181-210

08 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 10660)

Đỗ Đình Đồng Góp Nhặt
DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN
(333 Câu Chuyện Thiền)
tức GÓP NHẶT CÁT ĐÁ
Hiệu Đính và Bổ Sung

181. TẠI SAO CÁC THIỀN SƯ TRẢ LỜI

 BẰNG GiỌNG KHÓ ƯA?

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Tại sao các Thiền sư không buồn giải thích cho người hỏi những vấn đề cho thấy thực sự làm phiền họ? Thay vào đó các sư trả lời bằng giọng khinh xuất hay gắt gỏng khó ưa?

 Lão sư:

 - Nếu anh đang đói mà tôi chỉ cho anh tờ thực đơn, anh có thỏa mãn không?

Nguời hỏi:

- Dĩ nhiên là không. Sao lão sư hỏi vậy?

Lão sư:

 - Mọi giải thích dù chi tiết và vi tế đến đâu đều là nhìn từ một khía cạnh nhỏ mà ở đó có những chiều hướng vô hạn. Đó tôi lại thêm cho anh một cái đầu vào cái đầu anh đã có sẵn.

 Người hỏi:

 - Thấy chưa, đấy đúng là những gì tôi muốn nói là khó ưa.

 Lão sư:

 - Chắc là anh đang đùa.

 Người hỏi:

 - Không, tôi nghiêm chỉnh mà.

 Lão sư:

- Có lần một đệ tử hỏi thầy, “Phật là gì?” Sư đáp, “Ông là ai?” Anh cho đó là câu trả lời khó ưa?

 Người hỏi:

 - Hẳn rồi.

 Lão sư:

 - Giả sử tôi bảo anh rằng người đệ tử đã ngộ trong vấn đáp này. Anh vẫn còn tìm thấy lỗi nơi câu trả lời?

 Người hỏi:

- Phải. Không những chỉ lời nói mà còn cả giọng điệu của lão sư nữa--tôi cho là nó phản ảnh giọng điệu của Thiền sư--khiến nó thành câu trả lời khó ưa. Thiền sư có thể diễn đạt ý của ông ta bằng cách khác dễ thương hơn nếu ông ta muốn tỏ ra lịch sự.

 Lão sư [vung tay lên cười]:

- Thiền chẳng phải cho anh, anh bạn ơi!

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

 

 

182. CÁI GÌ THỰC SỰ CÓ

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Nếu tôi không hiểu lầm, tôi nghĩ lão sư đã dẫn lời Phật khi nói rằng không có gì hiện hữu.

 Lão sư:

- Anh không nắm được trọn vẹn. Tôi đã dẫn lời Phật khi nói rằng sự vật chẳng phải có cũng chẳng phải không. Đó hoàn toàn khác với điều anh vừa nói.

 Người hỏi:

- Được rồi, tôi chịu sửa sai. Nhưng nếu sự vật chẳng phải có cũng chẳng phải không, vậy cái gì là thực, cái gì thực sự có?

Lão sư:

 Xin hãy bước lên đây.

[Người hỏi bước lên sàn. Lão sư nghiêng qua thì thầm vào tai anh ta . Cả hai cười và bắt tay nhau]

Chỉ cái đó là thực sự có.

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

183. THẾ NÀO LÀ PHẬT TÂM?

 

Một hôm, có ông tăng hỏi Thiền sư Đạo Hạnh (tịch năm 1115) :

- Đi, đứng, nằm, ngồi đều là Phật tâm, thế nào là Phật tâm?

Sư nói kệ đáp:

Có thì có tự mảy may,

Không thì đến cả thế gian này cũng không.

Ví như bóng nguyệt lòng sông,

Ai hay không có, có không là gì.

Sư lại tiếp:

Nhật nguyệt tự đầu non,

 Người người tự mất châu.

 Kẻ giàu sẵn ngựa mạnh,

Bộ hành chẳng ngồi xe . 

 (Thiền Sư việt Nam)

 

 

 

184. KHÔNG CÓ THIỀN SƯ

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Câu hỏi này không có ý thô lỗ, nhưng lão sư có thể cho chúng tôi biết một vị sư hay Thiền sư có những phẩm chất như thế nào?

 Lão sư:

- Tôi không phải là Thiền sư, càng chẳng phải là một vị sư, nên tôi không biết.

 Người hỏi:

 - Nếu chẳng phải dạy thì lão sư đang làm gì bây giờ?

 Lão sư:

 - Thực ra người ta có thể dạy gì cho ai không? Nghĩ như vậy có thể xem là lừa gạt đó.

Người hỏi:

- Lão sư đang làm việc ấy có vẻ hay lắm.

 Lão sư:

- Trong sách Vô Môn Quan có câu kệ nói rằng:

Chưa bước chân đi đã đến rồi,

Môi chưa hé động mà lời đã xong.

Hiểu không?

 Người hỏi:

 - Không. Câu đó có nghĩa là gì?

 Lão sư:

 - Nếu không có gì ở bên ngoài ta, có chỗ nào để đi, có gì để hiểu?

 Người hỏi:

- Nhưng không phải lão sư dạy các đệ tử của mình tại trung tâm ở Rochester sao ?

 Lão sư:

 - Tôi chỉ chia xẻ những gì tôi nghiêm túc làm cho chính mình.

Ngừời hỏi:

- Còn các vị thầy của lão sư thì sao? Trong cuốn Ba Trụ Thiền, lão sư nói rằng lão sư coi ba Thiền sư là ba vị thầy của mình. Họ không dạy gì cho lão sư sao? Lão sư đã ở lại với họ, tôi nghĩ là mười ba năm. Lão sư ắt phải cảm thấy mình học được cái gì đó mới ở lâu như vậy.

Lão sư:

 - Nếu tôi có học được điều gì nơi họ thì đó chính là không có gì để học. Như vậy tôi đâu có học, tôi không học. Tôi chẳng được, tôi đã mất--một lô những hỗn loạn tâm trí, những quan niệm hư ngụy.

 Người hỏi:

 - Tôi vẫn không hiểu tại sao lão sư bảo mình chẳng phải là thầy.

 Lão sư:

 - Câu chuyện sau đây có thể giúp anh hiểu. Một Thiền sư danh tiếng có lần nói với các đệ tử, “Tất cả các ông toàn là lũ ăn hèm; nếu cứ đi quanh quẩn như thế này, bao giờ mới đến đó? Các ông không biết cả nước Tàu này chẳng có Thiền sư?”

Một ông tăng hỏi, “Sao hòa thượng nói chẳng có Thiền sư trong khi có cả ngàn tăng nhân ở vô số chùa?”

 “Tôi chẳng nói không có Thiền, chỉ là không có sư.”

 Người hỏi:

 - Đó có phải là một công án?

 Lão sư:

- Phải, của anh đó!

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

185. THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆT:
AI SIÊU VIỆT CÁI GÌ?

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Lão sư nghĩ thế nào về Thiền Định Siêu Việt [Transcendental Meditation]?

 Lão sư:

 - Anh có tập Thiền Định Siêu Việt không?

 Người hỏi:

 - Tôi quan tâm đến nó.

 Lão sư:

- Cho đến giờ, nó như thế là được--duy có điều nó chẳng đi được xa lắm.

Người hỏi:

 - Có thể đi đến ngộ bằng Thiền Định Siêu Việt không?

[Lão sư mỉm cười]

 Người thứ hai nói:

- Tôi đọc trong tạp chí Khoa học [Science, January 1976] nói rằng một nhóm các nhà tâm lý học của viện Đại học Washington ở Seattle đã làm thí ngiệm với năm thiền giả, bốn trong số năm người đó là những người dạy Thiền Định Siêu Việt, và họ thấy rằng trong khoảng nửa thời gian thiền định các thiền giả đều ngủ cả, chẳng phải thiền định.

 Người thứ ba [hướng về người thư nhì] :

- Một thí nghiệm đơn độc có thể kết luận được sao? Những thí nghiệm khác cho thấy giá trị của Thiền Định Siêu Việt. Dù sao anh ngủ gục trong lúc thiền định là vì cơ thể anh cần ngủ.

 Lão sư:

 - Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng tại sao nó cần ngủ?

 Người thứ ba:

 - Bởi vì mệt mỏi.

 Lão sư:

- Tại sao anh trở nên mệt mỏi và buồn ngủ? Thường là vì mắt nhắm và không ngồi trong tư thế ổn định, thẳng đứng, không thở đúng cách, không sử dụng tâm đúng. Ngồi đúng cách, thiền định làm ta tươi trẻ lại, không làm ta kiệt sức. Tâm trở nên bén như dao cạo, với cảm giác trực thức cao độ. Thân nặng nề, mềm nhão làm tâm đù đờ, buồn ngủ. Nói tôi nghe, anh đã thực hành Thiền Định Siêu Việt bao lâu rồi?

 Người thứ ba:

 - Khoảng một năm.

 Lão sư:

- Vậy thì anh có thể trả lời câu hỏi này: Trong Thiền Định Siêu Việt, ai siêu việt cái gì?

[Không trả lời]

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

 

 

 

 

186. MÁY ĐIỀU KHIỂN TÂM SINH LÝ:
THIỀN ĐIỆN TỬ ?

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

- Lão sư có biết loại máy điều khiển tâm sinh lý không [Biofeedback machines]? Tôi nghe người ta gọi nó là “Thiền điện tử.” Loại máy ấy tác dụng như thế nào?

Lão sư:

- Khái niệm về máy điều khiển tâm sinh lý, theo những người bảo trợ nó, là dạy người ta ý thức về các kiểu sóng não của mình bằng cách quan sát chúng trên sơ đồ hoặc nghe chúng được chuyển dịch thành âm thanh, bằng cách này, biết làm sao phát ra các nhịp sóng alpha theo ý muốn, được bảo là có tính chất thư thái và an tĩnh. Nhưng các làn sóng alpha có gì đặc biệt? Chúng ta biết rằng các làn sóng alpha sản sinh trong bất cứ hoàn cảnh thông thường nào: nghe nhạc gợi cảm hoặc bất cứ sinh hoạt nào khác bám lấy anh. Nhưng Thiền còn hơn sự sản sinh ra các làn sóng alpha nhiều. Nếu anh trở nên nghiêm chỉnh dấn thân vào Thiền, anh sẽ kinh nghiệm một sự chuyển hóa và thanh tẩy toàn triệt toàn bộ con người anh.

 Người hỏi:

 - Trong giờ giải lao tôi có nói chuyện với một môn sinh của lão sư về máy điều khiển tâm sinh lý. Anh ấy nói lão sư đã có kinh nghiệm lý thú với loại máy này. Lão sư có vui lòng cho chúng nghe không?

 Lão sư [ngần ngừ]:

 - Chuyện xảy ra khá lâu rồi. 

Người hỏi:

 - Chúng tôi không thể nghe được sao?

 Lão sư:

- Được rồi, chuyện ấy xảy ra tại một hội nghị quốc gia của Hội Tâm Lý Học Nhân Đạo ở Florida, tôi được mời tổ chức một cuộc hội thảo về Thiền. Một trong những môn sinh của tôi, một nhà tâm lý bệnh học, nói rằng anh ta có người bạn thân là một kỹ sư rất thích tôi trắc nghiệm chiếc máy điều khiển tâm sinh lý do anh bạn thiết kế vừa mới đưa ra thị trường. Vì thế chúng tôi đến một căn phòng riêng, ở đó đã có khoản mười hay mười lăm người đang chờ xem trắc nghiệm. Thiết bị nhỏ cỡ vừa bàn tay và bán, tôi nghĩ chừng hai trăm đô la. 

Họ đeo chiếc đai da, có gắn những điện cực, quanh đầu tôi và gắn vào người tôi. Rồi họ đeo thêm ống nghe vào tai tôi. Tôi liền nghe tiếng, “bíp, bíp,” ban đầu thình lình, sau đó thấp đều. Tôi đi vào một trạng giống như nhập định, rồi kế đó tôi nghe giọng cảm thán, “Tại sao, ông ta đã ra khỏi máy! Trước đây chưa bao giờ xảy ra như vậy.” Sau khi tháo gỡ tôi ra, anh kỹ sư và những người phụ tá tỏ vẻ buồn bã, nói: “Hãy trở lại với bàn vẽ vậy!”

Tôi do dự kể chuyện này bởi vì nghe có vẻ khoa trương, nhưng những gì xảy ra với tôi chẳng có gì phi thường--nó có thể xảy ra với bất cứ một hành giả thiền định nào có kinh nghiệm, và thực tế đã xảy với một người khác đã trắc nghiệm tôi.

 Người hỏi:

 - Lão sư có cảm thấy thư thái không?

 Lão sư:

- Hẳn rồi, nhưng sau khi ngồi hai vài ba chục phút, ai chẳng cảm thấy như vậy? Với tọa thiền anh có thể đạt được thư thái và còn hơn xa nữa--mà chẳng phải tốn hai trăm đô la cho cái máy đồ chơi. Đồ chơi dành cho con nít chẳng phải cho người lớn!

 Người thứ hai nói:

- Tôi đọc ở đâu đó nói rằng sự phản xạ làn sóng não chỉ trong vài tuần hay một tháng sẽ mang lại kết quả tương tương đòi hỏi nhiều năm nỗ lực trong Thiền.

 Lão sư [cười]:

- Chắc là anh đùa chứ gì! Quả quyết rằng sự thức tỉnh tâm linh và chuyển hóa nhân cách tất cả được hoàn tất --nói vắn tắt--một cách đơn giản là chỉ cần mang cái máy ấy vào thì thật là ngây thơ đến buồn cười. Dù cho mang vào một lúc có thể làm cho người ta dễ đi vào thư thái, cũng khó mà đem lại được yên tĩnh sâu xa hay an tâm lâu dài; nó không trả lời được những vấn đề nền tảng của tồn sinh; nó không chuyển hóa được cuộc sống con người; sự giác ngộ trong Thiền làm được tất cả.

Cùng một cách thức ấy, một nhà tâm lý học đã chứng minh một cái máy điều khiển tâm sinh lý cỡ lớn chủ ý dùng cho những bệnh nhân được điều trị ở bệnh viện hoặc bệnh nằm liệt giường, giúp giảm huyết áp cao hoặc các chứng bệnh khác. Dường như đó là cách dùng có giá trị của máy điều khiển tâm sinh lý.

Có người gửi cho tôi một bài báo viết về các loại máy điều khiển tâm sinh lý dẫn lời bác sĩ Frederick Gibbs, thuộc viện Đại học Y khoa Illinois, nói rằng cái “cao” của máy điều khiển tâm sinh lý bằng sóng alpha là sự “thủ dâm trí não”--thực là một diễn đạt thích đáng. Một người đều đặn mang cái máy để được thư thái sẽ mất khả năng hành động bằng các nguồn năng lực sâu nhất của mình và thay vì làm chủ cái máy lại trở thành tên nô lệ của nó. Đấy không phải là Thiền. Thiền phát triển sư tự do, không phải phát triển sự tuỳ thuộc thần kinh loạn.

(Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

 

 

187. TÔI CÓ THỂ VỪA TU THIỀN
VỪA LÀ MỘT TÍN ĐỒ DO THÁI GIÁO
HAY KY-TÔ GIÁO TỐT KHÔNG?

 

 Có người hỏi lão sư kapkeau:

- Tôi là một tín đồ Do thái giáo và tôi hãnh diện điều đó. Tôi có thể vừa tu Thiền vừa là tín đồ Do thái giáo tốt không?

 Lão sư:

 - Trước khi làm tín đồ Do Thái giáo, anh là gì?

 Người hỏi:

 - Tôi không biết.

 Lão sư:

- Hãy tìm xem! Rồi anh sẽ thấy cái tính Do Thái trong tâm trí anh không còn cao tột nữa .

 Người hỏi:

- Tìm bằng cách nào?

 Lão sư:

- Hãy tự hỏi ngày đêm với khát vọng muốn biết và tin quyết rằng mình có thể biết. Hãy học sống theo cách con cá bơi, con chim bay - không biết có ta. Hãy tỉnh táo và nhạy bén. Cái gì tay phải tìm được thì tay trái cũng dự vào. Tránh những phán quyết không cần thiết. Hãy khiêm tốn và không võ đoán; chỉ đưa ý kiến khi nào có người hỏi. Hãy quên điều tốt mình làm và sám hối điều xấu. Phải luôn luôn liên hệ kết quả với nguyên nhân gây ra nó.

 Người hỏi:

- Là một tín đồ Do Thái, tôi thể làm tất cả những điều ấy không?

Lão sư:

 -Nếu anh làm được thì tốt. Nếu không. . .

 Có người khác hỏi:

 - Tôi có thể vừa tu Thiền vừa là một tín đồ Ky-tô giáo tốt không?

Lão sư:

- Nếu chỉ tu Thiền thì anh có thể, còn nếu tu Thiền Phật giáo thì không.

 Người hỏi:

 - Tại sao không?

Lão sư:

- Tu Thiền Phật giáo có nghĩa là vượt qua cái ta của anh, vượt qua cái ta có nghĩa là quên cái ta. Khi điều đó xảy ra, anh chẳng phải là tín đồ Ky-tô giáo tốt cũng chẳng một Phật tử Thiền tốt.

 Người hỏi:

 - Vậy tôi là cái gì?

 Lão sư:

 - Phải, vậy anh là cái gì?

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

188. THẾ NÀO LÀ NGỘ?

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

 - Ngộ là gì?

 Lão sư:

- Khi có người hỏi một Thiền sư, “Thế nào Phật pháp?” Sư đáp, “Tôi không hiểu Phật pháp.” Còn tôi, tôi không hiểu ngộ.

 Người hỏi:

 - Nếu lão sư không hiểu, ai hiểu?

 Lão sư:

-Sao anh không hỏi người nào nói, “Tôi ngộ rồi?”

 (Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

189. LÃO SƯ ĐÃ NGỘ CHƯA?

 

 Có người hỏi lão sư Kapleau:

 - Lão sư đã ngộ chưa?

 Lão sư:

- Nếu tôi nói, “Tôi ngộ rồi,” trong các anh có người biết sẽ buồn nôn mà bỏ đi. Nếu tôi nói, “Tôi chưa ngộ,” trong các anh có người hiểu lầm sẽ thất vọng bỏ đi.

Vậy . . .

(Thiền: Đông Tây Hợp Lưu)

 

 

 

190. NGỘ GIỐNG CÁI GÌ?

 

 Vào thời nhà Nguyễn, Đăng Long Hầu biên thơ sai người đem tới hòa thượng Thạch Liêm ở chùa Thiên Mụ (Huế), hỏi: “Thiền đạo là giống gì? Giác ngộ là lý làm sao?”

Sau đây là đoạn trích từ bức thư sư viết trả lời:

 

Đến như nói một chữ “ngộ” (biết, giác ngộ). Ví dụ: Như người kia có việc sinh tử tương quan đến người khác, hẹn nhau đến chỗ nào đó, thương lượng, mới có thể ổn thỏa được. Đương lúc mới mờ mờ sáng, ngủ dậy rửa mặt chải đầu, lấy bít tất mang vào, trong lúc bối rối cấp bách, mang bít tất vào một chân rồi, còn một chiếc nữa chưa thấy; bèn tìm khắp trong tủ rương, lục soát hết các gian buồng, dưới giường trên vách, không chỗ nào không tìm, tìm đâu cũng chẳng thấy; tức quá ngồi lại suy nghĩ. Nghĩ mãi nghĩ hoài, moi óc nghĩ đến chỗ sâu sắc, vẫn nghĩ chẳng ra. Bỗng cúi đầu ngó xuống, thấy hai chiếc tất mang vào một chân! Bèn lột ra mang qua chân khác và vô cùng khoan khoái. Mới biết chiếc tất ngay ở chân mình, biết (ngộ) thì cũng dễ dàng như thế. Cho nên người ta bảo rằng:

Giày sắt bước mòn tìm chẳng thấy,

Tìm ra chẳng phí chút công phu .

 (Thiền Sư Việt Nam)

 

 

 

191. THẾ NÀO LÀ NGÃ MẠN?

 

Tể tướng Quách Tử Nghi đời nhà Đường là một chính khách lỗi lạc cũng là một vị tướng tài ba. Sự thành công của ông trên cả hai phương diện chính trị và quân sự khiến cho ông được cả nước ngưỡng mộ như một anh hùng thời đại. Nhưng danh vọng, quyền lực, giàu sang và thành công đã không xao lãng được lòng ưa thích và sùng mộ của vị tể tướng đối với Phật pháp. Tự coi mình như là một Phật tử bình dị, khiêm tốn và nhiệt thành, ông thường viếng vị Thiền sư ưu ái của mình để tham học.

Ông và vị Thiền sư dường như rất hợp nhau. Sự kiện ông giữ chức tể tướng và địa vị xã hội cao thời xưa ở Trung quốc, dường như không có ảnh hưởng gì đến sự kết giao của họ. Hiển nhiên không có dấu vết lễ phép đáng kể nào về phía Thiền sư hay sự trịch thượng rởm nào về phần quan tể tướng hiện diện trong mối quan hệ của họ, dường như đây là một quan hệ thuần túy trong đạo giữa một bậc tôn sư và một đệ tử thuần thành.

Tuy nhiên, một hôm Quách Tử Nghi đến viếng Thiền sư như thường lệ và hỏi một câu như vầy: “Bạch hòa thượng, Phật giáo giải thích ngã mạn như thế nào?” Thiền sư mặt bỗng biến xanh, bằng một phong thái đầy cao ngạo và khinh khi, nói với quan tể tướng: “Này thằng ngu, ngươi nói cái gì?” Sự khinh thị thách thức này đã xúc phạm đau đớn phạm tình cảm của vị tể tướng đến độ mặt ông ta bắt đầu tỏ vẻ giận dữ. Lúc ấy Thiền sư mỉm cười, nói: “Thưa ngài, đấy chính là ngã mạn.”

 (Thiền Đạo Tu Tập)

 

 

 

192. TÁM GIÓ THỔI CHẲNG ĐỘNG

 

Tô Đông Pha, thi hào lừng danh thời nhà Tống, là một Phật tử nhiệt thành. Ông có người bạn rất thân tên là Phật Ấn, là một Thiền sư sáng ngời trí tuệ.

Chùa của Phật Ấn ở bờ phía tây sông Dương tử, còn nhà của Tô Đông Pha thì ở bờ phía đông. Một hôm Tô Đông Pha đến thăm Phật Ấn, thấy sư đi vắng, bèn ngồi ở thư phòng đợi Phật Ấn về. Ngồi lâu chán nản, cuối cùng, ông nghuệch ngoạc lên một tờ giấy tìm được trên bàn. Những chữ sau chót viết như vầy: “Tô Đông Pha, người Phật tử vĩ đại, dù có tám gió thế gian hợp lại cũng không làm động được.” Sau khi chờ thêm một chặp nữa, Tô Đông Pha thấm mệt ra về.

Khi Phật Ấn trở về, thấy chữ của Tô Đông Pha trên bàn, sư thêm một dòng như sau: “Nhảm nhí! Những gì ông nói không bằng một cái rắm!” và gửi đến cho Tô Đông Pha.

Khi Tô Đông Pha đọc lời phê bình xấc xược này, ông phẫn nộ vô cùng, lập tức lấy thuyền sang sông, vội vã trở lại chùa. Chụp lấy tay Phật Ấn, Tô Đông Pha hét to: “Thầy có quyền gì nhục mạ tôi như vậy? Tôi không phải là một Phật tử nhiệt thành chỉ vì Phật pháp sao? Thầy biết tôi bao lâu rồi mà không thấy điều đó, thầy có mù không?” Phật Ấn im lặng nhìn Tô Đông Pha vài giây, rồi mỉm cười, chậm rãi nói: “Tô Đông Pha, nhà Phật tử vĩ đại tuyên bố rằng dù có tám gió thế gian hợp lại cũng không làm lay động chút nào, bây giờ chỉ có một phát rắm cũng làm cho ông ta bay từ bờ này sang bờ kia sông Dương tử!”

 (Thiền Đạo Tu Tập)

 

 

 

193. BÀ LÃO HAY KHÓC

 

Ngày xưa có một bà lão được người ta gọi là “bà lão hay khóc,” bởi vì lúc nào bà cũng khóc. Trời mưa bà cũng khóc, trời nắng bà cũng khóc.

Có người hỏi:

- Này bà lão, tại sao lúc nào bà cũng khóc?

Bà lão đáp:

- Bởi vì tôi có hai đứa con gái . . . Một đứa lấy anh bán giày, một đứa lấy anh bán dù. Những ngày trời nắng, tôi nghĩ việc bán dù của của đứa con gái lớn tôi mới ế ẩm làm sao, nên tôi khóc. Những ngàytrời mưa, tôi nghĩ không ai đến mua giày của đứa con gái nhỏ tôi, nên tôi khóc.

Người kia bảo:

- Nhưng tại sao bà không nghĩ con gái lớn của bà bán dù đắt hàng biết mấy vào những ngày mưa dầm, và con gái nhỏ của bà bán giày chạy như tôm tươi vào những ngày nắng ráo?

Bà lão tỉnh ra, kêu: “À há!” Rồi từ đó về sau, bà lão hay khóc không còn khóc nữa. Thay vào đó, bà luôn luôn vui vẻ mỉm cười bất kể trời nắng hay mưa. 

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

 

 

194. TÔI ĐÃ DIỆT HẾT TẬT XẤU RỒI

 

Một hôm, khi Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo đang ngồi thiền trong núi, một vị giám quân hồi hưu đến nói với sư về ý định đi tu của ông:

- Bạch thầy, khi nào tôi diệt hết các tật xấu của tôi, tôi sẽ trở lại làm đệ tử của thầy.

- Tốt.

Mấy hôm sau ông ta trở lại nói với sư:

- Bạch thầy, tôi đã diệt hết các tật xấu của tôi rồi.

- Sao ông thức dậy sớm thế? Vợ ông ở nhà đang ngủ với người đàn ông khác đó.

- Hừ, tên đầu trọc! Sao ngươi dám. . . ?!

- Tôi nghĩ rằng ông đi tu bây giờ hơi sớm đấy. Tốt hơn ông nên chạy về nhà tập tự kìm chế mình thêm nữa. 

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

195. CON NHỆN VÀ THIỀN TĂNG

 

Ngày xưa có một ông tăng mỗi khi ngồi thiền thì thấy có một con nhện khổng lồ đến quấy rầy, khiến ông không thể thiền định được. Ông đến trình thầy:

- Bạch thầy, mỗi khi con ngồi thiền con nhện khổng lồ ấy cứ xuất hiện, dù con làm gì cũng không thể đuổi nó đi được.

Sư bảo:

- Hừ, lần sau khi anh đi ngồi thiền, hãy mang theo cây bút lông, nếu con nhện ấy xuất hiện nữa, hãy vẽ lên bụng nó một vòng tròn; rồi anh sẽ biết nó thuộc loại ma nào.

Vì vậy, ông tăng nghe lời thầy khuyên, ngay khi ông tăng vẽ xong vòng tròn trên bụng con nhện, con nhện liền biến mất và ông tăng có thể an tâm tiếp tục toạ thiền.

Khi ông tăng xả tư thế thiền định, điều đầu tiên ông thấy là một cái vòng tròn bự màu đen ngay trên cái bụng của ông.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

196. GIÀU VÀ NGHÈO

 

Một hôm một anh nông dân khám phá ra một pho tượng vô giá trên sườn núi trong một khu rừng. Đó là pho tượng của một trong mười tám vị la hán.

- Chao ôi, một la hán bằng vàng!

- Có lẽ cả trăm lạng vàng ròng.

- Ha-ha, đủ để ăn cả đời không hết.

Gia đình và bè bạn của người nông dân, tất cả đều kích động vì vật tìm được. Nhưng người nông dân cảm thấy phiền muộn và chỉ ngồi quanh với cái nhìn tư lự trên khuôn mặt. . .

- Bây giờ anh giàu rồi, còn lo gì nữa?

- Lo cái gì?

- Tôi nghĩ không ra mười bảy tượng la hán kia ở đâu!

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

 

 

 

197. NÚI TU DI CHỨA TRONG HỘT CẢI

 

Thời nhà Đường ở Trung quốc có một cư sĩ tên là Lý Bột, rất thích đọc sách. Bởi vì ông đã đọc hơn mười ngàn quyển sách nên người ta gọi ông là Lý Vạn Quyển.

Một hôm, ông đến tham kiến Thiền sư Qui Tông Trí Thường, hỏi:

-Trong Kinh Duy Ma Cật có đoạn nói: “Một hột cải chứa trọn trong núi Tu Di, và núi Tu Di chứa trọn trong một hạt cải.” Phần đầu tin được, phần sau vô lý chăng? Làm sao một ngọn núi lớn như thế có thể chứa trọn trong một hạt cải nhỏ tí như vậy?

Qui Tông hỏi:

- Ông được gọi là Lý Vạn Quyển phải không? Làm sao mười ngàn quyển sách có thể chứa trọn trong cái sọ nhỏ xíu của ông?

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

198. TRÚC CAO, TRÚC THẤP

 

Một hôm Thanh Bình Linh Tuân hỏi Thúy Vi Vô Học:

- Đại ý Phật pháp là gì?

Thúy Vi bảo:

- Đợi đến lúc không có ai, tôi sẽ nói cho ông biết.

Khi mọi người đi hết, Linh Tuân nhắc:

- Bây giờ là lúc không có ai hết.

Thúy Vi bảo:

- Hãy theo tôi.

Thúy Vi dẫn Linh Tuân đến một khóm trúc ngoài vườn chùa, chỉ Linh Tuân xem, và nói:

- Trúc cao thì cao, trúc thấp thì thấp. Ngay đó, Linh Tuân ngộ được Đạo Thiền.

Một ông tăng khác hỏi Qui Tông Đạo Thuyên khi sư đang quan sát các khối đá trong núi Cửu Phong, chỗ sư ở:

- Ở đây có Phật pháp không?

Sư đáp:

- Có.

Ông tăng chưa hiểu bèn hỏi nữa, Đạo Thuyên đáp:

- Đá lớn thì lớn, đá nhỏ thì nhỏ.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

199. TÔI CHẲNG CÓ GÌ GIẤU ÔNG

 

Một hôm nhà nho Hoàng Sơn Cốc tham kiến Hối Đường Tổ Tâm, hỏi:

- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Hối Đường đáp:

- Khổng Tử nói rằng, “Ta không có gì dấu các anh.” Thiền cũng vậy, chẳng có gì dấu ông. Ông hiểu không?

Sơn Cốc nói:

- Dạ không.

Vì thế Hối Đường bảo:

- Hãy theo tôi ra phía sau núi này . . .

Khi đến bên một khóm hoa quế, mùi hương thơm ngát, Hối Đường hỏi:

- Ông có nghe mùi hoa quế thơm không?

Sơn Cốc đáp:

- Dạ có.

Hối Đường nói:

 

- Đấy, tôi cũng chẳng có gì dấu ông.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

200. KHÔNG TA KHÔNG NGƯỜI

 

Một hôm Vân Nham đến tham kiến Thiền sư Bách Trượng, gặp lúc Bách Trượng đang lao động, bèn hỏi:

- Hằng ngày hòa thượng đổ mồ hôi lao nhọc như thế này là vì ai?

Bách Trượng đáp:

- Có người cần vậy.

Vân Nham lại hỏi:

- Sao không bảo y tự làm lấy?

Bách Trượng đáp:

- Y chẳng tự mình làm được.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

201. VÌ CÓ TÔI Ở ĐÂY

 

Một hôm khi Vân Nham đang pha trà, thì sư huynh là Đạo Ngô bước vào thấy, liền hỏi:

- Trà cho ai đó ?

Vân Nham đáp:

- Có người cần uống.

Đạo Ngô hỏi tiếp:

- Người đó không biết tự làm lấy sao?

Vân Nham đáp:

- Chỉ vì có tôi ở đây.

 (Chơn Không Gầm Thét)

202. TIẾNG MƯA RƠI

 

Thiền sư Cảnh Thanh hỏi một đệ tử:

- Tiếng gì bên ngoài đó?

Đệ tử đáp:

- Tiếng mưa rơi.

Cảnh Thanh nói:

- Chúng sinh điên đảo, buông mình theo vật.

Đệ tử hỏi:

- Con nên hiểu thế nào?

Cảnh Thanh đáp:

- Ta là tiếng mưa rơi.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

203. TRỞ VỀ TAY KHÔNG

 

Lúc còn trẻ Thiền sư thạch Đầu Hy Thiên là đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng. Sau khi Huệ Năng nhập diệt, Thạch Đầu tiếp tục hành hương. . .

Sư đến tham kiến Đại sư Hành Tư ở Thanh Nguyên. Hành Tư hỏi:

- Ông từ đâu đến?

Thạch Đầu đáp:

- Từ Tào Khê đến.

Hành Tư hỏi tiếp:

- Ở Tào Khê ông được gì?

Thạch Đầu đáp:

- Trước khi đến Tào Khê, chẳng thiếu thứ gì.

Hành Tư lại hỏi:

- Vậy, tại sao đến?

Thạch Đầu đáp:

- Nếu không đến Tào Khê, làm sao biết mình chẳng từng thiếu?

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

 204. ĐI TRONG MƯA

 

Một ông thầy hỏi đám đệ tử:

- Hai người đang đi trong mưa, có một người không bị ướt. Có anh nào biết tại sao không?

 - Bởi vì người ấy mặc áo mưa.

 - Bởi vì mưa rải rác nên anh ta không bị ướt.

- Bởi vì một người đi trên đường phố và người kia đi trong chỗ có nhà cao che phủ.

Các đệ tử tranh nhau trả lời.

Ông thầy kết thúc:

 - Tất cả các anh đều tập trung vào một người không bị ướt, vì thế dĩ nhiên không ai khám phá ra sự thật. Nghe đây, khi tôi nói, “một người không bị ướt,” không phải là cả hai đều bị ướt sao?

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

205. CÓ VÀ KHÔNG

 

Có một tú tài tên là Trương Chuyết hỏi Thiền sư Trí Tạng ở Tây Đường:

- Có thiên đường và địa ngục không?

Trí Tạng đáp:

- Có.

Trương Chuyết phản đối:

- Cái đó không đúng. Tôi thường tham học với hòa thượng Cảnh Sơn, hòa thượng Cảnh Sơn luôn luôn nói chẳng có.

Trí Tạng hỏi:

- Ông có vợ con không?

Trương Chuyết đáp:

- Tôi có một vợ hai con.

Trí Tạng lại hỏi:

- Hoà thượng Cảnh Sơn có vợ con không?

Trương Chuyết đáp:

- Hoà thượng Cảnh Sơn là một nhà sư, làm sao có vợ con được?!

Trí Tạng nói:

- Này, đợi khi nào ông giống như hòa thượng Cảnh Sơn, không có gia đình rồi hãy nói không. 

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

206. THEO DÒNG MÀ ĐI

 

Sau khi ngộ Đạo nơi Đại sư Mã Tổ, Thiền sư Pháp Thường về trụ ở núi Đại Mai. Một hôm có một ông tăng hành cước lạc đường trong núi Đại Mai, chợt gặp sư. Ông tăng hỏi:

- Ngài ở núi này được bao lâu rồi?

 Pháp Thường đáp:

- Tôi chỉ thấy núi xanh lại vàng.

Ông tăng lại hỏi:

- Ngài có thể chỉ giúp tôi đường nào ra khỏi núi chăng?

Pháp Thường đáp:

 

- Cứ theo dòng mà đi.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

207. TỚI LUI ĐỀU KHÓ

 

Thiền sư Pháp Vân một hôm nói với các đệ tử:

- Giả sử anh đang ở trong tình thế nếu tiến tới, anh sẽ mất Đạo; nếu lùi lại, anh sẽ mất đời; và nếu chẳng tới cũng chẳng lùi, anh sẽ giống như hòn đá ngu si. Vậy anh sẽ làm gì? 

Một đệ tử hỏi:

- Có cách nào chúng ta có thể đừng trông giống thằng ngu không?

Sư đáp:

- Hãy bỏ cả khước từ và vướng mắc, và hành động theo tiềm năng.

Một đệ tử hỏi:

- Nhưng nếu hành động, liệu chúng ta có thể thoát được mất cả đạo lẫn đời không?

Sư đáp:

- Tới lui cùng lúc.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

208. KHÔNG BẰNG THẰNG HỀ

 

Bạch Vân Thủ Đoan là đệ tử của Dương Kỳ Phương Hội. Thủ Đoan là người rất cần mẫn nhưng thiếu óc khôi hài.

Có lần Dương Kỳ hỏi sư:

- Bổn sư của ông trước kia là ai ?

Thủ Đoan đáp:

- Tra Lăng Úc.

Dương Kỳ nói:

- Tôi nghe nói rằng Thiền sư Úc đã ngộ lúc ông ta trượt chân té từ trên cầu xuống nước. Ông ta còn làm bài kệ nữa.

Thủ Đoan đáp:

- Dạ đúng. Con vẫn còn nhớ bài kệ ấy.

Ta có hòn ngọc sáng,

Lâu rồi bụi phủ mờ.

Bây giờ bụi đã hết,

Sáng chiếu khắp núi sông.

Dương Kỳ bỗng cười lên ha,hả... và bỏ đi.

Thủ Đoan không hiểu được tại sao thầy cười và mất ngủ cả đêm.

Sáng sớm hôm sau, Thủ Đoan hỏi thầy:

- Bạch hòa thượng, tại sao hòa thượng lại cười bài kệ của thầy Úc dữ vậy?

Dương Kỳ hỏi:

- Ông có thấy mấy người Sơn Đông làm xiếc ngày hôm qua không?

Thủ Đoan đáp:

- Dạ có.

Dương Kỳ nói:

- Có một điểm ông không bằng mấy người làm xiếc ấy.

Thủ Đoan hỏi:

- Điểm gì thế, bạch hòa thượng?

- Bọn làm xiếc đó thích người ta cười, còn ông sợ người ta cười.

Ngay lời ấy, Thủ Đoan ngộ đạo.

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

209. CÁI GÌ CHẲNG PHẢI PHẬT PHÁP?

 

Một ông tăng đến từ giả Thiền sư Điểu Sào đi hành cước, nói:

- Cảm ơn hòa thượng tất cả mọi điều. Bây giờ con đi.

Điểu Sào hỏi:

 - Ông sẽ đi đâu?

 Đệ tử đáp:

 - Khắp các nơi để học Phật pháp.

 Điểu Sào bảo:

 - Nói đến Phật pháp tôi cũng có chút ít đây.

 Đệ tử hỏi:

 - Ở đâu vậy?

 Điểu Sào liền rút một sợi chỉ từ ống tay áo ra nói:

 - Đây chẳng phải là Phật pháp sao?

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

 

 

210. BẮT HƯ KHÔNG

 

Thạch Củng Huệ Tạng hỏi sư đệ là Tây Đường Trí Tạng:

- Chú bắt được hư không chăng?

Trí Tạng đáp:

- Hẳn rồi.

Thạch Củng bảo:

- Hãy thử xem.

- Được.

Nói xong, Trí Tạng đưa tay chụp lấy hư không.

Thạch Củng phê bình:

- Thế sao? Chú chẳng được chi hết.

Trí Tạng hỏi:

- Sư huynh bắt được chăng?

Thạch Củng liền nắm mũi Trí Tạng kéo mạnh. Trí Tạng kêu:

- Ui cha! Đau quá! Đau quá!

 (Chơn Không Gầm Thét)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Tám 2016(Xem: 6213)
Thiền là đề tài rất quan trọng trong đạo Phật, được đề cập rộng rãi trong kinh sách Phật giáo dưới nhiều hình thức và và trình bày nhiều phương pháp tu tập khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì Thiền không gì khác là một lẽ sống thực nghiệm tự nội, tuần tự đưa đến cứu cánh giác ngộ mà bất kỳ người nào quyết tâm tu học theo giáo pháp của Phật cũng cần trải qua, nếu muốn tìm thấy an lạc và giải thoát thực sự. Càng thực nghiệm được nhiều thì an lạc càng tăng trưởng sâu lắng cùng lúc tâm thức càng tiến gần đến giác ngộ trọn vẹn. Có thể nói rằng Thiền là lối đi duy nhất tuần tự đưa con người rời khỏi phiền não khổ đau, đạt đến cứu cánh giải thoát mà không có con đường thứ hai. Trong bài kinh Niệm xứ (Satipatthànasutta) được xem là nền tảng của nếp sống thiền định Phật giáo, Đức Phật xác nhận: “Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Tức là Bốn Niệm xứ”1.
08 Tháng Tám 2016(Xem: 5720)
10 Tháng Sáu 2016(Xem: 5754)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh đạo từ Chánh kiến cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy Lục độ, thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ.
21 Tháng Tư 2016(Xem: 6068)
Nếu có gặp vấn đề gì khó khăn, đau buồn hay khổ sở hãy thiền định, và thực tập như vậy giải quyết tất cả những vấn đề của bạn thông qua việc thực hành này.
23 Tháng Ba 2016(Xem: 7506)
Vạch cỏ dày rậm để truy tìm Nước rộng núi thẳm đường lại xa Tâm mệt sức kiệt chẳng thấy đâu Chỉ nghe, cây phong, tiếng ve sầu
01 Tháng Mười Một 2015(Xem: 7226)
Đây thực sự là một kiểu kích thích tìm hiểu khoa học thần kinh, vì đã có những viên ngọc trí tuệ trong truyền thống thiền định - Đức Đạt Lai Lạt Ma thường xuyên nói về điều này – rằng cách tốt nhất để chúng ta có được hạnh phúc là hãy độ lượng với những người khác. Và sự thực, bằng chứng khoa học cho thấy trong nhiều chân lý ấy, và cho thấy rằng có sự biến đổi có cấu trúc hệ thống trong não bộ có liên hệ tới các hành vi rộng lượng
29 Tháng Mười 2015(Xem: 15604)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân. Những câu hỏi của người mới bắt đầu hành thiền là: “Tôi phải ngồi như thế nào?” “Làm sao để không bị đau khi ngồi?”
26 Tháng Mười 2015(Xem: 7559)
Tâm Thiền, Tâm Ban Sơ được chúng tôi dịch từ nguyên tác, Zen Mind, Beginner’s Mind, gồm những bài tiểu tham do Shunryu Suzuki nói trực tiếp bằng tiếng Anh với đệ tử và được Marian Derby, một đệ tử thân cận của sư, thu âm trên băng, rồi chép lại, sau đó được Trudy Dixon, một đệ tử thân cận khác của sư, hiệu đính và sắp xếp lại thành sách.