biết bao thời cơ hy hữu. Vì để đả phá quan niệm này cho nên Vân Môn thiền sư bảo rằng

 “Ngày ngày đều là ngày tốt” 
 
Chỉ cần trong tâm có Phật thì mỗi một ngày, mỗi một giờ đều là thời cơ tốt”. 
 
Phàm người ta cho là mồng 1 tháng giêng là ngày bắt đầu của một năm, cho nên cần phải ăn mừng –đây cũng là quan niệm cố hữu. Nhưng Nhất Hư hòa thượng đối với quan niệm này thì cười khỉnh. 
 
“Người kinh thành ơi! Hãy xem chiếc đầu lâu này...Nhìn đi! Ở đây có hai lỗ hủng, trước đó ở đây có hai tròng con mắt! Nhưng, hãy ngám cái bộ dạng hiện nay kìa! Đáng vui không? Đáng chúc mừng không?” 
 
“Sự tu hành trong Phật giáo cốt ở thực tiễn trugn đạo, nếu cứ nhấn mạnh thiền là phi thường thức của siêu vật thường thức, điều có phải là quá thiên chấp?” Người có nghi vấn này chắc chắn đang bị lẫn lộn giữa ý nghĩa “Trung Đạo” và “Trung gian” 
 
Trung đạo không phải là trung gian. Ngày xưa Thạch Sương hòa thượng ở triều nhà Đường tuy đã từng bảo “Trăm thước đầu cán làm sao tiến thêm một bước”, nhưng tôi vẫn cho rằng chỗ trăm thước ở đầu cán mà muốn tiến thêm một bước đó là “Trung đạo”, Nếu theo “Trung gian” mà nói, tức là ½ của 100 thước --chỗ 50 thước. Nếu chúng ta ở ngay chỗ 50 thước, giữa điểm bất tri bất giác thì vị trí này đã là trung điểm. Thông thường một số phần tử trí thức tự cho là hành sự của mình không thiên, vô ngã: trái lại thì đúng hơn! Vì như thế đã thành một người cố chấp không linh hoạt,. Có thể nói “trung gian” tức là thường thức và “trung đạo” tức phi thường thức, vì thế, phi thường thức mà thiền đã đề cập kỳ thực chính là tư tưởng trung đạo của Phật giáo. 
 
Trong “luận ngữ” Khổng Tử từng bảo “Hương nguyện, đức chi tặc dã” (“Luận ngữ. Tử Lộ”) , cái gọi là “Hương Nguyện”, là nói trong một thôn, loại nguỵ quân tử cố ý làm ra vẻ như kẻ trung hậu có đạo đức để người ta vui thích. Nếu nói theo thời hiện đại thì một số phần tử trí thực miệng luôn nhơn nghĩa đạo đức nhưng lòng lại giảo hoạt. Khổng Tử ghét nhất là người thuộc loại hình này. Còn nói: “Bất đắc trung hình nhi dữ chi, tất đã cuồng quyên phu? Cuồng dã tấn thủ, quyên giả hữu sở bất vi dã” (“Luận ngữ. Tử Lộ”). Khổng Tử cho rằng trung đạo là điều khó cầu, cho nên thoái lùi mà cầu điều sau, tức là lấy cuồng giả và quyên giả. Cuồng giả, ý nói con người ý khí phong phát, chí ở tiến thủ; Quyên giả, ý nói phẩm tánh cao khiết, con người hữu sở bất vi. Không tử cho rằng hai loại người này đều là loại người tiếp cận với Trung đạo, còn những phần tử trí thức xảo trá chính mình là người lìa xa Trung đạo nhất. Có thể nói “Trung đạo” của Khổng Tử cũng là một loại phi thường thức. 
 
Pháp hiệu của “Nhất Hưu” do thầy của ngài là Hoa Tẩu đặt. Nhất Hưu hòa thượng khi tiếp nhận tên này đã từng làm một bài ca như sau: 
 “Tùng hữu lậu địa hồi quy vô lậu địa, tạm thả nhất hưu 
 Vũ yếu hạ, phong yếu quát, nhất thiết do tha” 
 
Hữu lậu địa là chỉ cho thế giới phiền não, vô lậu địa là nói về thế giới khai ngộ. Bài ca này ý nói: “Từ con dường thế giới sa bà thông đến thế giới cực lạc, nghỉ ngơi một lát”. Nhưng “nghỉ ngơi một lát” của Nhất Hưu chẳng phải để rồi đình trệ ở đó và không tiến tới, sau khi nghỉ ngơi, ngài là con người không chịu thua cuộc cho dù trong gió lớn mưa to, vẫn nghểnh đầu thẳng ngực bước tới, cho nên sau bài ca này còn có những câu kế tiếp: 
 “Mưa ơi! Rơi đi, rơi đi! Gió ơi! Thổi đi, thổi đi!
 
Cuồng khách điên cuồng dẫm lên cuồng phong, lai vãng cả trong dâm phường men rượu”. 
 
Những nơi Nhất Hưu đến, nếu không tửu lầu thì thanh lâu. Đợi đến sau khi no say mới trở về chùa, nhưng về chùa chẳng qua mươi hôm rồi lại bắt đầu tìm rượu làm vui. Đối với sự không đầu hàng chuyện phàm tục của Nhất Hưu, thì âu cũng là thiền pháp đặc biệt độc đáo của ngài? 
 
Nhưng, khi Nhất Hưu lâm chung đã từng lưu lại một số giới cấm cho đệ tử, đó là: 
 
“Sau khi bần tăng quá vãng, trong số môn đồ đệ tử nếu có người nào ở chốn sơn lâm dưới cây hoặc ra vào tiệm rượu dâm phường mà mở miệng đàm thiền thuyết đạo, thì những kẻ như thế chính là đạo tặc của Phật pháp, là oán địch của chúng ta”. 
 
Chính Nhất Hưu đã ra vào tiệm rượu dâm phường nhưng lại cấm môn nhân ra vào chốn ấy. Nhưng ở đây đã không có bất cứ điểm mâu thuẫn nào. Nhất Hưu hòa thượng đi vào tiệm rượu dâm phường nhưng kỳ thực chính là chỗ “Một trăm kẽ một thước”. Hơn nữa ngài biết sau này trong môn nhân sẽ không có người đạt đến trình độ như mình, nếu muốn học theo đường đi nước bước giống nhau thì khác nào vẻ cọp không thành cọp mà trái lại trở thành giống chó. Thiền chân chính phải là độc nhất vô nhị. 
 
Nhất Hưu hòa thượng rất kính ngưỡng Hư Đường Trí Ngu thiền sư dưới thời đại Nam Tống Trung Quốc, ngài thường tự xưng là pháp tôn (cháu đạo) đời thứ 7 của Hư Đường thiền sư. Vì thế khi ngài lâm chung đã để lại di kệ như sau: 

 “Tu Di (2) chi nam bạn, hữu thuỳ tri ngô thiền 
 Túng lệnh hư Đường lai, bất trực bán văn tiền” 
 
“Tại Tu Di sơn trong thế giới rộng lớn này, có ai có thể lãnh hội thiền của ta? Dù cho Hư Đường tái thế, cũng vô phương vì không đáng nữa xu” Nhất Hưu đã đại ngôn lộng ngữ đến thế. Đối với Hư Đường thiền sư người mà ngài vẫn hết sức kính ngộ ấy thế nhưng ngài vẫn có ý muốn vượt qua. 
 
Tóm lại, thiền của Nhất Hưu hòa thượng có thể nói là một loại Thiền phi thường thức nhưng có thể lý giải. Chúng ta tuyệt đối không thể sử dụng thông tục thường tình để phê phán ngài. 

Chú (1): Lâm Tế Tôn đại đức tự thuộc phái Đại Bổn Sơn. Tọa lạc ở Tử dã bắc khu kinh đô thị. Tây nguyên năm 1324 do Đại Đăng quốc sư sáng lập kiến tạo. Trong chùa ngoại trừ Chân Châu Am mà Nhất Hưu hòa thượng từng ở, còn có Huỳnh Mai Viện, Đại Tiên Viện v.v. là cổ tích trứ danh sở tại. 
Chú (2) là núi cao do sức tưởng tượng trong vũ trụ quan của người Ấn Độ đời xưa.

BẤT SANH CỦA PHẬT TÂM
 BÀNG KHUỆ VĨNH TRÁC 

 
Nói đến Bàng Khuệ thiền sư, thì không thể không đề cập đến “Bất Sanh thiền” của ngài, đây là một loại thiền pháp khác với mọi người, nó làm cho người cảm thấy khoáng đạt vô hạn, khoát tịnh đạm bạc, nhưng lại giàu về Đại Chúng tính, trong tầm thường đã xen lẫn mùi vị đạc thù. Không giống thiền gia hiện đại, chỉ một mực dạy người ngồi thiền, chỉ ngồi thiền! Như tuồng nếu không trải qua hình thức ngồi thiền thì không thể nào liễu giải thiền được – như thế là bị câu nệ không thông, chẳng những thế còn làm cho người đi làm hằng ngày nhưng có nhân duyên với thiền càng ngày càng xa cách. 
 
Bàng Khuệ thiền sư đề xướng “Bất Sanh thiền”, người ta có thể tự hiểu rằng đây là loại thiền mà chúng ta có thể thực hành được, và qua nó, chúng ta có thể có đủ thuận duyên để tiến vào thế giới của thiền. 
 
Bàng Khuệ Vĩnh Trác ( 1622 – 1693), là một cao tăng của Lâm Tế Tôn ở thời đại Giang Hộ. Ông chủ trương phế trừ công án, trực tiếp thâm nhập Phật tánh bất sanh bất diệt, đây tức là “Bất Sanh thiền” (Bàng Khuệ thiền sư đã không tự xưng như vậy, mà do người hậu thế tặng cho danh xưng ấy). Lúc bấy giờ có rất nhiều vua chúa vì kính mộ dại danh của ngài mà theo quy y tam bảo. Tương truyền rằng, đệ tử theo ngài học pháp nhiều đến con số 5 vạn. 
 
Nội dung dưới đây là tiết lục từ “Bàng Khuệ thiền sư pháp ngữ tập” để thuyết minh “Bất Sanh thiền” của ngài, tạm dịch như sau 
 
Nay ta muốn nói với các vị rằng, có một món đồ vật mà chúng ta vừa sanh ra là đã có sẵn, vật ấy không gì khác hơn đó chính là một trái tim của Phật. Quả tim Phật này vốn vô sanh, hơn nữa nó linh minh đổng triệt. Bởi vì không sanh cho nên vạn sự được điều hòa đầy đủ. Bất sanh cho nên điều hòa đầy đủ điều đó chứng minh rằng: Nay các vị hướng về ta, khi chuyên tâm ngưng thần để nghe ta diễn giảng, tai các vị tuy cũng đồng thời nghe chim kêu ở phía sau, nhưng không có động niệm để phân biệt tiếng kêu đó là tiếng quạ hay chim sẻ kêu, đây tức là lấy Phật tâm bất sanh để nghe. Giống như vậy, vạn sự vạn vật vì bất sanh mà sẵn gồm đầy đủ tính điều hòa. Đây là chứng minh của sự bất sanh. Nếu khi đó có thể lấy Phật tâm bất sanh mà linh minh tự xử, mà quyết định không nghi, thì người ấy tức là Phật sống, là một đấng Như Lai. Bởi vì có thể lấy Phật tâm để tự xử nên tôn môn của chúng ta được gọi là Phật tâm tôn. 
 
Các vị tại tọa, các vị ngồi hướng mặt về đây, đừng nên phân biệt những tiếng kêu phía sau là quạ hay chim sẻ, tiếng chuông hay tiếng trống, tiếng đàn ông hay tiếng đàn bà và tiếng người lớn hay tiếng trẻ nít v.v., các vị chỉ nghe mọi thứ tiếng, rõ ràng nhưng không phân biệt, đây tức là đức dụng tâm linh minh. Cái gọi là Phật tâm, là bất sanh linh minh vậy, đây tức là chứng minh của tánh linh minh. 
 
Mọi người chúng ta sanh ra đều sẵn có “Phật tâm”. “Phật tâm” này trong danh tướng Phật học truyền thống gọi là “Phật tánh”, cũng tức là tánh có khả năng thành Phật, thể tánh thuần tịnh rỗng lặng, an lạc tuyệt đích. Dù là phàm phu như chúng ta, một khi sanh ra là đã sẵn có đủ Phật tánh, cho nên phàm phu cũng có thể thành Phật. Nếu nói ngược trở lại, nếu không có Phật tánh, thì phàm phu không thể nào thành Phật... đây là giáo nghĩa Phật giáo truyền thống.
 
Bàng Khuệ thiền sư gọi “Phật tánh” là “Phật tâm của bất sanh” hoặc “Bất sanh”. Nếu nói rõ hơn, tức là ý nói “Phật tâm bất sanh bất diệt”, cũng có thể nói là “Phật tâm siêu việt sanh diệt”. Nhưng sở dĩ Bàng Khuệ thiền sư không nói “Bất sanh bất diệt’, mà chỉ nói “Bất sanh”, bởi lẽ ngài lấy lý do như sau để thuyết minh: 
 
Nhưng, ta sở dĩ nói “Bất sanh” mà không nói “Bất diệt” là bởi vật đã bất sanh thì làm gì có sự bất diệt? Đã nói bất sanh, cũng tức là nói rõ cái lý bất diệt, cho nên nói thêm bất diệt là vô ích. Từ xưa đến nay trong kinh luận đa phần gọi bất sanh bất diệt. Nhưng lại không chứng minh được đạo lý của nó, vì thế mọi người chỉ nhớ bất sanh bất diệt, mà không hiểu rõ một cách chắc chắn về lý lẽ bất sanh. 
 
Mỗi con người chúng ta vì vốn có sẵn “Phật tâm bất sanh”, cho nên chúng ta có thể nghe được tiếng quạ kêu và tiếng chim sẻ kêu, “Như Thật tri kiến” như thế thì đối với những hình thái hiện hữu của vạn vật vật có thể tri kiến như thật, rõ rõ ràng ràng mà không phân biệt, Phật giáo gọi đó là giác ngộ. Nếu chúng ta có thể lấy “Phật tâm bất sanh” nầy để hiểu biết vạn vật trên thế gian, thế thì đâu còn có gì để phiền não và lo lắng? 
 
Chỉ cần mọi người có thể cứu cực Phật tâm linh minh và bất sanh nầy mà quyết định không nghi ngờ Phật tam bất sanh của chính mình, thì có thể nói là từ hôm nay đến nhiều đời ở vị lai đích thị là Như Lai Phật sống. Nếu “Phật” chỉ là một danh tướng, như thế nếu người giác ngộ được lý bất sanh thì đó chính là ở nơi căn bản của chư Phật. Phật tâm bất sanh là nguồn gốc của tất cả, cái mở đầu cho tất cả. Không có bất sanh, thì không có nguồn gốc của tất cả, vạn vật cũng không có cái gọi là mở đầu, cho nên nói Phật sanh bất sanh là căn bản của chư Phật. 
 
Có thể nói, nếu có thể hiểu rõ chân nghĩa “Bất sanh” của Bàng Khuệ thiền sư thì có thể thành Phật, thậm chí với sự hiểu biết tức là Phật rồi. 
 
Các vị tại tọa hôm nay, không người nào là phàm phu tục tử. Bởi vì các vị tại tọa đều có một Phật tâm bất sanh. Nếu có ai tự cho mình là phàm phu thì xin mời ra ngoài! Để chúng tôi xem thử rốt cuộc là thế nào phàm phu, nhưng xin thưa đây quả thực là một việc tương đối ân hận... 
 
Được rồi! Các vị tại tọa tuy không ai là phàm phu tục tử cả, nhưng nếu nay bạn từ chỗ ngồi đứng lên đi tới cửa, khi sắp bước qua ngạch cửa có người bước đến không những cản trở đường đi của bạn mà còn cố ý đụng ngã bạn nữa, bởi vậy mà bạn giận dữ, lúc bấy giờ lấy “Tâm của Tu La (1)” thay thế Phật tâm, như thế tức khắc từ Phật biến thành phàm phu. 
 
Tất cả điên đảo mê vọng đều là như thế, vì tham lấy những việc lợi ích cho mình mà đấu tranh với người khác, lúc ấy Tu La tâm thay thế Phật tâm mà mê mất tự ngã, bất cứ lợi ích dù lớn đến đâu cũng đề vô bổ. Nếu có thể không tham, không mê luyến tự thân hoặc sự vật có lợi ích cho mình mà chỉ dựa theo Phật tâm tự xứ, bất kể ngoại tại sự vật thế nào, đều không thể mê mất tự ngã. Đây tức là cái gọi là lý do lấy Phật tâm bất sanh tự xứ. Vì thế nếu có thể quyết định liễu ngộ Phật tâm bất sanh, trong sự liễu ngộ ấy thật xứng đáng gọi là Phật sống Như Lai. 
 
Tiếp đến chúng ta hãy xem vấn đáp giữa Bàng Khuệ thiền sư và một vị tăng nhân. Nội dung vấn đáp tuy bị chê là hơi dài dòng, nhưng vì muốn độc giả có thể hiểu một cách đầy đủ rõ ràng phương pháp thực tiễn của điều gọi là “Bất Sanh thiền”, thế nên bút giả cố gắng không sử đổi và cắt giảm để nó hiện ra một cách hoàn chỉnh – (Dịch văn): 
 
Tăng nhân hỏi rằng: “Tôi sanh ra tánh vố nóng nảy, gia su nghĩ đủ cách cũng vô phương cải chánh cá tánh tôi. Tuy là tôi tự biết đó là một bệnh tương đối không tốt và cũng biết rằng không sửa không được, nhưng vì sanh tánh như thế nên bất cứ thế nào cũng vẫn không sao sửa nổi, hy vọng lần nầy có thể được sự chỉ thị của thiền sư mà cải tiến nó. Nếu thật có thể sửa được cái tật xấu nầy, tôi sẽ cả đời ghi tạc trong lòng, cảm kích vô tận”. 
 
Thiền sư đáp rằng: “Đây là vấn đề lý thú. Không biết cái bệnh nóng nảy lúc nầy phải chăng ở trên mình ông, nếu có, xin mang ra đây để ta sử cho!” 
 
Tăng thưa: “Hiện tại không có, không biết lúc nào nó sẽ đột nhiên phát tác”. 
 
Thiền sư bảo: “Đủ thấy cái bệnh nóng nảy không phải do trời sanh ra! Bất cứ lúc nào và nơi đâu, khi nào nhân duyên tụ hợp thì nó tự nhiên phát sinh. Vì do tham đắm sắc thân của mình, việc gì cũng nghĩ mãi về sự vật ngoại tại. Bởi do dục niệm tư ngã quá mạnh nầy mà nóng nảy tự nhiên theo đó phát sanh. Vì thế nếu nói cái bệnh nóng nảy nầy là trời sanh, tức là đặt cha mẹ vào chỗ bất nghĩa, có thể nói đó là người đại bất hiếu. Phải biết rằng những cái mà cha mẹ đã cho chúng ta, ngoại trừ một tâm Phật ra thì đã không có bất cứ một cái gì khác. Bởi tự mình tham đắm sắc thân mà ra tư ngã, nếu cho rằng trời sanh như thế thì đã sai lớn và sai đặc biệt. Không có ý niệm tư ngã thì tự nhiên cái tánh nóng nảy cũng không biết từ đâu mà sanh, tất cả vọng tưởng điên đảo cũng thế. Bởi vì tham trước tự thân, cho nên có dục vọng tư ngã phát sanh và vì do ở sự che đậy của dục vọng ấy, mà đối với tất cả sự vật lại nẩy ra vọng tưởng điên đảo. Chúng sanh bởi vì tập tánh sử nhiên, mà cứ lầm cho rằng vốn là trời sanh như thế. Đã không phải chỉ một người bạn này như thế mà có thể nói hầu hết người đời đều có vọng tưởng điên đảo như vậy. Vọng tưởng thay thế Phật tâm, muốn dập tắt vọng tưởng thì lại thành ra lấy vọng mà đình vọng, bởi do kết quả tích trữ không ngưng của vọng niệm mà tạo thành tập khí không có xuất xứ, bỗng nhiên mang nó đổ cho thiên tánh mà cho rằng không phương cải chánh. Nhất thiết phải nhớ! Nên nhớ! Nhất niệm sanh mê thì ác nghiệp tự khởi, như nước chảy vào một cái lỗ thấp, một khi rơi vào tam ác đạo (2), e rằng trải qua vạn kiếp cũng không thể phục sanh. Ví như cho cái việc nguyên nó là ác, nhưng do vì đó là sở thích của mình nên một khi người khác chán ghét thì sanh lòng hận oán, hơn nữa, điên đảo thị phi, gọi ác là thiện. Hoặc vì tập khí tự tư, khiến cho nguyên là việc thiện nhưng vì mình ghét do đó một khi người khác vui thích, thì lại bảo rằng có gì để đáng mừng, hơn nữa, điên đảo thị phi, gọi thiện là ác. 
 
Đối với tất cả sự vật bởi vì nhất niệm sanh mê mà điên đảo thị phi, không phân biệt được thiện ác, từ đó sau khi chết chắc chắn sẽ rơi vào con đường súc sanh, luân chuyển đến khi sanh vào trong loài chim, thú, trùng, cá và đợi đến khi chịu hết nghiệp báo lại rơi xuống địa ngục, mãi bị đọa đày chịu đụng vô lượng thống khổ, thiết nghĩ nếu muốn tái sanh vào cảnh giới loài người, cơ hội đó giống như chờ đợi hoa ưu đàm nở (3) rất là xa xăm mù mịt. Mỗi người tại tọa đều là những người đang rất hạnh phúc, đã được sanh ra làm người mà còn được nghe Phật pháp. 
 
Nay mọi người ở đây còn nghe được Phật tâm bất sanh mà mọi người đều có, Phật tâm nầy vì bất sanh nên là đại pháp của linh minh, cũng như hoa ưu đàm nở thật quy, khó tìm. Nhưng nguyện mọi người vì thế mà hiểu rõ – chúng sanh bởi vì tham trược tự thân mà sanh mê, vì mê mà tạo nên tập khí làm cho chính mình nghĩ rằng trời sanh là thế -- Sai lầm như thế nếu có thể quyết định lấy Phật tâm sự xứ mà không sanh mê nữa thì tốt biết dường nào. Nhưng, trên thực tế chúng sanh thường vì không thể nộ sự tôn quý của Phật tâm mà cứ chấp mê nên không giác ngộ. Nên biết, phàm phu kỳ thực chỉ là nhất thể, chẳng phải ở ngoài tâm thức còn có một món vật khác có thể khai ngộ thành Phật. Mong rằng mọi người có thể tỉ mỉ thể hội cái đạo lý nầy. 
 
Nguyên nhân ông nóng nảy, là bởi khi sự vật ngoại tại không thuận theo tâm lý của ông, do sự ham muốn của tư ngã đã làm cho ông muốn gấp rút sử đổi nó cho nên mới cảm thấy nóng nảy, giống như cái bệnh vì dục vọng tư ngã mà sanh nhưng lại cứ cố chấp cho là trời sanh, vì thế đã đặt cha mẹ vào chỗ bất nghĩa, có thể nói đó là người đại nghịch bất đạo. Còn nữa, nếu quả thật là do trời sanh, tất nhiên không giây khắc nào có thể lìa khỏi thân ông, thế thì muốn cải sửa cũng không thể được. Đã chứng minh rằng không phải trời sanh, đủ thấy vẫn là cái gì có thể sửa được. 
 
Bệnh dễ nóng nảy này là bởi khi lục căn (4) đối với lục cảnh (5), do ở tham trước tự thân nên khi ngoại cảnh không vừa lòng thì cái k hông vừa lòng lúc ấy tự nhiên hiển hiện. Nếu không phải nghĩ cho mình, thì tự nhiên cũng không có cái bệnh như thế phát sanh. 
 
Hôm nay mọi người đều đã biết về đạo lý nầy, vậy hãy thử dùng thời gian một tháng để thử chiến thắng tự ngã và lấy Phật tâm bất sanh tự xứ xem sao! Nếu có thể hàm dưỡng, nuôi lớn thói quen lấy Phật tâm bất sanh tự xứ ấy và tin rằng mọi người chắc chắn có thể lần lần không vị ngoại vật mê hoặc mà sanh vọng niệm và nếu có thể thời thời khắc khắc đều đặt ở Phật tâm bất sanh, thì đó chính là Phật sống Như Lai hiện thế. Các vị tại toạ! Mọi loại ví dụ trước đây, hôm qua đã chết, mọi loại vị dụ hôm nay phát sanh. Thì cứ cho là hôm nay bắt đầu một cuộc hành trình mới mẻ của nhân sinh! Có lẽ đời ngư2ơi tự nó vốn có rất nhiều sự vật làm trở ngại các bạn nên khiến các bạn không thể cách nào nghe tin để đi vào thực tiễn, hiện nay cứ cho là thay đổi một nhân sinh mới, không lo không lắng, sau khi nghe đại pháp nầy, có thể phụng hành tức khắc, tất nhiên thành tựu sẽ đến. 
 
Nếu dựa vào lời nói của Bàng Khuệ thiền sư thì những việc ấy dường như chúng ta đều có thể làm được. Chúng ta hãy thử thực tập một tháng xem sao! Nếu giữa đường mà không may thất bại thì xin bắt đầu lại nữa. Tóm lại, việc làm cho con người mười phần vui vẻ, vì lẽ làm như vậy, không những có thể trừ được phiền não là không có thời gian đến thiền đường nên không học thiền được, mà hơn thế còn có thể ở trong sinh hoạt thường ngày đi vào thực tiễn của nó. “Bất sanh thiền” như thế không phải chính là một loiạ thiền pháp thích hợp với những con người hiện đại như chúng ta sao? 

Chú (1): Giản xưng của A Tu La, là một loại quỷ thần thường chiến đấu với trời Đế Thích 

Chú (2): Phật giáo đem thế giới chưa khai ngô nên bị luân hồi chia làm 6 đường, tức là thiên, nhân, tu la, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Trong ấy 3 đường súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục là thế giới khổ đau không thể chịu nổi, cho nên gọi là “Tam ác đạo” 

Chú (3): Trong truyền thuyết là loại thực vật cứ mỗi 3000 năm mới nở hoa một lần. 

Chú (4): Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, Mắt là thị căn, tai là thính căn, mũi là xú (ngửi) căn, thiệt (lưỡi) là vị (mùi) căn. Thân là xúc (chạm) căn, ý là căn của tư duy suy nghĩ. Căn có nghĩa là năng sanh, như cỏ cây có căn nên có thể sanh nhánh và thân cây; thức dựa vào căn mà sanh, có nhãn căn thì có thể sanh nhãn thức, ngoài ra cứ theo đó mà suy. 

Chú (5): Còn có tên là lục trần, tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, vì thế lục cảnh là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, cảnh được tiếp xúc, là đối tượng của lục căn, nên gọi là lục cảnh.

ĐOẠN TRỪ LƯỚI MÊ CỦA NHÂN SANH
 BẠCH ẨN HUỆ LẠC 

 
Bạch Ẩn thiền sư (1685 – 1768) là một thiền tăng trung kỳ ở thời Giang Hộ, cũng là trung hưng tổ sư của Lâm Tế Tôn. Thiền sư biệt hiệu là Hộc Lâm, Húy hiệu Huệ Hạc, người nước Tuấn Hà. Năm 1699 xuất gia tại thôn làng chùa Tòng Âm, sau đó du lịch nhiều nước, và đạ từng theo học với những đại sư như Tức Thông của Đại Thánh Tự Chiuể Tân, Mã Ông của Đại Viên Thoại Vân tự, Mỹ Nùng và Dịch Thiền của Chánh Tôn Tự Y Dữ Tòng Sơn v.v...Sau nầy, vào năm 1708 lại đến tu hành ở Anh Nghiêm Tự của Việt Hậu Cao Điền. 
 
Đưong thời Bạch Ẩn thiền sưtự cho rằng đã đạt đến cảnh giới khai ngộ giải thoát nên cảm thấy rất đắc ý, tự mãn. Mãi đến một lần có cơ duyên ngẫu nhiên quen biết Chánh Thọ lão nhân của Tín Châu Phạn Sơn (Đạo Cảnh Huệ Đoan, 1642-1721), mới lần lần tham thiền liễu ngộ được tâm thức ngã mạn của mình và phản tỉnh sửa lỗi triệt để, cuối cùng như thật mà đạt đến cảnh giới đại triệt đại ngộ. Sau khi đại ngộ, ngài vẫn lưu liạ học pháp 8 tháng với Chánh Thọ lão nhân và sau đó mới rời khỏi Tín Châu để tiếp tục hành trình vân thủy của ngài. Do Bạch Ẩn Thiền sư không màng danh lợi, nên đến khi tịch ngài vẫn ở tại một ngôi miếu nhỏ trong thôn, lấy sự viết lách và thuyết pháp để hóa độ chúng sanh. Trước tác của ngài gồm có “Ngữ Lục” (102 quyển), “Hòa An Quốc Ngữ)”, “Viễn La Thiên Phủ”, “Dạ Thuyền Nhàn Thoại” v.v.. Ở trong “Bích Sanh Thảo” tự truyện của ngài, bức thủy mặc đồ ve bằng mực nước cũng triển hiện ý cảnh độc đáo đạc biệt của cá nhân thiền sư. Còn môn hạ ngài như Đông Lãnh Viên Từ, Nga Sơn Từ Điệu v.v...., ai nấy đều tài trí xuất chúng. 
 
Bạch Ẩn thiền sư ở tuổi 15 đã vào cửa Phật, năm lên 19, vì bởi trong lúc tu hành có một nghi vấn nhưng nghĩ trăm bề mà không giải nổi nên tự cảm thấy khổ não vô cùng. Nghi vấn nầy có liên quan đến truyền thuyết của Nham Đầu hòa thượng, một vị cao tăng đời Đường bị đạo tặc trảm thủ. 
 
Nham Đầu hòa thượng sanh tiền thường nói với đệ tử rằng: “Lúc ta chết chỉ có môt tiếng rên than”. Quả nhiên, khi đạo tặc muốn chặt đầu của Nham Đầu hòa thượng, chỉ nghe ngài la lớn một tiếng, thiên hạ đồn rằng tiếng la ấy truyền xa ngoài mấy dặm. Bạch Ẩn thiên sư đối với truyền thuyết ấy cảm thấy hết sức buồn chán. Bởi vì nếu cả cao tăng như Nham Đầu hòa thượng mà vẫn không cách nào tránh k hỏi cái vận ách bị đạo tặc trảm thủ, thế thì mình cũng khó tránh quả báo của địa ngục? Nghĩ mãi và nghĩ mãi, trong tâm lý bỗng nhiên nổi lên ý niệm muốn hoàn tục. 
 Nhưng --- 
 
Không lâu sau, ngài gặp Mã Ông thiền sư của Thoại Vân Tự Mỹ Nùng. Ngày ấy nhằm ngày định kỳ của Thoại Vân Tự hong phơi kinh thơ. 
 
Bạch Ẩn thiền sư đứng trước mặt Mã Ông thiền sư và đánh cá một độ. Ngài sẽ nhắm mắt lại và từ trong mấy trăm quyển kinh thơ nầy mà bốc chọn một quyển. Nếu lựa chọn trúng phải kinh điển của Nho học thì ngài nhất định lập chí trở thành một người nho giả, trái lại nếu chọn trúng quyển kinh Phật, thì ngài sẽ tiếp tục tu hành Phật đạo. Đó là ván cá độ của ngài. 
 
Có lẽ trong số độc giả sẽ có người bảo: “Chọn cách thức như thế là quá bừa bãi”. Nhưng tôi không cho như thế là sai mà trái lại còn khích lệ lối cá độ đó. 
 
Lý do là, chúng ta thường hỏi: “Như vậy tốt hay là thế kia tốt?” vì vậy mà trong lòng do dự không thể quyết định. Từ việc nhỏ mà luận, ví như hôm nay, buổi trưa nên ăn gì tốt hơn? Hay là ăn mì? Từ việc lớn mà nói thì ví như nên từ chức công ty hay vẫn lưu chức tốt hơn? Thoáng nghe có vẻ ăn cơm và từ chức là hai việc không liên can gì nhau, nhưng hai việc này, tính chất mê hoặc tồn tại thì đã chẳng có gì sai khác. 
 
Vì thế, khi mê hoặc thì phải làm sao? Lúc ấy tôi cho rằng, tấn thoái lưỡng nan do dự bất quyết, chi bằng dùng phương thức bia xu hoặc xóc tào cáo làm tiêu chuẩn để lấy hoặc bỏ. 
 
Nhưng, vấn đề lại sanh ra nữa. 
 
“Đợi chút, bia thêm lần nữa xem sao!...” Thế nầy thế nọ, đối với kết quả không thể hạ quyết tâm một cách thực tiễn, trái lại còn làm cho sự việc càng lún vào khốn cảnh khó lấy khó bỏ. Có thể nói, con người như thế là nhu nhược và thiếu quyết đoán. 
 
Đời người chỉ sống một lần, cho nên không thể cách nào việc gì cũng tuỳ lòng mà muốn, muốn gì được nấy. Những món vật không thể đạt được mà nếu càng tham cầu nó thì càng tăng thêm sự đau khổ đối với nội tâm, kết quả chỉ phí công vô ích. 
 
Vì thế, xin khuyên quý vị tốt nhất trước khi cá độ nên khai tử cái tâm ấy. Nhưng thế sau khi xóc tào cáo sẽ không thể xảy ra ý niệm “Khoan đã, thử thêm lần nữa!...” Việc do dự không quyết đoán nầy có thể nói, khó “lấy” hay “bỏ” bởi vì nguyên cớ không thể đoạn niệm (chặt đứt vọng niệm) 
 
Câu nói “Tức tâm đoạn niệm”, ở trong Phật pháp còn có thêm hàm ý là “Biết rõ chân lý”. Khi một cặp vợ chồng cả ngày than khóc vì mất đứa con yêu, nếu đem chân lý “người chết không thể sống lại” để nói cho họ rõ mà đoạn niệm là một thí dụ. 
 
Cho nên một khi tâm của con người mà những ý niệm tham, sân, si đã được tiêu trừ, thì điều đó có nghĩa là giống như đã được khai ngộ. 
 
Vì thế, sự cá độ của Bạch Ẩn thiền sư tự nó dã bao hàm một thiền vị vô hạn. 
 
Và, kết quả cuộc cá độ đó đã như thế nào? 
 
Bạch Ẩn thiền sư đã lựa trúng quyển sách có tên “Thiền Quan Sách Tấn”, dựa theo tên mà suy thì đó là một quyển sách thiền được biên soạn bởi ngài Chu Hoằng đời Minh, Trung Quốc, là một truyền ký tổng quát của tất cả thiền tôn tổ sư, ngữ lục và tổng tập kinh luận của thiền mà các thiền giả cần đọc. 
 
“Cá độ” mặc dù từ trong ngẫu nhiên để cầu kết quả, nhưng nếu người cá độ sớm đoạn niệm (giác ngộ), thì “ngẫu nhiên” ở đây đã thành ‘Tất Nhiên”! Bạch Ẩn thiền sư chắc chắn là đã giác ngộ vì thế ngài dã không một chút do dự và đã ngang nhiên cố gắng bước tới trên đường thiền đạo. Và, cũng do ở lần cá độ ấy, mới tạo thành một vị thiền sư vĩ đại. Tuy là mẫu chuyện hơi giàu kịch tính, nhưng không thể khiến người không khỏi kính sợ vì ngài. 
 
Do một nhân duyên tình cờ, Bạch Ẩn thiền sư và Chánh Thọ lão nhân đã gặp gỡ nhau. Bấy giờ Bạch Ẩn ở tuổi 24, là lúc mà tâm ngã mạn phát sanh mạnh mẽ. Tá túc trong chùa Anh Nham của Việt Hậu cao điền, Bạch Ẩn đã quên ăn bỏ ngủ và tinh thiến ngồi thiền. Đem nọ, khi ngài nhập định, vì nghe tiếng chuông từ xa vọng đến mà hoát nhiên “khai ngộ”. Lúc ấy ngài không suy nghĩ gì nữa, la lớn: 
 
“Nham đầu hòa thượng vẫn mạnh khoẻ!” 
 
Nham đầu hòa thượng là vị cao tăng Đời Đường mà chúng ta đã đề cập ở trước. Lúc ấy những nghi hoặc tích trữ trong lòng ngài từ mấy năm nay đột nhiên khói tiêu mây tán. Không! phải nói là trong tự chính ngài đã cho rằng như vậy. Vì thế ngài rất tự phụ bảo rằng: “300 năm nay chưa ai bằng tôi là người sung sướng vì được giác ngộ!” 
 
Khẩu khí giống như thủ lãnh sơn trại. Điều này có thể bảo đó là một loại tâm kiêu mạn do đại ngã thúc dục. 
 
“Mạn” (1), cao ngạo, ỷ mình hiếp người. Trong quyển 43 “Đại Tỳ Bà Sa Luận” và quyển19 của “Cu Xá Luận”, đã lược cử 7 loại ngoại mạn như sau: 

Mạn: Đối với người dở hơn mình thì cho rằng mình là người thù thắng hơn họ; còn đối với người ngang hàng với mình thì lại bảo là ngang với mình mà kiêu lòng cao Mạn. 

Quá Mạn: Đối với người cùng hàng với mình, cứ khăng khăng bảo rằng mình thù thắng hơn đối phương; đối với người thắng hơn mình, cũng lập luận bảo rằng ngang hàng với mình 

Mạn quá Mạn: Đối với người vượt thắng hơn mình thì có lối nhận xét trái ngược, cho rằng mình vượt thắng hơn đối phương 

Ngã Mạn: Căn bản của 7 mạn ở thân ngũ uẩn giả hợp, chấp trước về ngã, ngã sở, ỷ y vào mình mà kiêu mạn. Trong chấp có ngã, và cho rằng mọi người không bằng tôi; Bên ngoài thì chấp có ngã sở, thì phàm cái gì thuộc về s3ơ hữu của mình cũng đều cao đẹp hơn của người khác. 

Tăng thượng mạn: Chưa chứng được quả vị hoặc đúc của thù thắng mà tự cho là đã chứng đắc. 

Ty Mạn: Đối với người rất ưu việt, lại cho rằng mình chỉ hơi sút hơn người ấy chút ít; hoặc tuy đã hoàn toàn thừa nhận sự cao thắng của người khác, và dù bản thân mình thật dở kém, nhưng tuyệt đối không chịu hư tâm để học tập với người ấy. 

Tà mạn: Vô Đức lại tự nhận là có đức. 
 
Xem qua 7 thứ tâm ngã mạn trên đây, không thể không khiến mọi người cảm thấy lo âu sợ sệt vì lẽ không ngờ trong tâm chúng ta lại cất dấu những món vật xấu xa nhiều đến như thế. 
 
Dù Bạch Ẩn thiền sư sanh lòng kiêu mạn như thế nhưng lại có được cơ duyên ngẫu nhiên quen biết một vị du tăng có tên là Tôn Cách. Tôn Cách đã mách cho ngài biết là Chánh Thọ lão nhân đang ở Tín Châu Phạn Sơn, thế là ngài đã dấn thân thẳng đến Tín Châu 
 
Lần đầu tiên khi gặp Chánh Thọ lão nhân, Bạch Ẩn một mặt thuật rõ kiến giải của mình, mặt khác tỏ vẻ làm như không ai bằng mình. 
 
Đối với kiến giải của Bạch Ẩn, Chánh Thọ lão nhân đã không khách sáo đưa tay trái làm động tác như bắt cái gì trên không rồi ném bỏ và bảo: 
 
“Đúng là một động vật chó địt không thông. Hãy đem những món vật mà ông trông thấy đưa ra đây!” 

 Nói xong ngài đưa tay phải ra và tiếp: 
 “Nếu có thì mửa vào chỗ nầy!” 
 Bạch Ẩn thiền sư làm động tác oẹ mửa. 
 Lão nhân tức khắc hỏi tiếp: 
 “Làm sao trông thấy chữ “Vô” trong công án của Triệu Châu?” 
 “Không là k hông, không thể thấy được vật tồn tại” 
 
Bạch Ẩn thiền sư vừa đáp xong liền bị lão nhân dùng tay bóp mũi và bóp thật mạnh, sau đó kéo vòng một vòng rồi bảo: 

 “Không phải của ông, ta vẫn có thể bắt được!” 
 
Lời nói của lão nhân đã đánh trúng vào sự cống cao ngã mạn của Bạch Ẩn. 
 
Chính vì khế cơ lần nầy, Bạch Ẩn lư lại bên cạnh lão nhân để tham học Phật pháp. Lão nhân hình dung Bạch Ẩn thiên sư là “Tử thiền của chó địt không thông (2)”, và đã cho đó là việc không đúng tí nào. Chính vì thế mà Bạch Ẩn thường xuyên bị quở trách. Dù vậy, ngài vẫn nổ lực khai triển, tinh tân tu hành một cách vô cùng khổ hạnh. 
 
Một hôm, khi Bạch Ẩn nâng bát khất thực, ngài đến trước cửa của một gia đình, chủ nhà từ chối cúng dường nhưng vì ngài đang suy nghĩ công án nên chẳng để ý, vì cứ đứng mãi trước cửa nên khiến chủ nhà tức giận, ông ta đã xách chổi đánh Bạch Ẩn xối xả và ngài đã ngãi xuống bất tỉnh. 
 
Khi Bạch Ẩn khôi phục lại thần trí, ngài đã đạt đến cảnh địa đại triệt đại ngộ. Chờ Bạch Ẩn tỉnh lại, Chánh Thọ lão nhân liền bảo: 

 “Ông triệt ngộ rồi!” 
 
Bạch Ẩn thiền sư theo học chánh pháp với Chánh Thọ lão nhân chỉ trong thời gian 8 tháng, nhưng lại có thể tri nhận tường tận những điểm ảo diệu của thiền, có thể nói, nếu không có Chánh Thọ lão nhân thì không có Bạch Ẩn thiền sư sau nầy. Như vậy đủ thấy chỉ là lần gặp gỡ ngẫu nhiên nhưng kỳ thực cả một sự ẩn tàng huyền cơ không thể biết được? 

Chú (1): Tên của Tâm Sở (Tác dụng của Tâm). Cu Xá Tôn lấy một của Bát Bất Định địa pháp trong 46 tâm sở, Duy Thức Tôn thì lấy một của 6 căn bản phiền não trong 51 tâm sở. Tức so sánh, cao thấp, hơn thua, ưa ghét v.v. giữa chính mình và người khác, mà sanh ra lòng tự thị khinh rẻ người khác, gọi là mạn. Cũng tức là ý tự phụ và khinh bỉ. 

Chú (2): Còn có tên là Thiền Hòa tử, tức là người Tham Thiền

DIỆU PHÁP THOÁT LY TAI NẠN
 ĐẠI NGU LƯƠNG KHOAN 

 
Lương Khoan thiền Sư, khi đề cập đến danh tánh ngài đã khiến cho người cảm thấy có gì hết sức thân mật. Trong truyền thuyết, vì thích hồn nhiên và tâm thơ trẻ vẫn còn, nên ngài thường hay đùa giỡn với những trẻ nít, có một lần cũng vì chơi trò cút bắt mà bị ngủ lùm cả đêm. Tóm lại, ngài là con người vui tính và rất hòa hài. 
 
Nhưng, thân thế của Lương Khoan thiền sư lại tương đối hiển hách, ngài là trưởng nam của quốc quân Sơn Bổn Gia Việt hậu quốc thời kỳ Giang Hộ. Khi 18 tuổi (có sách nói 22 tuổi) xuất gia làm tăng, chuyên tu theo Thiền Tào Động, có thể bảo ngài là vị thiền tăng xuất gia chánh thống. Đồng thời ngài cũng là một thi nhân kiêm thư pháp gia, viết chữ đẹp nổi tiếng. Thơ của ngài đơn giản dễ hiểu nhưng giàu tính triết lý, đặc biệt là có một thi pháp cao nhã không vẽ vời. Ở đây xin giới thiệu cùng quý vị mấy bài thi Hán của Lương Khoan thiền sư: 

 Hoa vô tâm chiêu Diệp 
 Diệp vô tâm tầm hoa 
 Hoa khai thời Diệp lai 
 Diệp lai thời hoa khai 
 Ngô diệc bất tri nhân 
 Nhân diệc bất tri ngô 
 Bất tri tùng đế tắc 
 
 Dư Hương hữu nhất nữ 
 Sĩ niên mỹ dung tư 
 Đông lý nhân triều ước 
 Tây lâm khách tịch kỳ 
 Hữu thời truyền dĩ ngôn 
 Hữu thời di dĩ tư 
 Như thị kinh tuế sương 
 Chí tế bất dữ di 
 Tùng bỉ thử hựu phi 
 Hứa thử bỉ bất khả 
 Quyết ý phó thâm uyên 
 Ai tai đồ nhữ vi 
 
Đọc xong bài Hán thi nầy, Khiến người ta liên tưởng đến hai mỹ nữ Chân Gian Thủ Nhi Nại và Thố Nguyên Xứ Nữ trong thi tập cổ điển “Vạn Diệp tập” của Nhật Bản. chân Gian chính là thị xã Thi Xuyên, huyện Thiên Diệp ở Nhật Bản hiện nay. Mỹ nữ Thủ Nhi Nại vì sợ làm phương hại đến lòng cầu ái của quá nhiều thanh niên nên nàng đã nhảy xuống sông tự tử. Còn Thố Nguyên Xứ Nữ thì theo truyền thuyết là mỹ nữ ở ngoại ô thị xã Lô Ốc, huyện Binh Khố hiện nay. Vây quanh bên người đẹp có hai chàng trai tên là Huyết Chiêu tráng sĩ và Thố Nguyên tráng sĩ, hai người nầy vì ghen tương nhau nên đã dùng kiếm để hướng vào nhau. Thố Nguyên Xứ Nữ vì do cảm thấy xuất thân từ một giai cấp thấp hèn, không bằng lòng việc hai người đàn ông chỉ vì mình mà làm thương tổn đối phươong, thế nên nàng đã quyết định dùng phương thức tự vận để giải quyết vấn đề ba góc, luyến ái tay ba. 
 
Câu chuyện đến đây vẫn chưa chấm dứt Vào đem nàng tự tử, Huyết Chiêu tráng sĩ nằm mộng thấy nàng tự vận nên tự kết thúc tánh mạng để được đi theo kề cận mỹ nhân. Thố Nguyên tráng sĩ hay tin cũng không chịu thua ông, đã sử dụng đoản kiếm thường mang bên mình để kết liễu mạng sống của mình. 
 
Bài Thu Lục trong “Vạn Diệp Tập” là bài truy điệu hai mỹ nữ. Có thể Lương Khoa hòa thượng đã lấy tài liệu từ hai truyền kỳ nầy mà viết thành bài Hán thi trên 
 
“Ái” xuất phát từ tâm. Nhân loại thường vì “Ái” mà lmà tổn hại đối phương. Ái thường khi không thể làm cho đối tượng mình “Ái” được bảo hộ, thăng hoa, trái lại còn làm cho người mình thương bị tổn hại, ràng buộc. Vì thế khi một người nói rằng: “Anh thương em”, kỳ thực lời nói đó ít nhiều có tương thông với ý “Em phải thành nô lệ của ta” 
 
Người Cơ Đốc giáo bảo phải thương thế nhân, nhưng Phật giáo lại bảo rằng “Ái” là không tốt. 
 
Kỳ thực Cơ Đốc giáo và Phật giáo đối với định nghĩa của ái đã chẳng giống nhau. Chữ “Ái” Phật giáo đề cập đó là sự thương yêu được xuất phát từ trong bản vị của tự ngã. Ái này chẳng phải cho và vì đối phương, mà ái chính là cho và vì dục vọng của bản thân mình. Vì có ái, mới có chấp trước và nảy sinh vọng niệm muốn người mình ái hoặc sự vật mình ái vĩnh viễn thuộc về sở hữu của mình, có thể nói ái kỳ thực là một loại dục vọng ích kỷ. 
 
Ở trong Phật giáo, thay thế ái là “Từ Bi” 
 
Tương đối với “Ái” xuất phát nơi bản vị tự ngã là tâm “từ bi” lấy đối tượng làm bnả vị. Từ Bi có ý nghĩa: “Bạt khổ dữ lạc”, nghĩa là “cứu người khổ từ trong bể khổ, và ban phát hạnh phúc an lạc đích thực cho mọi chúng sanh”, đó là Từ Bi. 
 
Vì thế, Phật giáo là tôn giáo phủ định “Ái” nhưng khẳng định “Từ Bi” 
 
Trong Hán thi của Lương Khoan thiền sư, chúng ta có thể thấy được sự khẳng định tư tưởng nầy của ngài. Đương nhiên ngài đã không vì muốn biểu đạt tư tưởng của Phật giáo mà cố ý làm bài thi nầy, mà có thể nói bài thi này đã bộc lộ một cách tự nhiên tâm lượng từ bi của ngài. Dẫu sao, mong độc giả đừng quên định nghĩa về “chân ái: của Phật giáo. Chân ái cũng có thể là một loại “Bi Tâm” và chính qua bài thi nầy mà ta có thể cảm và thấy được “Bi tâm” đó. 

 
Tiếp theo chúng tôi xin giới thiệu thêm bài Hán thi khác: 

 Gia hữu miêu dữ thử 
 Tổng thị nhứt mông bì 
 Miêu bảo bạch trú miên 
 Thử cơ huyền dạ chi 
 Miêu nhi hữu hà năng 
 Thứ sanh lữ trung cơ 
 Thử tử hữu hà nhất 
 Xuyên khí dã thái phi 
 Khí xuyên nhi khả bổ 
 Thệ giả bất phục quy 
 Nhược vấn tội khinh trọng 
 Xưng khả khuynh Miêu nhi 
 
Vào ngày 12 tháng 11, 1828, lúc Lương Khoan thiền sư vừa đúng 71 tuổi, tại xứ Tam Điền, kiến phó của Việt Hậu quốc đã xảy ra một trận động đất lớn, kết quả 9,800 nhà cửa bị sụp đổ, thiêu huỷ 1,200 nóc gia và con số tử thương hơn 1,440 người. Căn cứ theo sách “Lý Khoa niên biểu” thì trận địa chấn lúc ấy ở cấp 6.9. Sau cơn động đất, Lương Khoan thiền sư gởi thư cho bạn là Sơn Điền Đỗ để thông báo là ngài vẫn bình an: 
 
“Động đất thật đáng sợ, may là thảo am của bần tăng vô sự, người nhà cũng an nhiên vô sự, may thật! may thật! 
 
Nhưng, khi tai nạn đến tuỳ theo cảnh ngộ mà an lạc, và lúc đối đầu với tử vong thì vui vẻ thản nhiên mà chấp nhận, đây là diệu pháp thoát ly tai nạn, Viết vào ngày 8-8. 

 Cẩn chí, 
 Sơn Điền Đỗ Cao Lão 
 Lương Khoan.” 
 
Phàm con người khi gặp tai nạn, chẳng khác nào những con trùng nhỏ đang rơi vào lưới nhện, rất đau khổ sợ sệt nhưng không biết phải làm sao. Tuy biết rõ dù sợ sệt nhưng không biết phải làm sao. Tuy biết rõ dù sợ sệt cũng chẳng ích lợi gì, nhưng không thể tự chủ được. Đây là điểm ngu muội của phàm nhân. Bởi vì càng cảm thấy sợ hãi thì càng quýnh quáng, kết quả càng bị cái lưới tơ đau khổ ràng chặt không thoát nổi... 
 
Nhưng Lương Khoan thiền sư đã nói “Khi tai nạn đến tuỳ theo cảnh ngộ mà an lạc, chết chóc xảy ra thì vui vẻ thản nhiên mà chấp nhận, đó là diệu pháp thoát ly tại nạn”. Khi tai nạn đến tuyệt đối không nên để tư tưởng bi rối loạn, chỉ cần nội tâm không tương ứng với tai nạn thì tự nhiên sẽ không khổ vì nó, đó tức là thiền. Lời nói này của thiền tăng Lương Khoan quả xứng đáng là một thiền sư đích thật... 
 
Theo truyền thuyết thì vào ngày 06 tháng 01 năm 1831 Đại Ngu Lương Khoan thiền sư đã an nhiên thị tịch trước sự chứng kiến của rất nhiều người, ngài hưởng thọ 74 tuổi. Trước giờ lâm chung ngài còn làm một bài kệ từ giã trần thế, ngài đã thực thi câu nió của chính ngài đó là “Khi sự chết đến thì chấp nhận một cách vui vẻ tự nhiên”. 

 Đổng triệt lý biên 
 Dã chiếu kiến ngoại biên 
 Hồng Diệp phiêu lạc mãn thiên 
 Tạm Dịch 
 Thấu suốt tận nguồn tâm 
 Nhận chân muôn hiện tượng 
 Lá vàng rơi rụng khắp muôn phương 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 10223)
Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi. Tâm của Phật và tâm của chúng sinh cũng như vậy.
25 Tháng Mười Một 2014(Xem: 11044)
"BÂY GIỜ ĐẠI THIỀN SƯ đã nhập diệt, chúng ta chỉ còn lại những câu chuyện. Và, may mắn thay, cuốn sách này là hiện thân như ngài còn sống, cho những ai chưa từng có cơ hội gặp được ngài. Qua các trang sách này, nếu bạn lưu tâm suy gẫm và để cho chúng thấm sâu vào tâm hồn bạn, bạn sẽ thực sự thấy ngài trong lời khai thị mà mình không thể bắt chước được và có lẽ quan trọng hơn nhiều, đó là niềm mong mỏi của ngài, bạn sẽ gặp lại chính mình."
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 14325)
Biểu đồ I.1: Thiền tông Ấn Độ Biểu đồ I.2: Thiền Ấn Độ Đến Trung Quốc Biểu đồ I.3: Thiền Trung Quốc – Huệ Năng và Môn Đệ Biểu đồ II.1: Dòng Mã Tổ Biểu đồ II.2: Dòng Mã Tổ Biểu đồ III.1: Tông Tào Động Biểu đồ IV.1: Tông Lâm Tế Biểu đồ IV.3: Dòng Lâm Tế – Viên Ngộ Biểu đồ V: Tông Vân Môn & Pháp Nhãn
07 Tháng Mười Một 2014(Xem: 5922)
Người học Phật, trước tiên cần thấy tính. Thấy tính, không phải là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi không thể nhìn thấy. Cho nên, nhìn thấy "cái thấy không thể thấy" thì chân tính sẽ hiện ra. Bản tính của cái thấy là vô sinh, nên "cái thấy sinh nẩy" là không có. Cũng không có sự thực hữu của tính, mà cái thấy chân thực thì không thay đổi, cho nên mới nói: thấy tính một cách chân thực.
01 Tháng Mười 2014(Xem: 13281)
Phương pháp của Thiền là cắt đứt con đường nói năng và dập tắt khung trời khái niệm trong đó ý thức cứ tiếp tục tư duy và đi tìm kiếm những ý niệm để cố gắng tìm hiểu thực tại (ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt). Ngôn ngữ đạo đoạn là cắt đứt con đường ngôn ngữ. Tâm hành xứ diệt nghĩa là dập tắt vùng trời của sự suy tư bằng khái niệm, đừng để tâm ý đi tìm những ý niệm: có-không, sanh-diệt,…
30 Tháng Chín 2014(Xem: 15363)
Đạo Phật nước Việt Nam chúng ta ngày nay có hai pháp môn tu chính là Thiền Tông và Tịnh Độ Tông. Hai pháp môn Thiền và Tịnh cùng xuất phát trong hệ kinh tạng Đại Thừa, nói có hai pháp môn nhưng cùng cứu cánh cùng đi đến thành quả là hết khổ đau sanh già bệnh chết cho chính mình và cho mọi người.
29 Tháng Chín 2014(Xem: 9030)
Từ khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma qua trung quốc truyền tâm ấn đạo lý giác ngộ theo truyền thuyết thì sơ Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền cho vị đệ tử kế thừa là ngài Thần Quang Huệ Khả bộ kinh Lăng-già tâm ấn. Nhưng phải chờ đến hơn ba trăm năm sau và qua sáu vị Tổ thì đạo giác ngộ mới nở hoa kết trái. Tuy nhiên hạt giống của Tổ Bồ-đề-đạt-ma gieo trên đất Trung Hoa là kinh Lăng-già nhưng nở hoa kết trái lại là kinh Kim cang. Tại sao lại có sừ sai biệt như vậy, dù rằng cả hai bộ kinh đều do Như Lai Thế Tôn thuyết giảng.
27 Tháng Chín 2014(Xem: 13252)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, tuyệt vời. Tôi có nhiều cơ duyên với ngài... ngay cả từ thời rất là thơ trẻ, khi còn ở trong nước và khi chỉ mới đọc các bài báo sơ sài về ngài. Đất nước Tây Tạng và vị lãnh đạo này là một thế giới kỳ bí, không chỉ vì xa xôi cách biệt nhưng cũng vì niềm tin của dân tộc này rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
22 Tháng Chín 2014(Xem: 11771)
Quyển Lâm Tế Ngữ Lục song ngữ này được soạn thảo cho lớp Phật pháp tiếng Anh và cho giới trẻ người Việt học Phật. Đây là một phần việc trong chương trình giới thiệu những bản dịch hiện nay về văn bản Thiền cổ điển.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 8763)
Đại Sư tên là Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sinh ra ngài nhằm giờ tý, ngày mùng tám tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12. Khi ấy, hào quang từ nhà ngài chiếu sáng lên không trung, mùi hương lạ tỏa lan khắp nhà.