3. Loại Trừ Những Cấu Uế Của Tâm/thanh Lọc Tâm

06 Tháng Giêng 201914:59(Xem: 2876)
VIỆN NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC VIỆT NAM
LỜI PHẬT DẠY
VỀ SỰ HÒA HỢP TRONG CỘNG ĐỒNG VÀ XÃ HỘI
HỢP TUYỂN TỪ KINH TẠNG PĀLI
The Buddha’s Teachings on Socialand Communal Harmony 
An Anthology of Discourses from the Pāli Canon
by
BHIKKHU BODHI
Wisdom Publications 2016
Việt dịch:
Nguyên Nhật Trần Như Mai
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC


Chương II. RÈN LUYỆN CÁ NHÂN

3. LOẠI TRỪ NHỮNG CẤU UẾ CỦA TÂM / THANH LỌC TÂM 

 

(1) Mười sáu loại  cấu uế của tâm.

 

“ Này các Tỷ-kheo, thế nào là những cấu uế phiền não của tâm ? Tham dục và tham lam bất chánh là một loại phiền não làm cấu uế tâm. Sân hận …giận dữ…thù nghịch…khinh thường… hỗn láo…đố kỵ…keo kiệt…dối trá… lừa gạt…bướng bỉnh…ganh đua… ngã mạn… kiêu căng…hợm hĩnh…phóng dật…là cấu uếcủa tâm. Biết rằng tham dục và tham lam bất chánh là cấu uếcủa tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó. Biết rằng sân hận… phóng dật là cấu uế của tâm, vị tỷ-kheo từ bỏ nó.”

 

                              ( Trung BK I, Kinh số 7: Kinh Ví Dụ Tấm Vải; tr 88)

 

(2) Hai loại ý niệm

 

“ Này các Tỷ-kheo, trước khi ta giác ngộ, khi ta còn là Bồ-tát chưa chứng đắc Chánh Giác, ta suy nghĩnhư sau: ‘ Ta hãy chia những ý niệm của ta thành hai loại.’ Rồi ta xếp các ý niệm về tham dụcsân hậnvà độc hại (dục tầm, sân tầm và hại tầm) vào loại thứ nhất, và ta xếp các ý niệm về ly dụcbao dung và vô hại ( ly dục tầm, vô sân tầm, vô hại tầm) vào loại thứ hai.

 

“ Rồi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết. Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên, ta hiểu rằng:  ‘Ý niệm bất thiện này đã khởi lên trong ta. Nó sẽ đưa đến tự hại mình, hại người, hại cả hai; nó ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn.’ Khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến tự hại mình’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại người’, ý niệm ấy liền tan biến; khi ta suy xét: “ Ý niệm này đưa đến hại cả  hai’, ý niệm ấy liền tan biến. Khi ta suy xét : ‘Ý niệm này ngăn cản trí tuệ, gây nhiều khó khăn trở ngại, không đưa đến Niết-bàn’ ; ý niệm ấy liền tan biến.  Khi một ý niệm về tham dục, một ý niệm về sân hận, một ý niệm độc hại khởi lên trong ta, ta từ bỏ nó, ta đoạn trừ nó, ta xả ly nó.

 

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thưởng xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về tham dục, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  ly dục để nuôi dưỡng ý niệm về tham dục, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về tham dục…  Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về sân hận… ý niệm độc hại, vị ấy đã từ  bỏ  ý niệm về  vô hại để nuôi dưỡng ý niệm về độc hại, như vậy tâm của vị ấy có khuynh hướng về độc hại.

 

“ Cũng giống như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, khi lúa đã trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ bò bằng cách dùng roi đánh và thúc đẩy liên tục vào bên này và bên kia đàn bò để kiểm soát và điều khiển chúng. Vì sao vậy? Bởi vì người mục đồng thấy rằng nếu để cho đàn bò đi lạc vào đồng lúa, anh ta sẽ bị đánh đập, tù tội, phạt vạ hay bị chưởi mắng. Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, sự thấp kém, sự cấu uế trong các tâm hành bất thiện, và ta đã thấy phước lành của xả ly trong các tâm hành thiện, là một hình thái làm tâm thanh tịnh,

 

 

“ Khi ta sống như vậy, tinh cần, nhiệt tâm, cương quyết, một  ý niệm về ly dụcbao dung và vô hại khởi lên trong ta. Ta hiểu như như thế này:’ Ý niệm thiện này đã khởi lên trong ta. Ý niệm này không đưa đến hại mình, hại người hoặc hại cả hai; nó giúp tăng trưởng trí tuệ, không gây khó khăn trở ngại, và đưa đến Niết-bàn. Nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ về ý niệm này chỉ một đêm, thậm chí một ngày, thậm chí một đêm và một ngày, ta không có gì phải sợ hãi nó. Nhưng nếu ta suy tư và ngẫm nghĩ quá nhiều, ta có thể làm cho thân mệt mỏi, và khi thân ta mệt mỏi, tâm có thể bị xáo trộn, và khi tâm bị xáo trộn thì  rất khó định tâm.’ Vì thế ta làm cho nội tâm vững chãi, làm tâm lắng dịu,  làm tâm hợp nhất và định tĩnh. Vì sao vậy ? Để cho tâm khỏi bị xáo trộn.

 

“ Này các Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bất cứ điều gì, điều ấy sẽ trở thành một khuynh hướng trong tâm của vị ấy. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về xả ly, vị ấy từ bỏ ý niệm về tham dục để phát triển ý niệm về xả ly, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về xả ly. Nếu vị ấy thường xuyên suy tư và nghĩ tưởng về bao dung..., nghĩ tưởng về vô hại, vị ấy từ bỏ ý niệm độc hại để phát triển ý niệm về vô hại, và như vậy tâm của vị ấy sẽ có khuynh hướng về vô hại.

 

“Cũng giống như vào tháng cuối cùng của mùa hè, khi tất cả lúa gạo đã được đem cất trong làng, người mục đồng chăn giữ đàn bò trong lúc ngồi dưới gốc cây hay ngồi ngoài trời, vì người ấy chỉ cần chú tâmbiết rằng đàn bò đang ở đó; củng vậy, ta cũng chỉ cần chú tâm tỉnh giác biết rằng các tâm hành thiện đang có mặt trong ta.”

 

 

                              ( Trung BK, Kinh số 19: Kinh Song Tầm, tr 261-265)

 

 

(3) Thực hành “ đoạn trừ phiền não ”

 

Thế Tôn dạy: “ Này Cunda, ông cần phải thực hành việc đoạn trừ phiền não (5) như thế này:

          (1) ‘ Người khác có thể gây tổn hại; ở đây chúng tôi nguyện không gây           tổn hại’ : đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          (2) ‘ Người khác có thể sát sanh; ở đây chúng tôi nguyện  từ bỏ sát sanh ’:        đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          (3) ‘ Người khác có thể lấy của không cho; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           lấy của không cho ’: đoạn trừ phiền não cần phải được thực hành như thế.

          (4) ‘ Người khác có thể không sống độc thân; ở đây chúng tôi nguyện sẽ           sống độc thân ’…

          (5) ‘ Người khác có thể nói láo; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói láo’....

 

          (6) ‘ Người khác có thể nói hai lưỡi ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           hai lưỡi’…

          (7) ‘ Người khác có thể nói lời độc ác ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ nói           lời độc ác’...

          (8) ‘ Người khác có thể nói lời phù phiếm ; ở đây chúng tôi nguyện từ bỏ           nói lời phù phiếm…

          (9) ‘ Người khác có thể tham dục; ở đây chúng tôi nguyện không tham           dục’ ...

          (10) ‘ Người khác có thể sân hận; ở đây chúng tôi nguyện bao dung’ ...

          (11) ‘ Người khác có thể có tà kiến; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           kiến’ ...

          (12) ‘ Người khác có thể có tà tư duy; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tư duy’ ...

          (13) ‘ Người khác có thể có tà ngữ; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           ngữ’ ...

          (14) ‘ Người khác có thể có tà nghiệp; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           nghiệp’ ...

          (15)  ‘ Người khác có thể có tà mạng; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           mạng’ ...

          (16)  ‘ Người khác có thể có tà tinh tấn; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           tinh tấn’ ...

          (17)  ‘ Người khác có thể có tà niệm; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           niệm’ ...

          (18) ‘ Người khác có thể có tà định; ở đây chúng tôi nguyện có chánh           định’ ...

          (19) ‘ Người khác có thể có tà trí; ở đây chúng tôi nguyện có chánh trí’ ...

          (20) ‘ Người khác có thể có tà giải thoát; ở đây chúng tôi nguyện có           chánh giải thoát’ ...

          (21) ‘ Người khác có thể bị dật dờ buồn ngủ chi phối; ở đây chúng tôi           nguyện thoát khỏi dật dờ buồn ngủ’ ...

          (22) ‘ Người khác có thể bị bất an; ở đây chúng tôi nguyện thoát khỏi bất           an’…

          (23) Người khác có thể nghi ngờ; ở đây chúng tôi nguyện không còn nghi   ngờ ’…

          (24) Người khác có thể tức giận; ở đây chúng tôi nguyện không tức           giận’…

          (25) Người khác có thể hung bạo; ở đây chúng tôi nguyện không hung           bạo’…

          (26) ) Người khác có thể khinh thường; ở đây chúng tôi nguyện không           khinh thường’…

          (27) ) Người khác có thể hỗn láo; ở đây chúng tôi nguyện không hỗn           láo’…

          (28) ) Người khác có thể đố kỵ ; ở đây chúng tôi nguyện không đố kỵ ’…

          (29) Người khác có thể keo kiệt; ở đây chúng tôi nguyện không keo kiệt ’         …

          (30) Người khác có thể lường gạt; ở đây chúng tôi nguyện không lường           gạt ’ …

          (31) Người khác có thể dối trá ; ở đây chúng tôi nguyện không dối trá ’           …

          (32) Người khác có thể bướng bỉnh; ở đây chúng tôi nguyện không bướng          bỉnh ’ …

          (33) Người khác có thể kiêu ngạo; ở đây chúng tôi nguyện không kiêu           ngạo ’ …

          (34) Người khác có thể khó khuyên răn dạy bảo; ở đây chúng tôi sẽ dễ           khuyên răn dạy bảo’ …

          (35) Người khác có thể có bạn xấu; ở đây chúng tôi có bạn tốt ’ …

          (36) Người khác có thể phóng dật; ở đây chúng tôi không phóng dật ’…

          (37) Người khác có thể không trung thành; ở đây chúng tôi trung thành ’…

          (38) Người khác có thể không biết hổ thẹn; ở đây chúng tôi biết hổ thẹn           ’…

          (39) Người khác có thể không biết sợ hãi khi làm điều ác; ở đây chúng tôi      biết sợ hãi khi làm điều ác ’…

          (40) Người khác có thể ít học hỏi; ở đây chúng tôi học hỏi rất nhiều ’…

          (41) Người khác có thể lười biếng; ở đây chúng tôi siêng năng ’…

          (42) Người khác có thể không có chánh niệm; ở đây chúng tôi có chánh           niệm ’…

          (43) Người khác có thể ngu si; ở đây chúng tôi có trí tuệ ’…

          (44) Người khác có thế dính mắc quan điểm của họ, chấp chặt quan điểm           ấy và khó xả bỏ chúng; ở đây chúng tôi không dính mắc quan điểm của           mình, không chấp chặt quan điểm ấy và dễ dàng xả bỏ chúng.’: đoạn trừ           phiền não cần phải được thực hành như thế.

 

                              ( Trung BK I, Kinh số 8: Kinh Đoạn Giảm, tr. 100-104)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
27 Tháng Mười Một 2015(Xem: 8363)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
20 Tháng Mười Một 2015(Xem: 6787)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa. Ngài Long Thọ đã trao truyền giáo huấn thậm thâm về tri kiến tánh Không của dòng truyền thừa từ Đức Văn Thù Sư Lợi, trong khi ngài Vô Trước thì trao truyền giáo huấn về pháp hành bồ tát sâu xa của dòng truyền thừa từ Đức Di Lặc.
17 Tháng Mười Một 2015(Xem: 5449)
Pháp thân Phật là tánh Không không hình không tướng ở khắp như hư không. Báo thân là quang minh và Hóa thân là thân vật chất; hai thân này được gọi là Sắc thân. Sắc thân được ứng hiện từ Pháp thân và không lìa Pháp thân. Một trong những tính cách của sắc thân là an lạc:
16 Tháng Bảy 2015(Xem: 4940)
Nói đến lòng sùng tín, sùng mộ và tin tưởng, có lẽ không phẩm nào của Kinh Đại Bát-nhã nói cụ thể và xúc động hơn phẩm Bồ-tát Thường Đề, kể về sự nhiệt thành khát khao cầu ngộ nhập tánh Không của một Bồ-tát. Sùng mộ, tin tưởng và nhiệt thành cầu thể nhập tánh Không đến độ thường hay khóc, do đó có tên Thường Đề.
10 Tháng Bảy 2015(Xem: 5827)
Mushin là một trong những nhà sư rạng rỡ hơn ai hết, trong tu viện. Sự an lạc và tính tình vui vẻ của ông, đã gây nguồn cảm hứng cho những ai tiếp xúc với ông.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 6399)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 5246)
Nếu một người chưa có dịp nghe, đọc (Văn), chưa tư duy (Tư) chưa thực hành (Tu) về tánh Không thì rất dễ xem tánh Không là một cái gì rất tiêu cực, vì tánh Không với người ấy là không có cái gì cả. Từ đó mà không tin nhân quả, định luật để con người dựa vào đó mà tiến bộ, tiến hóa.
24 Tháng Sáu 2015(Xem: 12037)
“Mặc dù trải qua 100 năm từ khi có sự bắt đầu những nghiên cứu khoa học về đạo Phật ở Châu Âu, tuy vậy, chúng ta vẫn còn đang mơ hồ về nền tảng giáo lý của tôn giáo nầy và tính triết học của nó. Chắc chắn không có một tôn giáo nào khác đã chứng tỏ một cách rất kiên định để làm sáng tỏ những trình bày có tính hệ thống của mình.”
12 Tháng Sáu 2015(Xem: 4783)
Như kinh Duy-ma-cật nói, “Từ gốc vô trụ (tánh Không), lập tất cả pháp”. Trung luận (phẩm Quán Tứ đế) nói, “Bởi vì có nghĩa Không. Tất cả pháp được thành. Nếu không có nghĩa Không. Tất cả đều chẳng thành”. Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụ là hiện thân của Ngài. Pháp thân Tỳ-lô-giá-na chính là pháp thân của Phật Thích Ca.
25 Tháng Tư 2015(Xem: 11289)
Phản chiếu trên việc một đối tượng duyên sinh như thế nào – sinh khởi phụ thuộc trên nhân và duyên, phụ thuộc trên những bộ phận của nó, và phụ thuộc trên tư tưởng – hổ trợ vô cùng để vượt thắng cảm nhận rằng đối tượng tồn tại trong nó và của chính nó.